MỤC LỤC
TÓM TẮT ĐỀ TÀI . 1
MỤC LỤC . 3
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ĐỒ THỊ . 5
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU . 7
LỜI MỞ ĐẦU . 8
CHưƠNG 1: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ ẢNH HưỞNG TỚI VIỆT NAM –
SỰ CẦN THIẾT CỦA GÓI KÍCH CẦU . 9
1.1 Xu hướng tác động của khủng hoảng thế giới – So sánh mức độ tác động của Đại suy thoái
và Khủng hoảng toàn cầu hiện nay . 9
1.2 Tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới đến Việt Nam trên phương diện lý thuyết . 12
1.3 Phân tích tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới đến Việt Nam qua các chỉ tiêu cụ thể. 14
1.3.1 Tác động đến hệ thống tài chính . 14
1.3.2 Tác động đến nền kinh tế . 14
1.3.2.1 Tăng trưởng kinh tế . 14
1.3.2.2 Xuất khẩu . 15
1.3.2.3 Đầu tư nước ngoài . 19
1.3.2.4 Tiêu dùng . 21
1.3.2.5 Doanh nghiệp . 21
1.3.2.6 Lao động . 21
1.3.2.7 Tác động khác . 22
1.4 Sự cần thiết của gói kích cầu . 22
CHưƠNG 2: CÁC PHẢN ỨNG CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐỐI PHÓ VỚI KHỦNG
HOẢNG . 24
2.1 Xu hướng các phản ứng chính sách chính phủ các nước thế giới đối phó với khủng hoảng
– một bước tiến mới từ bài học Đại suy thoái . 24
2.2 Các phản ứng chính sách của Chính Phủ Việt Nam đối phó với khủng hoảng. 25
2.2.1 Chính sách tiền tệ . 26
2.2.2 Chính sách tài khóa . 27
2.2.2.1 Chi tiêu của chính phủ . 27
2.2.2.2 Chính sách giảm thuế . 34
CHưƠNG 3: KÍCH CẦU VÀO ĐÂU LÀ HỢP LÝ . 39
3.1 Xem xét ảnh hưởng về kích cầu trong thành phần tổng cầu . 39
3.2 Xem xét ảnh hưởng về kích cầu theo ngành kinh tế . 39
3.3 Xem xét ảnh hưởng về kích cầu theo vùng . 40
3.4 Xem xét ảnh hưởng về kích cầu theo đối tượng . 42
3.4.1 Đối với người dân . 43
3.4.2 Đối với khu vực doanh nghiệp . 45
3.4.3 Đối với các hạng mục chi tiêu của chính phủ trong gói kích cầu . 45
CHưƠNG 4: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GÓI KÍCH CẦU . 49
4.1 Đo lường tác động các phản ứng chính sách của các nước trên thế giới . 49
4.2 Đánh giá hiệu quả gói kích cầu Việt Nam . 57
4.2.1 Xét về tính kịp thời . 58
4.2.1.1 Về mặt chính sách . 58
4.2.1.2 Về mặt thực thi . 60
4.2.2 Xét về mặt đúng đối tượng . 62
4.2.3 Xét về tính chất ngắn hạn . 63
4.2.4 Những thành tựu từ gói kích cầu . 65
4.2.5 Những mặt tiêu cực của gói kích cầu . 66
CHưƠNG 5 : BÀI HỌC – ĐỀ XUẤT NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỂ VIỆT NAM CHỐNG KHỦNG
HOẢNG TRONG TưƠNG LAI . 67
5.1 Bài học 1 - Căn bệnh bất ổn kinh tế vĩ mô . 67
5.1.1 Nhìn lại bất ổn kinh tế 2008 - Nguồn gốc sâu xa suy thoái Việt Nam . 67
5.1.2 Giải quyết những bất ổn vĩ mô . 68
5.2 Bài học 2 - Căn bệnh mô hình tăng trưởng dựa trên xuất khẩu – thu hút vốn nước ngoài 70
5.2.1 Chuyển đổi mô hình tăng trưởng xuất khẩu sang chú trọng thị trường nội địa . 70
5.2.2 Cơ cấu lại xuất khẩu . 71
5.3 Bài học 3 - Bài học từ gói kích cầu các nước - một bước đổi mới trong tư duy . 72
5.3.1 Các biện pháp chống suy thoái ở một số nước . 72
5.3.2 Bài học từ biện pháp chống khủng hoảng các nước- một bước đổi mới trong tư duy 76
5.3.3 Bài học định hướng phân bổ vốn. 78
5.3.4 Bài học từ cuộc chống suy thoái ở Việt Nam . 82
KẾT LUẬN . 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 90
PHỤ LỤC 1 . 91
PHỤ LỤC 2 .
116 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2437 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bài học từ gói kích cầu – hướng đi cho Việt Nam đối phó với khủng hoảng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2010 sau khi doanh nghiệp, ngƣời lao động
và Chính phủ mỗi bên đã đóng góp khoản phí bằng 1% tiền lƣơng đƣợc ít nhất 12 tháng. Đây là
điều đáng tiếc vì cơ hội sử dụng cơ chế này vào thời điểm hiện nay bị bỏ lỡ. Tuy nhiên, Chính
phủ có thể cân nhắc đƣa vào gói kích cầu của mình khoản trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp cho
những công nhân mất việc và có lƣơng bình quân thấp, ví dụ bình quân dƣới 1 triệu đồng/1 tháng
trong vòng 6 tháng (hay 1 năm cuối). Đây là những ngƣời nhiều khả năng không có tích lũy nên
rất cần đƣợc giúp đỡ (giúp tăng tính công bằng) và chắc chắn sẽ chi tiêu ngay để đáp ứng nhu
cầu cấp thiết (giúp tăng hiệu quả của kích cầu theo Nguyên tắc số 2). Về mặt tài chính, điều này
cũng có thể nhìn nhận nhƣ việc Chính phủ thông qua gói kích cầu ứng trƣớc phần đóng góp 1%
của mình vào quĩ bảo hiểm thất nghiệp. Nếu đƣợc thực hiện, về cơ bản, giải pháp này cũng đáp
ứng đƣợc cả 3 nguyên tắc kích cầu.
Gần đây Bộ Lao động Thƣơng Binh và Xã hội có Thông tƣ số 04 cho phép ngƣời thất
nghiệp đƣợc hƣởng 60% lƣơng đóng bảo hiểm xã hội và có số chính sách hỗ trợ ngƣời lao động
bị thất nghiệp nhƣ đƣợc học nghề, đƣợc đào tạo miễn phí. Chúng tôi đánh giá đây là một chính
sách đúng đắn, vừa đảm bảo đƣợc an sinh xã hội, vừa thực hiện đƣợc mục tiêu kích cầu đúng
hiệu quả và đúng đối tƣợng.
Người dân nói chung
Một trong những biện pháp hay đƣợc các nƣớc thực hiện để kích thích ngƣời dân tiêu
dung là tiến hành giảm/hoàn thuế đối với ngƣời dân. Trên thực tế, ở Việt Nam tồn tại nhiều loại
thuế khác nhau và điều hiển nhiên là các loại thuế khác nhau sẽ có ảnh hƣởng khác nhau tới mức
tiêu dùng của ngƣời dân. Hiện nay Bộ Tài chính đã có quyết định giãn thuế thu nhập cá nhân.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu trƣớc đây đã chỉ ra rằng việc giảm/hoàn thuế thu nhập không đem
lại hiệu quả kích cầu lớn, vì có đến tới 80% số tiền đƣợc giảm/hoàn thuế đƣợc ngƣời dân tiết
kiệm chứ không chi tiêu. Trong trƣờng hợp của Việt Nam, mặc dù hệ thống thuế thu nhập cá
nhân còn chƣa hoàn chỉnh, việc áp dụng biện pháp giảm/hoàn thuế sẽ không dễ dàng và hiệu quả
cũng sẽ không cao, nhƣng việc Chính phủ thực hiện việc miễn hoặc hoãn thực hiện Luật thuế thu
nhập cá nhân có thể tạo ra những hiệu ứng tâm lý tích cực, có thể làm ngƣời dân tăng chi tiêu.
Ngoài thuế thu nhập cá nhân, Chính phủ có thể tạm hoãn việc thực hiện thuế thu nhập từ chứng
khoán. Chính phủ đã có quyết định hoãn thuế thu nhập đến tháng 5/2009, tuy nhiên theo chúng
tôi, việc hoãn thực hiện thuế thu nhập cá nhân có thể và nên đƣợc kéo dài hơn nữa, tùy theo diễn
45
biến của suy thoái kinh tế.
Gần đây chính phủ cũng đã thực hiện việc cắt giảm thuế VAT đối với một số mặt hàng để
khuyến khích tiêu dùng. Theo tiến sĩ Lê Hồng Giang thì nên cắt VAT cho những mặt hàng thiết
yếu và có tỷ lệ nội địa hóa cao. Tuy nhiên, gần đây khi thực hiện chính sách giảm thuế VAT, có
thể nhận thấy hiệu ứng kích cầu của việc giảm thuế VAT đối với một số mặt hàng sẽ không cao,
ví dụ nhƣ mặt hàng linh kiện ô-tô (vi phạm nguyên tắc số 4 là ít rò rỉ ra hàng ngoại nhập).
3.4.2 Đối với khu vực doanh nghiệp
Đối với khu vực này, chính phủ đã có một số động thái nhƣ giảm thuế, bù lãi suất ở mức
4%, gia hạn thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm 2009. Tuy nhiên, nhƣ đã trình bày ở trên,
kích cầu đối với nền kinh tế trong ngắn hạn thông qua các biện pháp khuyến khích doanh nghiệp
thƣờng rất khó khăn. Điều này là do các doanh nghiệp sẽ chỉ tiến hành mua sắm, đầu tƣ, thuê
tuyển thêm nhân công mới nếu nhƣ họ thấy có lợi, thấy có cầu đối với hàng hóa mà họ sản xuất
ra, chứ không chỉ dựa trên các khuyến khích về thuế. Gần đây có một số sáng kiến để kích cầu
trong khối doanh nghiệp đã đƣợc các nhà nghiên cứu đƣa ra, và Việt Nam có thể tham khảo để
giúp cho gói kích cầu của chính phủ đạt hiệu quả hơn. Đó là: (i) Giảm đóng góp của doanh
nghiệp vào quỹ bảo hiểm xã hội; (ii) Hoãn hoặc tạm dừng việc đóng góp vào các quĩ nhƣ quĩ bảo
hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, đồng thời tăng chi từ các quĩ này. Ý tƣởng là
giảm chi phí lao động của doanh nghiệp để qua đó khuyến khích họ không sa thải công nhân.
Ngoài các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp thông qua giảm thuế và hỗ trợ lãi suất, chính
phủ có thể cân nhắc một số biện pháp nhằm vào một số đối tƣợng nhƣ sau:
Đối với các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động: Có các biện pháp hỗ trợ ngắn hạn
cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động để họ hạn chế hoặc không sa thải lao động.
Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu: Có các biện pháp hỗ trợ và khuyến khích
doanh nghiệp tìm các thị trƣờng XK mới. Trong năm 2008, trong khi Việt Nam gặp khá nhiều
khó khăn tại các thị trƣờng truyền thống, thì tại các thị trƣờng mới, hàng xuất khẩu của Việt
Nam lại khá thành công.
3.4.3 Đối với các hạng mục chi tiêu của chính phủ trong gói kích cầu
Cho đến nay vẫn chƣa có các thông tin cụ thể và rõ ràng về cấu phần chi tiêu trực tiếp của
chính phủ trong gói kích cầu. Tuy nhiên chúng tôi cho rằng chính phủ nên đầu tƣ vào các lĩnh
vực sau:
Đầu tƣ cho đào tạo và giáo dục, đặc biệt là những dự án có thể giải ngân ngay và sử
dụng nguồn lực trong nƣớc. Nhƣ vậy, chúng ta vừa đảm bảo đƣợc yếu tố thời gian nhằm kích
46
thích nền kinh tế trong ngắn hạn, vừa đảm bảo đƣợc tầm nhìn dài hạn thông qua việc nâng cao
nguồn nhân lực để khi nền kinh tế suy thoái chúng ta có thể duy trì đƣợc một lực lƣợng sản
xuất có tay nghề để phục vụ phát triển kinh tế. Đồng thời khi đầu tƣ vào lĩnh vực giáo dục,
thì ta sẽ hạn chế đƣợc việc kích cầu đối với hàng hóa và dịch vụ của nƣớc khác. Do đó, chúng
tôi đề xuất trong gói kích cầu nên dành một ngân sách đáng kể chi cho việc nâng cấp các cơ
sở vật chất của ngành giáo dục (đặc biệt là các vùng xa, vùng cao, vùng nông thôn), tăng
lƣơng cho giáo viên, tăng học bổng, miễn giảm học phí cho sinh viên, cung cấp sách sách vở
và các phƣơng tiện học tập miễn phí cho học sinh tại các vùng khó khăn.
Đầu tƣ cho cơ sở hạ tầng nông thôn, đặc biệt là các dự án nhỏ, có khả năng triển khai
nhanh và hoàn thành sớm: Các dự án cơ sở hạ tầng nông thôn có vai trò hết sức quan trọng
trong việc cải thiện năng lực cạnh tranh của hàng hóa nông sản của Việt Nam (cả khi bán
trong nƣớc cũng nhƣ khi xuất khẩu). Trong thời gian kinh tế suy thoái, việc đầu tƣ vào xây
dựng các dự án cơ sở hạ tầng và giao thông ở qui mô nhỏ ở nông thôn sẽ đảm bảo đƣợc yếu tố
thời gian, đúng đối tƣợng và về lâu dài sẽ hỗ trợ việc sản xuất và XK hàng hóa của Việt
Nam. Gần đây việc nhà nƣớc tăng cƣờng mua lƣơng thực của nông dân để phục vụ mục đích
dự trữ quốc gia cũng có thể đƣợc coi là một chính sách kích cầu tốt và hiệu quả. Ngoài việc mua
lƣơng thực của nông dân, một giải pháp có liên quan là xây dựng cơ sở hạ tầng kho chứa lƣơng
thực hiện đã quá tải và xuông cấp của ta.
Đầu tƣ vào các dự án thâm dụng lao động, không đòi hỏi phải nhập khẩu nhiều và giúp
khắc phục những ách tắc chủ yếu trong nền kinh tế. Điều này có nghĩa là cần tập trung vào
các dự án ở các trung tâm kinh tế lớn với vai trò tạo ra tăng trƣởng và việc làm cho toàn nền
kinh tế. Chính phủ nên tạm dừng những dự án thâm dụng vốn và phải nhập khẩu nhiều. Các dự
án không có luận chứng kinh tế thuyết phục nhƣ lọc dầu và tổ hợp cảng cần phải bị hủy bỏ.
Trong năm 2009, ƣu tiên trong đầu tƣ của chính phủ phải đƣợc dành cho các dự án
tạo việc làm để bảo vệ thu nhập cho ngƣời lao động, duy trì nhu cầu nội địa để giảm thiểu
thâm hụt thƣơng mại và khuyến khích sản xuất trong nƣớc. Đầu tƣ công cũng phải tập
trung vào việc cung ứng những cơ sở hạ tầng cơ bản cho những khu vực và ngành kinh tế
thâm dụng lao động nhiều nhất và tạo ra kim ngạch xuất khẩu. Chẳng hạn nhƣ, sự bất cập và
chậm trễ trong hoạt động bảo dƣỡng, cải tạo hệ thống thủy lợi và thoát nƣớc đã làm xói
mòn hiệu quả của đầu tƣ công trong lĩnh vực nông nghiệp. Xu hƣớng phổ biến hiện nay là
chú trọng quá mức tới việc xây mới trong khi không quan tâm đúng mức tới việc bảo dƣỡng
và duy trì hệ thống tƣới tiêu hiện có; trong khi đó, hoạt động bảo dƣỡng và quản lý hệ
thống thủy lợi và tƣới tiêu không chỉ tạo ra nhiều việc làm mà còn giúp nâng cao năng suất
nông nghiệp.
47
Ở một thái cực khác, những dự án nhƣ: xây dựng nhà máy lọc dầu, cảng biển…vừa sử
dụng vốn không hiệu quả, vừa không tạo ra nhiều việc làm mới, vừa dẫn tới thâm hụt ngân
sách và thƣơng mại. Vì vậy, Chính phủ cần cắt giảm đầu tƣ trong những khu vực này.
NHẬN XÉT
Từ những quan điểm của các bài nghiên cứu trên, chúng tôi đúc kết ra những bài học về
vấn đề sử dụng gói kích cầu để kích thích cho nền kinh tế Việt Nam. Trƣớc hết, để giải đáp vấn
đề đối tƣợng ƣu tiên cho kích cầu, chúng ta cần phải trả lời cho các câu hỏi sau:
Nhƣ vậy, khi thực hiện một gói kích cầu, chính phủ nên tập trung ƣu tiên kích vào lĩnh
vực nào?
Và trong từng lĩnh vực cụ thể đó, nên ƣu tiên kích vào đối tƣợng nào?
Chúng tôi đƣa ra quan điểm của mình nhƣ sau:
Theo đẳng thức của Keynes, chính phủ có thể thực hiện kích cầu thông qua việc kích vào
3 chỉ tiêu là: tiêu dùng (C), đầu tƣ (I), và chi tiêu chính phủ (G). Trong đó;
Về tiêu dùng: chú trọng kích vào tiêu dùng nội địa, với đối tƣợng trọng tâm để kích vào
là vào các đối tƣợng dễ bị tổn thƣơng là ngƣời lao động thu nhập thấp, hoặc gặp khó khăn (thất
nghiệp hoặc bị mất việc làm) và ngƣời nghèo. Tiến hành xây dựng hệ thống an sinh xã hội, mà
cụ thể là hệ thống bảo hiểm thất nghiệp.
Vì nhƣ đã trình bày ở trên, cùng một đồng đƣợc sử dụng để kích thích, thì đối tƣợng
ngƣời nghèo, thu nhập thấp sẽ tiêu dùng hết lƣợng tiền đó và vì vậy làm cho tổng cầu gia tăng
ngay lập tức và nhiều hơn so với lƣợng cầu do đối tƣợng thu nhập cao tạo ra. Vì thế, kích vào
nhóm đối tƣợng này chúng ta vừa đảm bảo đƣợc yếu tố công bằng, an sinh xã hội, vừa đảm bảo
đƣợc hiệu quả kích cầu.
Về đầu tƣ: nên kích vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ thâm dụng lao động đang gặp
nhiều khó khăn giúp họ duy trì việc làm, có các biện pháp hỗ trợ ngắn hạn để họ hạn chế hoặc
không sa thải lao động. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, cần có các biện pháp hỗ trợ và
khuyến khích doanh nghiệp tìm các thị trƣờng xuất khẩu mới. Chúng tôi khuyến nghị chỉ hỗ trợ
cho những doanh nghiệp có năng lực thật sự, sẵn sàng loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém.
Ngoài ra, để giúp các doanh nghiệp tăng đầu tƣ, cần thực hiện thêm một số biện pháp
ngoài việc giảm thuế hay hỗ trợ lãi suất nhƣ: giảm đóng góp của doanh nghiệp vào quỹ bảo hiểm
xã hội; hoãn hoặc tạm dừng việc đóng góp vào các quĩ nhƣ quĩ bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, đồng thời tăng chi từ các quĩ này. Từ đó làm giảm chi phí lao động của
doanh nghiệp để qua đó khuyến khích họ không sa thải công nhân. Điều này là do các doanh
nghiệp sẽ chỉ tiến hành mua sắm, đầu tƣ, thuê tuyển thêm nhân công mới nếu nhƣ họ thấy có lợi,
thấy có cầu đối với hàng hóa mà họ sản xuất ra.
48
Về chi tiêu chính phủ: nên tập trung đầu tƣ vào cơ sở hạ tầng – đặc biệt là khu vực nông
thôn, giáo dục, y tế; tập trung vào các công trình sử dụng nhiều lao động, có thể thực hiện đƣợc
ngay, tiến độ giải ngân sớm.
Một cách lý tƣởng, các gói kích thích của Nhà nƣớc nên đƣợc bơm cho khu vực tƣ nhân,
nhƣ mua dịch vụ từ khu vực tƣ nhân, hoặc thuê các doanh nghiệp tƣ nhân đầu tƣ vào các công
trình mong muốn. Tuy nhiên, trên thực tế, Chính phủ thƣờng có khuynh hƣớng dẫn nguồn lực
vào khu vực nhà nƣớc, vốn là khu vực quen thuộc hơn, và thuận lợi về mặt kỹ thuật.
49
CHƢƠNG 4: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GÓI KÍCH CẦU
4.1 Đo lường tác động các phản ứng chính sách của các nước trên thế
giới
Chúng tôi sử dụng 3 mô hình để đo lƣờng tác động của chính sách tài khóa và chính sách
tiền tệ trên thế giới hiện nay để đối phó với khủng hoảng, bao gồm mô hình VAR, mô hình IV kỹ
thật, mô hình OLS. Trong đó chúng tôi nhấn mạnh đến mô hình Var, là mô hình đƣợc nhiều nhà
nghiên cứu trên thế giới sử dụng nhiều nhất để đo lƣờng tác động chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ. Ý tƣởng của mô hình Var là dựa trên những tác động của chính sách tài khóa và
chính sách tiền tệ trong giai đoạn 1925-1939, mô hình tiến hành tự hồi quy để đo lƣờng đƣợc
những số nhân. Dựa trên những số nhân này, chúng tôi có thể dự báo đƣợc tác động của chính
sách tài khóa và chính sách tiền tệ khi chính phủ tiến hành thực hiện chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ mở rộng để đối phó với khủng hoảng.
Chúng tôi ƣớc lƣợng tác động của chính sách tiền tệ và tài khóa trong suốt thời kì giữa
hai cuộc chiến tranh bằng việc sử dụng bảng dữ liệu của 27 quốc gia giai đoạn 1925 – 193922.
Việc ƣớc lƣợng này theo nhiều cách, sử dụng kĩ thuật Var, hồi quy, và các biến số.
Ƣớc lƣợng Var
Chúng tôi bắt đầu bằng việc ƣớc lƣợng các số nhân chi tiêu chính phủ theo mô hình Var,
dựa trên thứ tự hồi quy để nhận biết các cú sốc. Bởi vì những giả định về thứ tự là chủ yếu cho
các chiến lƣợc định dạng, căn cứ vào sự thiếu hụt của nhiều cấu trúc hơn, khá quan trọng để
công nhận rằng có ít sự nhất trí hoàn toàn trên thứ tự thích hợp khi mà tổng chi tiêu chính phủ là
một biến về thu chi ngân sách mà các tác động về sản lƣợng của nó là điều mà chúng ta cần phải
xem xét. Giả định chung là chi tiêu chính phủ không phản ứng đối với sản lƣợng trong giai đoạn
hiện nay: đồng thời chi tiêu của chính phủ là biến hoàn toàn “ngoại sinh” đối với sản lƣợng. Tuy
nhiên những ngƣời chịu trách nhiệm về các quyết định chi tiêu chính phủ lại luôn ghi nhớ trong
đầu tác động của các quyết định này với sự dịch chuyển sản lƣợng trong tƣơng lai – bởi vì họ lo
lắng về mức độ trầm trọng của cuộc suy thoái đang đe dọa – thì thứ tự này lại là vấn đề. Điều
này đƣợc chứng tỏ rằng trong suốt cuộc Đại suy thoái, trƣớc thành tựu của Keynesianism và có
một sự thừa nhận rằng các quyết định về chi tiêu có thể đƣợc sử dụng để bù đắp sự thay đổi cả
hiện tại và tƣơng lai, sản lƣợng lẫn việc làm, giả định này thì có thể đƣợc bảo vệ. Tuy nhiên, nếu
không kể đến thời hạn thì giả định này sẽ trở nên mạnh mẽ.
22 Úc, Bulgaria, Canada, Chile, Colombia, Đan Mạch, Hy Lạp, Ấn Độ, Nhật Bản, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Bồ Đào Nha,
Tây Ban Nha, Tiệp Khắc, Argentina, Áo, Bỉ, Phần Lan, Pháp, Đức, Hungary, Ý, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Vƣơng quốc Anh và Hoa
Kỳ.
50
Đề cập đến vấn đề này, chúng ta sử dụng chi tiêu quốc phòng nhƣ là một biến về chính
sách tài khóa. Đây là chiến lƣợc đƣợc chấp nhận bởi Blanchard và Perotti (2002) nghiên cứu các
số nhân chính sách tài khóa của Mỹ từ những năm 195023. Các số nhân của chi tiêu quốc phòng
từ 0,87 đến 2,5 trong trƣờng hợp cụ thể mà có bao gồm xu hƣớng quyết định, và từ 0,82 đến 1,91
trong mô hình theo xu hƣớng ngẫu nhiên. Trong một bài nghiên cứu gần đây Barro và Redlick
(2009) cũng nghiên cứu tác động của chi tiêu quốc phòng lên sản lƣợng theo một mô hình
phƣơng trình đơn giản sử dụng số liệu theo năm của Mỹ cho giai đọan 1912 – 200624. Kết quả
của họ cho thấy rằng các số nhân chi tiêu quốc phòng nằm trong khoảng từ 0,59 đến 0,77; dựa
trên các thời hạn. Tƣơng tự nhƣ Hall (2009) sử dụng thay đổi trong chi tiêu quốc phòng của Mỹ
để ƣớc tính các số nhân tài khóa cho những thời kì phụ từ năm 1930 đến 2008. Các số nhân này
trong khoảng từ 0,36 đến 0,55.
Khi đánh giá tác động của chính sách tiền tệ, Romer (1992) đã xem xét xu hƣớng của
khối tiền M1. Trong các thống kê không đƣợc trình bày trong bài nghiên cứu này, chúng tôi nhận
thấy rằng có một mối liên hệ vững chắc giữa khối tiền M1 và GDP quốc tế trong suốt thời kì
này
25. Tuy nhiên, M1 đƣợc xác định không phải bởi cơ số tiền tệ - cơ số tiền tệ đƣợc đặt dƣới sự
kiểm soát của ngân hàng trung ƣơng, mà đƣợc xác định bởi số nhân tiền tệ, đây là một biến nội
sinh
26
. Vì lí do này, chúng tôi đã chọn sử dụng lãi suất chiết khấu của ngân hàng trung ƣơng để
đo lƣờng chính sách tiền tệ.
Theo quan điểm toàn cầu , vấn đề cần phải bàn đến là các số nhân bắt nguồn từ kinh
nghiệm của một quốc gia (nhƣ Romer, Blanchard-Perotti, Barro-Redlick và Hall đã thực hiện).
Thay vào đó, chúng tôi sẽ ƣớc lƣợng chúng bằng cách sử dụng bảng số liệu của 27 quốc gia và
dữ liệu cho giai đoạn 1925-1939. Chúng tôi nghiên cứu tác động của chi tiêu quốc phòng và các
cú sốc tiền tệ bằng việc ƣớc tính dạng rút gọn của mô hình cấu trúc sau:
27
là một vector chứa các biến nội sinh của hệ thống. G là viết tắt của
chi tiêu quốc phòng, Y là GDP, T là thu nhập chính phủ và R là lãi suất chiết khấu của ngân hàng
23 Dƣới đây chúng tôi báo cáo một số phân tích độ nhạy thay thế cho tổng chi phí quốc phòng của chính phủ.
24 Kể từ sự tập trung của họ là ngày quân đội Hoa Kỳ xây dựng trong thời gian chiến tranh, chúng bao gồm nhƣ là các biến giải
thích thay đổi cho chi tiêu quốc phòng và biến này tƣơng tác với một biến giả chiến tranh.
25 Cụ thể, tại những chức năng phản ứng xung lực của ƣớc lƣợng Vars tƣơng tự cho những báo cáo ngay dƣới đây, nhƣng với M1
tại các tỷ lệ chiết khấu ngân hàng trung ƣơng, có ý nghĩa thống kê mạnh mẽ và khá hiệu quả của cú sốc M1 trên GDP.
26 Vì vậy, không đáng ngạc nhiên rằng có những mối tƣơng quan mạnh mẽ giữa M1 và GDP trong dữ liệu.
27 Công thức biến đổi đƣợc đƣa ra bởi từ ,
51
trung ƣơng28. A là một ma trận không suy biến biểu diễn các mối quan hệ đồng thời giữa các
biến nội sinh và đƣợc cho bởi:
A (L) là ma trận đa thức với độ trễ L biểu diễn mối quan hệ giữa các biến nội sinh và độ
trễ của chúng. Theo thông tin Akaike và Tiêu chuẩn Thông tin Schwarz Bayes, chúng tôi tính
đến một độ trễ cho mỗi biến nội sinh. Đầu tiên, một độ trễ tạo ra đủ để loại trừ sự tự tƣơng quan
số dƣ. Chúng tôi kiểm soát sự không đồng nhất các trƣờng hợp cụ thể của từng quốc gia bằng
cách bao gồm các quốc gia đã cố định các tác động và xu hƣớng tuyến tính29. Điều thứ hai đƣợc
gộp vào để gây ra tính dừng. Chúng tôi gộp các biến giả năm để kiểm soát sự tự tƣơng quan
thặng dƣ giữa các quốc gia. Vectơ X chứa đựng điều này, và ma trận C là hệ số liên quan. Cuối
cùng, e bao gồm những cú sốc về cấu trúc không tƣơng quan lẫn nhau ảnh hƣởng đến mỗi biến
nội sinh.
Nhƣ đã nói ở trên, chúng tôi nhận biết các cú sốc bằng cách sử dụng một sự sắp xếp thứ
tự hồi quy. Nghĩa là, chúng tôi giả định một số biến thì không phản ứng lại đối với các cú sốc so
đồng thời với các biến khác. Chúng tôi áp đặt A0 bằng zero:
Điều này hàm ý rằng chi tiêu quốc phòng thì không phản ứng đồng thời đến các cú sốc
của Y, T hoặc R, mà Y thì lại không phản ứng với cú sốc của T và R, và T thì không phản ứng
với cú sốc của R.
Nhƣ đã nói ở trên, giả định G không phản ứng với các cú sốc của sản lƣợng đầu ra phù
hợp với logic và bằng chứng cho thấy rằng thông tin phản hồi trong năm từ GDP đối với chi tiêu
chính phủ thì không đáng kể30. Quan trọng hơn, giả định này sẽ đƣợc bảo vệ hơn khi biến chi
tiêu chính phủ là chi tiêu quốc phòng chứ không phải là tổng chi tiêu, vì chi tiêu quốc phòng thì
phản ứng với những cái khác hơn là thay đổi trong GDP. Trong thập niên 1930, điều này đã
28 Biến tài chính giảm phát thì sử dụng chỉ số giảm phát GDP. Để đảm bảo tính đồng nhất xuyên quốc gia, chúng tôi xây dựng
chỉ số cho chi tiêu quốc phòng, doanh thu và GDP. Mô hình này đƣợc ƣớc tính bằng cách sử dụng các hàm log của các biến này.
29 Tính dừng cũng đã đƣợc kiểm tra bằng cách sử dụng hai thử nghiệm loại Fisher (dựa trên thử nghiệm tăng them của Dickey-
Fuller và Phillips-perron). Chúng tôi thấy rằng doanh thu và lãi suất chiết khấu ngân hàng trung ƣơng thì ổn định. Ngƣợc lại,
chúng tôi không thể bác bỏ giả thuyết bằng không của một đơn vị gốc trong chi tiêu quốc phòng hoặc GDP. Sự báo trƣớc là sức
mạnh của các thử nghiệm này có thể bị suy yếu qua các khoảng thời gian ngắn (nhiều nhất là 15 năm). Tuy nhiên, vì chúng định
nghĩa và xu hƣớng mỗi biến bao gồm trong VAR, hệ thống dƣờng nhƣ kém ổn định
30 Beetsma et (2006 al) ƣớc tính một bảng VAR cho Phần Lan, Pháp, Đức, Ý, Hà Lan, Thụy Điển và Anh sử dụng dữ liệu quý
không nội suy và giả định rằng chi tiêu chính phủ không phản ứng với cú sốc sản lƣợng trong vòng một quý (nhƣ trong Perotti
2005). Với mô hình này, sau đó họ xây dựng ƣớc tính của các phản ứng chi tiêu của chính phủ đối với các cú sốc sản lƣợng hàng
năm. Những phát hiện của họ cho rằng không có phản ứng với cú sốc sản lƣợng trong vòng một năm. Hơn nữa, một số nghiên
cứu khác cũng cho rằng mức chi tiêu chính phủ có tác động đồng thời đối với sản lƣợng (Blanchard và Perotti 2002, 2005 Perotti,
Monacelli và Perotti 2006, Gali et al 2007, Ravn et al 2007 và Beetsma et al 2008).
52
đƣợc thúc đẩy trên tất cả các chƣơng trình tái vũ trang của Hitler và các nỗ lực quốc gia khác để
phù hợp với Đức Quốc xã trong phạm vi ảnh hƣởng này, và bởi một sự kiện là cuộc chiến tranh
của Italy tại Abyssinia.
Chúng tôi đặt thu nhập chính phủ ở vị trí thứ ba vì biến số đó phản ứng với mức độ hoạt
động kinh tế thông qua các hoạt động của hệ thống thuế31. T đƣợc đặt sau G với lý do chi tiêu
của chính phủ thì đã đƣợc dự tính trong ngân sách – mà đƣợc trình bày trƣớc khi bắt đầu năm tài
chính (Beetma el lúc 2006). Trong bối cảnh của chúng ta, điều này cũng có ý nghĩa khi nghĩ rằng
chính quyền điều chỉnh các khoản thu nhập, một phần, để đáp ứng với những thay đổi trong nhu
cầu về chi tiêu quốc phòng. Cuối cùng, nhƣ trong Christiano et (2005 al), chúng tôi giả định rằng
những cú sốc của chính sách tiền tệ thì không ảnh hƣởng đồng thời đến GDP32. Nghĩa là, chúng
ta đặt lãi suất chiết khấu của ngân hàng trung ƣơng ở vị trí cuối cùng, nhƣng nhƣ đƣợc trình bày
dƣới đây, chúng tôi kiểm tra độ bền của kết quả của chúng tôi để thay đổi các giả định này. Tóm
lại, chúng tôi sẽ sử dụng theo thứ tự Cholesky sau: G, Y, T, R.
Kết quả
Vì chi tiêu quốc phòng thực (đại diện cho chi tiêu chính phủ của chúng tôi) và GDP thực
thì ở dạng hàm log, nên mô hình của chúng tôi cho ra kết quả có độ co giãn đặc biệt đối với chi
tiêu quốc phòng. Để chuyển đổi thành một số nhân chi tiêu quốc phòng chúng tôi chia nó theo tỷ
lệ chi tiêu quốc phòng của chính phủ đối với GDP, trên (số liệu cơ sở) giả định rằng điều này là
nhƣ nhau trên khắp các quốc gia (tỷ số số liệu cơ sở là 2.4%)33. Các cú sốc chi tiêu quốc phòng
thì tƣơng đƣơng với 1% GDP. Đối với các cú sốc ảnh hƣởng đến lãi suất chiết khấu của ngân
hàng trung ƣơng, chúng tôi không sử dụng thang tỷ lệ. Các cú sốc lãi suất chiết khấu đƣợc giả
định là thay đổi điểm 1%.
Hình 26 (phụ lục 1) biểu thị sự phản ứng đối với một cú sốc của chi tiêu quốc phòng. Nó
cho thấy sự đổi mới trong biến này thì đƣợc mở rộng. Cú sốc này giải thích, trung bình có 6% sai
số dự báo theo phƣơng trình GDP trong suốt 5 năm. Số nhân chi tiêu quốc phòng là 2,5 đối với
năm tác động và 1,2 sau năm đầu tiên. Đây là cận trên của dãy các số nhân ƣớc tính bằng cách sử
dụng dữ liệu chi tiêu công hiện đại của Mỹ34. Sự thiếu hụt một tác động chính sách tài khóa đối
với kết quả đầu ra trong năm 1930 không phản ánh sự thiếu hụt của một số nhân chính sách tài
31 Ngƣợc lại, Beetsma et (2006 al), Blanchard và Perotti (2002) và Perotti (2005) đặt doanh thu sau chi tiêu của chính phủ và
trƣớc sản lƣợng. Tuy nhiên, biện pháp đo lƣờng doanh thu của họ là thu nhập đƣợc điều chỉnh sau thuế theo chu kỳ. Biện pháp
của chúng tôi là không chu y điều chỉnh. Do đó, nó sẻ phản ứng với các cú sốc sản lƣợng trong cùng năm. Theo một thử nghiệm,
chúng tôi cũng ƣớc tính mô hình thay thế doanh thu trƣớc sản lƣợng và tìm thấy rằng những phản ứng sản lƣợng đối với cú sốc
của chi tiêu của chính phủ là không thay đổi
Phải thừa nhận rằng giả định của chúng tôi là mạnh mẽ hơn kể từ khi chúng tôi sử dụng dữ liệu hàng năm
32 Phải thừa nhận rằng giả định của chúng tôi là mạnh mẽ hơn kể từ khi chúng tôi sử dụng dữ liệu hàng năm
33 Để xây dựng nó, chúng tôi tính toán trung bình của tổng chi tiêu quốc phòng đƣợc chia theo GDP trong thời gian 1925-1939
giữa các quốc gia
34 Chúng thì lớn hơn đáng kể so với số nhân chi tiêu quốc phòng Mỹ đƣợc báo cáo bởi Hall (2009)
53
khóa tích cực, và điều này sẽ xuất hiện. Lƣu ý rằng đây cũng là kết luận của Romer (1992) trong
việc thực hiện lấy chuẩn (căn chỉnh) của mình đối với Hoa Kỳ trong những năm 1930.
Hình 27 (phụ lục 1) biểu thị sự phản ứng đối với một cú sốc đơn vị của lãi suất chiết
khấu ngân hàng trung ƣơng. Phần trăm phƣơng sai dự báo trong phƣơng trình GDP có thể quy
cho cú sốc này là nhỏ. Trung bình biến này chỉ giải thích có 1% phƣơng sai dự báo GDP cho một
khoảng thời gian 5 năm. Trong khi đó, một cú sốc tích cực ảnh hƣởng đến lãi suất chiết khấu thì
liên quan tới một sự suy giảm trong GDP, tuy nhiên tác động này không có ý nghĩa về măt thống
kê.
Kiểm tra tính bền vững35
Nhƣ là một kiểm tra tính bền vững đầu tiên, chúng tôi ƣớc tính một phiên bản của mô
hình này bằng cách sử dụng tổng chi tiêu của chính phủ. Điều này tạo ra số nhân tài chính 0,43
cho năm tác động và 0,13 sau một năm, điều này phù hợp với những ƣớc tính cho Hoa Kỳ trong
giai đoạn gần đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CONG TRINH NGHIEN CUU KHOA HOC_BAI HOC TU GOI KICH CAU HUONG DI CHO VIET NAM DOI PHO VOI KHUNG.pdf