MỤC LỤC
Phần mở đầu 2
Nội dung 5
I. Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. 5
1. Quan điểm của trường phái trọng thương về lợi nhuận. 5
2. Quan điểm của trường phái cổ điển về lợi nhuận. 6
3. Quan điểm của trường phái Samuellson về lợi nhuận. 8
4. Học thuyết của Mác-Lênin. 9
II. Tại sao lợi nhuận lại là động lực thúc đẩy kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển đồng thời nó lại làm tăng mâu thuẫn ở trong chủ nghĩa tư bản. 21
1. Sự hình thành giá trị thị trường. 22
2. Lợi nhuận trong nền kinh tế. 23
Kết luận 31
31 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1875 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bản chất,nguồn gốc của lợi nhuận và mâu thuẫn của nó trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể càng nhiều loại thì giá trị sử dụng cũng có nhiều loại. Tất cả các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội ngày càng chi tiết. Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn là một điều kiện không thể hình thức cụ thể của nó như thế nào gọi là lao động trừu tượng.
Lao động bao giờ cũng là sự hao phí sức óc, sức thần kinh và bắp thịt của người. Những bản thân sự hao phí lao động về mặt sinh lý đó chưa phải là lao động trừu tượng. Chỉ trong xã hội có sản xuất hàng hoá mới có sự cần thiết khách quan phải quý các loại lao động cụ thể khác nhau vốn không thể so sánh với nhau được tức là phải quy lao động cụ thể thành lao động trừu tượng. Vì lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử. Lao động trừu tượng nó tạo ra giá trị của hàng hoá là một phạm trù lịch sử. Lao động trừu tượng nó tạo ra giá trị của hàng hoá.
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là sự biểu hiện của mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá giản đơn. Mâu thuẫn này còn biểu hiện ở lao động cụ thể với lao động trừu tượng, ở giá trị sử dụng với giá trị của hàng hoá “Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là điểm mấu chốt để hiểu biết kinh tế chính trị học”. Nó là sự phát triển vược bậc so với các học thuyết kinh tế cổ điển.
Mác và Ăngghen cũng là người đầu tiên đã xây dựng nên lý luận về giá trị thặng dư một cách hoàn chỉnh vì vậy, lý luận giá trị thặng dư được xem là hòn đá tảng to lứon nhất trong toàn bộ học thuyết kinh tế của Mác. Qua thực tế xã hội tư bản lúc bấy giờ Mác thấy rằng giai cấp tư bản thì ngày càng giầu thêm còn giai cấp vô sản thì ngày càng nghèo khổ và ông đã đi tìm hiểu nguyên nhân vì sao lại có hiện tượng này. Cuối cùng ông phát hiện ra rằng nếu tư bản đưa ra một lượng tiền là T đưa vào qua trình sản xuất và lưu thông hàng hoá thì số tiền thu về lớn hơn số tiền ứng ra ta gọi là T’ (T’>T) hay T’ = T + DT.
C.Mác gọi DT là giá trị thặng dư ông cũng thấy rằng mục đích của lưu thông tiền tệ với tư cách là tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị. Mục đích của lưu thông T-H-T’ là sự lớn lên của giá trị thặng dư nên sự vận động T-H-T’ là không có giới hạn. Công thức này Mác gọi là công thức chung của tư bản.
Qua nghiên cứu Mác đi đến kết luận: “Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở người lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông”. Đây chính là mâu thuẫn chung của công thức tư bản. Để giải quyết mâu thuẫn này Mác đã phát hiện ra nguồn gốc sinh ra giá trị hàng hoá sức lao động. quá trình sản xuất ra hàng hoá và tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân giá trị sức lao động. Vậy quá trình sản xuất ra tư bản chủ nghĩa là quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C.Mác viết: “Với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình sáng tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là quá trình sản xuất ra hàng hoá, với tư cách là tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá ”.
Phần giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, nó được tính bằng giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư. Vậy giá trị thặng dư (m) là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt. Qua đó chúng ta thấy tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê.
Để nghiên cứu yếu tố cốt lõi tạo nên giá trị thặng dư trong quá trình sản xuất của tư bản thì C.Mác đã chia tư bản ra làm hai bộ phận. Tư bản bất biến và tư bản khả biến.
Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất được C.Mác gọi là tư bản bất biến và được ký hiệu là C.
Còn bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thức giá trị sức lao động trong quá trình sản xuất đã tăng thêm về lượng gọi là tư bản khả biến và được ký hiệu là: V.
Nhưng, trong đời sống hiện thực, người ta thấy Xí nghiệp nào sử dụng máy móc và công nghệ hiện đại thì ănng suất lao động cao hơn và nhờ đó thu được lợi nhuận nhiều hơn. Khi máy móc chưa được áp dụng phổ biến, nhà tư bản thu được lợi nhuận siêu ngạch, mặt khác, số lượng sản phẩm sản xuất ra sẽ nhiều hơn, do đó tổng khối lượng lợi nhuận mà nhà tư bản thu được cũng sẽ lớn hơn trước.
Như vậy ta thấy muốn cho tư bản khả biến hoạt động được phải có một tư bản bất biến được ứng với tỷ lệ tương đương và qua sự phân chia ta rút ra tư bản khả biến tạo ra giá trị thặng dư vì nó dùng để mua sức lao động. Còn tư bản bất biến có vai trò gián tiếp trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Từ đây ta có kết luận “Giá trị của hàng hoá bằng giá trị tư bản bất biến mà nó chứa đựng”, cộng với giá trị của tư bản khả biến đó (tức là giá trị thặng dư đã được sản xuất ra). Nó được biểu hiện bằng công thức:
Giá trị = c + v + m
Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến đã vạch ra thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư của nhà tư bản, (tư bản đã bóc lột một phần giá trị mới do công nhân tạo ra). Nó được biểu hiện một cách ngắn gọn qua quá trình.
Giá trị = c + v + m
Giá trị tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm: c
Giá trị sức lao động của người công nhân mà nhà tư bản trả cho người công nhân): V
M = m’.V =
m.V
v
Giá trị mới do người công nhân tạo ra: v + m
Như thế tư bản bỏ ra một lượng tư bản để tạo ra giá trị là c + v, nhưng giá trị mà tư bản thu vào là c + v + m. Phần M dôi ra là phần mà tư bản bóc lột của người công nhân.
ở trên chúng ta nghiên cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư. Nhưng muốn hiểu về nó ta nghiên cứu sự bóc lột tư bản về mặt lượng. Các phạm trù tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư mà ta nghiên cứu sau đây sẽ biểu hiện về mặt chất của sự bóc lột.
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến. Ký hiệu của tỷ suất giá trị thặng dư là m’ ta có:
m’ =
m.100%
v
Tỷ suất giá trị thặng dư vạch ra một cách chính xác trình độ bóc lột công nhân. Thực chất đây là tỷ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư, nhưng nó không biểu hiện lượng tuyệt đối của sự bóc lột tức là khối lượng giá trị thặng dư. Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến (v). Gọi M là giá trị thặng dư thừa (Tư bản khả biến là một đơn vị tư bản biểu hiện ra bên ngoài như tiền lương của một công nhân).
Nó nói lên quy mô của tư bản
Nhà tư bản luôn tìm cách tạo ra giá trị thặng dư nhiều nhất bằng nhiều cách bằng nhiều thủ đoạn. Trong đó C.Mác chỉ ra hai phương pháp mà chủ nghĩa tư bản sử dụng đó là sản xuất giá trị thặng dư tương đối, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối, ngoài ra còn có phương pháp sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch.
Mác đã chỉ ra trong giai đoạn phát triển đầu của chủ nghĩa tư bản, khi kỹ thuật còn thấp và tiến bộ chậm thì việc tăng giá trị thặng dư tuyệt đối bằng cách kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động cần thiết không thay đổi. Những phương pháp này còn có hạn chế về thời gian, về thể chất và tình thần người công nhân. Sự bóc lột này đã dẫn đến nhiều cuộc bãi công, đấu tranh của các tập đoàn, mặt khác, đến giai đoạn phát triển cao có thể làm cho năng suất lao động để tăng giá trị thặng dư và nâng cao trình độ bóc lột.
Nhà tư bản sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết do đó kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Phương pháp này không có giới hạn.
Bên cạnh đó các nhà tư bản ngày nay đang tìm cách cải tạo kỹ thuật, đưa kỹ thuật mới vào, nâng cao tay nghề công nhân, tạo điều kiện và tinh thần để tạo ra năng suất lao động, cá biệt lớn hơn năng suất lao động xã hội. Phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài giá trị thặng dư thông thường do thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội cần thiết gọi là giá trị thặng dư siêu bền. Phương pháp này sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch.
Quá trình sản xuất giá trị thặng dư chỉ là sự biểu hiện qua sản phẩm còn thực tế để thu lượng tiền thì chuyển hoá giá trị thặng dư như thế nào vì công thức chung của tư bản là T – H – T’ nên mục đích cuối cùng của nhà tư bản thu được T’ còn giá trị thặng dư chỉ là tiền đề là nền tảng để thu được T’ (T’>T). (Mác đã giúp ta giải quyết vấn đề này vì ông đã tìm ra một đại lượng biểu hiện giá trị thặng dư đó là lợi nhuận (P)). Vậy:
“Giá trị thặng dư khi được đem so sánh với tổng tư bản ứng trước thì mong hình thức biến thành lợi nhuận ” từ đó ta có thể thấy lợi nhuận chính là con đẻ của tổng tư bản ứng trước c+v.
Để hiểu rõ hơn về lợi nhuận chúng ta có thể đi sâu vào phân tích chi phí thực tế xã hội và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất phát từ giá trị hàng hoá c+v+m.
Muốn sản xuất hàng hoá phải chi phí lao động nhất định bao gồm chi phí cho tư liệu sản xuất tư bản bất biến gọi là lao động quá khứ và lao động tạo ra giá trị mới (v+m). Đứng trên quan điểm toàn xã hội, quan điểm của người lao động thì chi phí đó là chi phí thực tế để tạo ra giá trị hàng hoá.
(c+v+m). Nhưng đối với nhà tư bản thì họ không hao phí thực tế để sản xuất ra hàng hoá nên nhà tư bản chỉ xem hết bao nhiêu tư bản chứ không tính xem chi phí hết bao nhiêu lao động cần thiết, thực tế họ chỉ ứng ra số tư bản để mau tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v), chi phí đó được C.Mác gọi là chi phí tư bản chủ nghĩa và ký hiệu là: k (k =c+v). Như vậy chi phí tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi phí thực tế. Giữa giá thành hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa có sự chênh lệch nhau một lượng đúng bằng giá thành thặng dư. Do đó nhà tư bản hàng hoá sẽ thu về một phần lời đúng bằng giá thành thặng dư m, số tiền này gọi là lợi nhuận.
Giá trị hàng hoá lúc này bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi nhuận.
Giá trị = k + P
Về mặt ưlợng lợi nhuận có nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân làm thuê.
Về mặt chất lợi nhuận xem như toàn bộ tư bản ứng trước đẻ ra. Do đó lợi nhuận che dấu quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa, che dấu nguồn gốc thực sự của nó.
Do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế cho nên nhà tư bản có thể bán hàng hoá cao hơn chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa và có thể thấp hơn giá thành hàng hoá. Nếu nhà tư bản bán hàng hoá với giá trị bằng giá trị của nó thì P = m. Nếu bán với giá trị cao hơn giá thành của nó thì P>m, nếu bán với giá trị nhỏ hơn giá trị của nó thì P<m. Chính điều này đã làm cho họ cho rằng lợi nhuận là việc mua bán, do lưu thông tạo ra, do tài kinh doanh của nhà tư bản mà có. Điều này dẫn đến sự che dấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Nhưng lòng tham của nhà tư bản là vô đáy vì thế sau khi đã có lợi nhuận rồi họ không dừng lại tại đó mà họ còn muốn tìm ra với số tiền mà họ đầu tư đó thì họ đầu tư vào đâu để thu được lợi nhuận lớn hơn. Từ đây nẩy sinh khái niệm về tỷ suất lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận không phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản mà nó nói lên mức lãi của việc đầu tư. Nó cho nhà tư bản biết họ đầu tư vào đâu thì có lợi. Do đó việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận là động lực thúc đẩy nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.
Do mục tiêu đạt được lợi nhuận cao nhất nên giữa các nhà tư bản luôn luôn diễn ra sự cạnh tranh gay gắt, các quá trình cạnh tranh của nhà tư bản được C.Mác phân chia thành hai loại, cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các Xí nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Do bản chất của cạnh tranh chính là một hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nhằm giành dật những điều kiện có lợi nhất của sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Vậy nó cho nền cạnh tranh trong nội bộ ngành buộc các xí nghiệp phải tìm cách giảm giá trị khác biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội để giành thắng lợi trong cạnh tranh. Kết quả là do điều kiện sản xuất bình quân trong ngành thay đổi, giá trị xã hội của hàng hoá giảm xuống.
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các nhà tư bản ở các ngành sản xuất khác nhau có nhiều điều kiện khác nhau, do đó tỷ suất lợi nhuận cũng khác nhau. Các nhà tư bản chọn ngành có lợi nhuận cao để đầu tư. C.Mác viết: "Do ảnh hưởng của cạnh tranh những tỷ suất lợi nhuận khác nhau đó san bằng đi thành một tỷ suất lợi nhuận chung không kể cấu tạo hiện có như thế nào gọi là lợi nhuận bình quân".
Quá trình bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận là sự hoạt động của quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân trong xã hội tư bản. Sự hoạt động của quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân là biểu hiện cụ thể của sự hoạt động của quy luật giá trị thặng dư trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản.
Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân đã che dấu hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận và lợi nhuận không làm chấm dứt quá trình cạnh tranh trong xã hội tư bản, trái lại cạnh tranh vẫn tiếp diễn.
Sự chuyển hóa từ giá trị hàng hoá thành giá cả sản xuất và sự che dấu quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa các phạm trù sản xuất.
Cùng với sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân ta thấy một bộ phận hàng hoá được bán cao hơn giá trị của chúng còn bộ phận khác lại bán thấp hơn giá trị của chúng cũng theo một tỉ lệ như thế. Chỉ có bán hàng hoá theo những giá cả đó thì tỷ suất lợi nhuận trong các công ty mới có thể đồng nhất và ngang với nhau, dù cấu thành hữu cơ của các tư bản đều khác nhau. "Những giá cả đó có được bằng cách lấy chi phí sản xuất của hàng hoá cộng với lợi nhuận bình quân gọi là giá cả sản xuất"
Vậy : Giá cả sản xuất = K + P
Tiền đề của giá cả sản xuất là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Điều kiện để giá trị biến thành gía cả sản xuất gồm có: đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ nghĩa phát triển, sự liên hệ đầy đủ giữa các ngành sản xuất này sang ngành khác.
Trước đây khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả xoay quanh giá trị hàng hoá. Giờ đây giá cả của hàng hoá xoay quanh giá cả sản xuất. Về mặt lượng, giá cả sản xuất và giá trị có thể không bằng nhau. chính trong mới quan hệ này, giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong của giá cả sản xuất, giá cả thị trường.
Thực chất hoạt động của quy luật giá cả sản xuất là sự biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản.
Lợi nhuận được biểu hiện dưới dạng lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi nhuận ngân hàng, lợi tức cho vay.
Trong công nghiệp để cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho thị trường các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất và kinh doanh họ mong muốn chi phí còn số dư dôi để không chi sản xuất, củng cố và tăng cường vị trí của mình trên thị trường. Lợi nhuận ở đây chính là phần chênh loch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí, còn tối đa hoá lợi nhuận hoặc giảm chí phí sản xuất, tức là phải làm gì để đạt được lợi nhuận cực đại cho doanh nghiệp. Tổng doanh thu của doanh nghiệp mà số tiền mà doanh nghiệp đó kiếm được nhờ bán hàng hóa, dịch vụ trong một thời kỳ nhất định, và quá trình này cũng được tư bản công nghiệp chi cho một phần lợi nhuận. Lợi nhuận đó sau này được gọi là lợi nhuận thương nghiệp.
Chúng ta đã đề cập đến quan điểm của chủ nghĩa trọng thương ở đó họ cho rằng lợi nhuận là kết quả trao đổi không ngang giá. Họ coi thương nghiệp là lừa gạt. "không một người nào thu được lợi nhuận mà không làm thiệt kẻ khác "Quan điểm sai loch này là do họ tách rời quá trình sản xuất".
Khác với tư bản thương nghiệp trước chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản chủ nghĩa. Tư bản thương nghiệp chỉ hạn chế ở chức năng mua và bán, nó không sáng tạo ra giá trịvà giá trịthặng dư, nó chỉ làm nhiệm vụ thực hiện giá trịvà giá trịthặng dư. Nhìn bề ngoài lợi nhuận thương nghiệp là do mua rẻ bán đắt do lưu thông tạo ra. Nhưng thực chất "Lợi nhuận thương nghiệp tư chủ nghĩa là một bộ phận giá trị thặng dư do nhà tư bản chủ nghĩa nhường cho nhà tư bản thương nghiệp". Nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp một phần bởi vì tư bản thương nghiepẹ chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, đó là một khâu, một gian đoạn của quá trình sản xuất, không có gian đoạn thì quá trình tái sản xuất không thể tiếp diễn tiếp tục được, và dĩ nhiên nhà tư bản thương nghiệp cũng không phải hoạt động không công được mà họ cũng đòi hỏi phải có lợi nhuận. Điều này bắt buộc nhà tư bản công nghiệp phải nhường một phần lợi nhuận của mình cho tư bản thương nghiệp.
Vậy "Lợi nhuận thương nghiệp là số chênh loch giữa giá trị bán và giá mua hàng hoá ".
Nhưng điều đó không có nghĩa là tư bản thương nghiệp bán hàng hoá cao hơn giá trị của nó, mà là nhà tư bản thương nghiệp mua hàng hoá thấp hơn giá trị và khi bán thì bán đúng giá trị của nó. Vì nhà tư bản thương nghiệp tham gia vào việc phân chia (m) nên đời sống của xã hội tư bản hình thành hai giá cả sản xuất giá cả sản xuất thương nghiệp và giá cả sản xuất thực tế. Sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp đã che dấu thêm một bước quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Do việc phân phối lợi nhuận giữa tư bản chủ nghĩa và tư bản thương nghiệp diễn ra theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân thông qua cạnh tranh.
- Lợi tức và tỷ suất lợi tức.
Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản công nghiệp, luôn có số tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi ví dụ như tiền lương quỹ khấu hao của tư bản cố định, tiêu dùng để mua nguyên vật liệu nhưng chưa đến kỳ mua, bộ phận giá trị thặng dư tích luỹ (dưới dạng tiền) để mở rộng sản xuất nhưng chưa thu nhập nào cho nhà tư bản. Nhưng đối với nhà tư bản thì tiền phải đẻ ra tiền, vì vậy nhà tư bản phải cho người khác vay để kiếm lãi. Vì trong cùng một thời gian đó có những nhà tư bản khác rất cần tiền để mở rộng sản xuất do đó họ có nhu cầu vay. "Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường chóng khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một số lời lãi nào đó. Số lời lãi đó được gọi là lợi tức". Bản chất của lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay sử dụng. Nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất. Nhưng việc nhà tư bản cho vay thu được lợi tức che dấu một thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa. Dựa vào công thức vận động tư bản cho vay chúng ta hoàn toàn vạch trần được điều đó.
Lợi tức vận động theo quy luật tỷ suất lợi tức.
Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa tổng số lợi nhuận bình quân, tỷ lệ phân chia lợi nhuận thành lợi tức và thu nhập của xí nghiệp mà nhà tư bản hoạt động phụ thuộc vào quan hệ cung cầu của tư bản cho vay.
-Lợi nhuận ngân hàng là thu nhập của nhà tư bản ngân hàng là hình thái biến tướng riêng biệt của m. Nghiệp vụ chính của ngân hàng là thu nhập tiền gửi cho vay. Lợi tức cho vay của ngân hàng cao hơn lợi tức tiền gửi, con số chênh loch là nguồn gốc của lợi nhuận ngân hàng. Tuy vậy, không phải toàn bộ con số chênh loch ấy đều là lợi nhuận ngân hàng chỉ là con số còn lại sau khi đã trừ đi một phần để bù vào chi phí nghiệp vụ ngân hàng (lương nhân viên, sổ sách..).
Ngân hàng cho các nhà trực tiếp kinh doanh vay. Nhà tư bản lấy số tiền đó để sản xuất ra giá trị thặng dư (tư bản công nghiệp ) hoặc thực hiện giá trị thặng dư (tư bản thương nghiệp), sau đó đem một phần m thu được làm thành lợi tức trả cho ngân hàng. Do đó lợi nhuận ngân hàng cũng là giá trị thặng dư.
Sự cạnh tranh giữa các ngành trong xã hội tư bản cũng là do lợi nhuận ngân hàng bằng lợi nhuận bình quân, nếu không chủ ngân hàng sẽ chuyển vốn sang kinh doanh ngành khác.
Độc quyền ra đời từ tự do cạnh tranh, nó loại bỏ sự thống trị của tự do cạnh tranh nhưng không thủ tiêu được cạnh tranh mà cạnh tranh càng trở nên gay gắt. Cạnh tranh dẫn đến độc quyền cũng để cạnh tranh tốt hơn. Bản chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Độc quyền chiếm giữ vị trí thống trị trong nền kinh tế thể hiện ở sự độc chiếm các nguồn nguyên liệu, phương tiện vận tải, thị trường vốn nhân công, quy luật kinh tế cơ bản vẫn là quy luật giá trị thặng dư, song biểu hiện ra bên ngoài là quy luật lợi nhuận độc quyền cao.
II. Tại sao lợi nhuận lại là động lực thúc đẩy kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển đồng thời nó lại làm tăng mâu thuẫn ở trong chủ nghĩa tư bản.
Lợi nhuận đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế. Nó ảnh hưởng cả đến chính trị xã hội và len lói vào mọi mặt của đời sống xã hội.
Trong mọi nền kinh tế thị trường. Như ta đã biết mọi sự vật hiện tượng đều có tính hai mặt. Mặt tích cực và mặt tiêu cực. Vấn đề đặt ra là ta phải phát triển mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực như thế nào để phát huy vai trò của nó.
Giá cả thị trường, lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất hình thành thông qua sử dụng giữa các nhà tư bản. Cạnh tranh là một hiện tượng vốn có của mọi nền kinh tế hàng hoá. Cạnh tranh hiện theo nghĩa đơn giản nhất là sự ganh đua giữa những người sản xuất và lưu thông hàng hoá bằng những hình thức và thủ đoạn khác nhau, nhằm giành giật cho mình những điều kiện sản xuất và kinh doanh cólợi nhất. Động lực của cạnh tranh là lợi nhuận tối đa.
Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh C.Mác phân phối chia cạnh tranh thành hai loại: cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành, tức là cạnh tranh giữa các hàng hoá cùng loại và cạnh tranh giữa các hàng hoá khác loại.
1. Sự hình thành giá trị thị trường.
Giá cả thị trường hình thành thông qua sự cạnh tranh giữa hàng hoá, nhằm dành điều kiện sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợi nhất để thu nhiều lợi nhuận siêu ngạch.
Giá trị thị trường là giá trị trung bình của những hàng hoá được sản xuất trong một khu vực sản xuất nào đó hay là giá trị cá biệt của những hàng hoá được sản xuất trong những điều kiện trung bình của khu vực đó và chiếm một khối lượng lớn trong tổng số những sản phẩm của khu vực này.
Với nội dung trên giá trị thị trường có thể hình thành theo 3 trường hợp sau đây.
* Trường hợp 1:
Giả định đại bộ phận lượng hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện xã hội trung bình, còn bộ phận nhỏ thì một nữa được sản xuất ra trong những điều kiện kém và một nửa được sản xuất trong điều kiện tốt. Sự chênh loch về giá trị của hai cực so với giá trị trung bình có thể bù trừ lẫn nhau.
Trong trường hợp này, giá trị thị trường hàng hoá do giá trị của đại bộ phận hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện trung bình quyết định . Nếu hàng hoá bán đúng giá trị thị trường thì chỉ có xí nghiệp có điều kiện sản xuất tốt mới được lợi nhuận siêu ngạch. Đây là trường hợp phổ biến nhất.
* Trường hợp 2:
Giả định đại bộ phận lượng hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện kém.
Trong trường hợp này, giá trị thị trường của hàng hoá do giá trị của đại bộ phận hàng hoá được sản xuất trong điều kiện kém quyết định. ở đây, giá trị thị trường không những cao hơn giá trị cá biệt của các hàng hoá sản xuất ra trong điều kiện tốt, mà còn cao hơn cả giá trị cá biệt của các hàng hoá sản xuất ra trogn điều kiện trung bình. Nếu hàng hoá bán đúng giá trị thị trường, thì loại xí nghiệp có điều kiện sản xuất tốt và trung bình đều thu được lợi nhuận siêu ngạch.
* Trường hợp 3:
Giả định đại bộ phận của khối lượng hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện tốt.
Trong trường hợp này, giá trị thị trường của hàng hoá do giá trị của đại bộ phận hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện tốt quyết định. ở đây, giá trị thị trường cao hơn giá trị cá biệt của những hàng hoá sản xuất ra trong điều kiện tốt. Nếu hàng hoá bán đúng giá trị thị trường thì chỉ có loại xí nghiệp có điều kiện sản xuất tốt mới thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Tóm lại, giá trị thị trường là giá trị xã hội của hàng hoá được hình thành thông qua sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Trong cùng một ngành. Biện pháp chủ yếu của cạnh tranh là tìm cách cải tiến quản lý, đổi mới kr và công nghệ, tăng năng suất lao động để nâng cao chất lượng và hạ giá trị cá biệt của hàng hoá được sản xuất ra thấp hơn giá trị thị trường của nó, nhằm thu nhiều lợi nhuận siêu ngạch.
2. Lợi nhuận trong nền kinh tế.
a. Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Với mục đích lợi nhuận các nhà tư bản để tạo ra lợi nhuận này càng nhiều. Trước đây họ có thể tạo ra lợi nhuận bằng cách kéo dài ngày lao động của công nhân vì vậy họ chuyển sang pp bóc lột một cách tinh vi hơn. Nhà tư bản áp dụng kỹ thuật mới vào và bắt buộc người công nhân phải tăng năng suất lao động của mình lên. Nhưng chính mục đích áp dụng kỹ thuật mới đã làm cho các nhà tư bản đầu tư ngày càng nhiều vào vấn đề nghiên cứu khoa học. Những phát minh lần lượt được ra đời đặc biệt là trong thế kỷ 19 đến thế kỷ 20, nó đã được lực lượng sản xuất phát triển một cách nhanh chóng. Yếu tố này đã giúp cho nhà tư bản không chỉ thu được lợi nhuận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34578.doc