Đề tài Bán phá giá và chống bán phá giá trong thương mại của Việt Nam và trên thế giới

MỤC LỤC 1

I. BÁN PHÁ GIÁ 4

1. Bán phá giá là gì? 4

2. Tại sao việc bán phá giá xảy ra? 5

II. VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ 6

1. Vụ kiện chống bán phá giá là gì? 6

2. Những yếu tố cơ bản của 1 vu kiện chống bán phá giá 6

3. Thuế chống bán phá giá là gì? 7

4. Vấn đề chống bán phá giá được quy định ở đâu? 7

Các nhóm nội dung chính của Hiệp định chống bán phá giá 7

5. Điều kiện áp dụng chống bán phá giá là gì? 8

6. Biên độ phá giá được tính như thế nào? 8

a. Biên độ phá giá được tính theo công thức 8

b. Sản phẩm tương tự 8

7. Yếu tố thiệt hại được xác định như thế nào? 9

8. Một mặt hàng mà Việt Nam xuất khẩu không nhiều có thể bị kiện chống bán phá giá không? 9

Xác định lượng nhập khẩu không đáng kể như thế nào? 9

9. Ai được quyền kiện chống bán phá giá? 10

Ví dụ về điều kiện khởi kiện của ngành sản xuất nội địa nước xuất khẩu 10

10. Một vụ kiện chống bán phá giá tiến hành như thế nào? 11

Doanh nghiệp Việt Nam thường gặp khó khăn gì trong quá trình bị điều tra chống bán phá giá ở nước ngoài? 12

11. Mức thuế chống bán phá giá đưọc tính toán như thế nào? 12

a. Về cách thức áp dung 12

b. Về thời điểm tính mức thuế chính thức 12

Cách tính thuế cho khoảng thời gian sắp tới(EU theo cách này) 12

Cách tinh thuế cho khoảng thời gian đã qua( Mỹ theo cách này) 13

12. Thuế chống bán phá giá được áp dụng như thế nao? 13

a. Về thời hạn áp thuế 13

b. Về hiệu lực của việc áp thuế 13

BẢNG 1: NHỮNG NƯỚC THÀNH VIÊN WTO TIẾN HÀNH KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ NHIỀU NHẤT 14

BẢNG 2: NHỮNG NƯỚC THÀNH VIÊN WTO BỊ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ NHIỀU NHẤT 14

13. Nguy cơ hàng việt Nam bị kiện ở nước ngoài có lớn không? 15

BẢNG 3: TÌNH HÌNH CÁC VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ ĐỐI VỚI HÀNG HÓA VIỆT NAM (Giai đoạn 1994-2007) 15

14. Cần làm gì để phòng tránh và đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá ở nước ngoài 17

14.1. Chính sách phòng ngừa và đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá ở nước ngoài 17

a. Về hiểu biết chung 17

b. Về chiến lược kinh doanh 17

c. Về việc hợp tác 17

14.2. Một số biện pháp “Kỹ thuật” để sẵn sàng đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá 17

15. Doanh nghiệp Việt Nam gặp bất lợi gì trong các vụ kiện chống bán phá giá? 18

16. So với trước khi gia nhập WTO thì có điểm gì thuận lợi hơn khi hàng hóa Việt Nam bị kiện ở nước ngoài? 19

17. Ở Việt Nam, vấn đề chống bán phá giá đối với hàng hóa nước ngoài được quy định như thế nào? 19

17.1. Văn bản pháp luật 19

17.2. Cơ quan có thẩm quyền 20

18. Doanh nghiệp có thể tìm thấy thông tin và hỗ trợ về chống bán phá giá ở đâu? 20

III. CÁC LOẠI BÁN PHÁ GIÁ VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN 21

1. Các loại bán phá giá. 21

1.1. Theo thông lệ quốc tế 21

1.2. Trong thời gian đàm phán dẫn tới Hiến chương Havana về quan hệ thương mại quốc tế, những nước tham gia đã chia việc phá giá thành 4 loại 21

2. Những biến tướng của bán phá giá 21

3. Tác động của bán phá giá 22

IV. TÌNH HÌNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRÊN THẾ GIỚI VÀ CÁC LUẬT CÓ LIÊN QUAN. 23

1. Pháp luật quốc tế về chống bán giá 24

2. Thuế chống bán phá giá 25

3. Luật chống bán phá giá của Mỹ 26

4. Pháp luật về bán phá giá của Việt Nam 27

V. MỘT SỐ VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ ĐIỂN HÌNH 29

1. Vụ kiện chống bán phá giá ngũ cốc từ Mỹ 29

2. Vụ kiện chống bán phá giá sản phẩm bóng hình TV từ Trung Quốc 30

3. Vụ kiện chống bán phá giá sản phẩm bán dẫn của Nhật Bản 32

4. Vụ kiện chống bán phá giá các sản phẩm kính chắn gió Trung Quốc 33

5. Vụ kiện chống bán phá giá cá da trơn từ Việt Nam 34

VI. KẾT LUẬN 36

VII. PHỤ LỤC KÈM THEO 38

PHỤ LỤC 1: DANH SÁCH TÊN CÁC VỤ KIỆN - CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRONG WTO 38

PHỤ LỤC 2: VỤ KIỆN - CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ GIỮA CÁC NƯỚC 46

TÀI LIỆU THAM KHẢO 46

 

docx47 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 7953 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bán phá giá và chống bán phá giá trong thương mại của Việt Nam và trên thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giữ tất cả các số liệu, tài liệu có thể làm bằng chứng để chứng minh không bán phá giá; Tự yêu cầu được tham gia, hợp tác với các cơ quan điều tra và chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng trong quá trình điều tra để được tính biên độ tố tụng trong quá trình điều tra để được tính biên độ phá giá riêng phản ánh đúng hơn thực tế hoạt động kinh doanh của mình; Có quỹ dự phòng đảm bảo các chi phí theo kiện tại nước ngoài; 15. Doanh nghiệp Việt Nam gặp bất lợi gì trong các vụ kiện chống bán phá giá? Bản thân việc bị kiện chống bán phá giá đã là một bất lợi( bởi khả năng bị kết luận có bán phá giá và bị áp thuế thường là rất lớn). Doanh nghiệpViệt Nam nếu bị kiện sẽ bất lợi hơn bình thường bởi trong cam kết gia nhập WTO, Việt Nam chấp nhaanh bị xem là nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm kể từ ngày gia nhập.( tức là đến hết năm 2018). Với cam kết này, các nguyên tắc chuẩn của WTO khi tính toán giá thông thường của hàng hóa bị điều tra (có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định biên độ phá giá) có thể sẽ không được áp dụng. Việc sử dụng phương pháp thay thế ( dựa trên giá và chi phí của doanh nghiệp ở một nước thứ 3 thay vì sử dụng giá và chi phí của chính doanh nghiệp Việt Nam) thường không phản ánh đúng giá trị thực tế của doanh nghieepk. Hệ quả là biên độ phá giá có nhiều khả năng cao hơn biên phá giá tính toán theo cách thông thường; mức thuế chống bán phá giá từ đó có thể bị đẩy cao hơn. Cam kết cụ thể của việt Nam về phương pháp tính toán giá. ( Trong các vụ kiện chống bán phá giá ở các nước thành viên WTO). Nếu doanh nghiệp Việt Nam bị điều tra chứng minh được ngành sản xuất của mình hoạt động theo các điều kiện kinh tế thị trường thì cơ quan điều tra phải sử dụng giá và chi phí ở Việt nam để tính toán; Nếu không: có thể sử dụng một biện pháp khác không dựa trên sự so sánh chặt chẽ với giá và chi phí ở Việt Nam. Nếu Việt Nam chứng minh được nền kinh tế của mình thỏa mãn các tiêu chí của nền kinh tế thị trường theo pháp luật của nước liên quan thì các cam kết nói trên hết hiệu lực. Trên thực tế, Việt nam đã đạt được thỏa thuận thừa nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường với các nước ASEAN, Nam Phi, Nga, Hàn Quốc và đang tiến hành thương lượng với EU. 16. So với trước khi gia nhập WTO thì có điểm gì thuận lợi hơn khi hàng hóa Việt Nam bị kiện ở nước ngoài? Trước khi VIệt Nam gia nhập WTO, đã có nhiều vụ kiện chống bán phá giá đối với các hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam theo pháp luật nội địa của nước nhập khẩu. Sau khi gia nhập WTO, thực tế này không thay đổi, hàng hóa Việt Nam vẫn có thể bị kiện, bị áp thuế chống bán phá giá ở các thị trường theo trình tự và thủ tục cũ. Tuy nhiên, khi Việt Nam đã là thành viên WTO, liên quan đến các vụ kiện chống bán phá giá ở nước ngoài, có thể có 1 số điểm mới thuận lợi hơn: Trường hợp nước tiến hành điều tra không tuân thủ các quy định liên quan trong WTO thì chính phủ Việt Nam có thể sử dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO để khiếu nại, khiếu kiện qua đó bảo vệ lợi ích cho các doanh nghiệp: Mặc dù Việt Nam vẫn bị xem là nền kinh tế phi thị trường đến 31/12/2018 nhưng theo cam kết các nước không còn được tự do lựa chọn bieenh pháp, quy tắc tính toán với các doanh nghiệp Việt Nam trong các vụ kiện nữa mà phải hành động trong khuôn khỏ những điều kiện nhất định. 17. Ở Việt nam, vấn đề chống bán phá giá đối với hàng hóa nước ngoài được quy định như thế nào? 17.1. Văn bản pháp luật Pháp lệnh về việc chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam 2004 Nghị định 90/2005/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh chống bán phá giá hàng nhập khẩu vào Việt Nam. Nghị định 04/2006/NĐ-CP về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ. quyền hạn, cơ cầu tổ chức của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ; Nghị định 06/2006/ND-CP về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh; Thông tư 106/2005/TT-BTC ngày 5/12/2005 hướng dẫn nộp, thu, hoàn trả thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp và các khoản bảo đảm thanh toán thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp. Nội dung Các quy định về chống bán phá giá ở Việt Nam tuân thủ các nguyên tắc và quy định của WTO về vấn đề này 17.2. Cơ quan có thẩm quyền Cục Quản lý Cạnh tranh-Bộ Công Thương: chịu trách nhiệm điều tam trình kết quả điều tra và đề xuất cách thức xử lý cho cơ quan có thẩm quyền; Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá-Bộ Công Thương: xem xét, nghiên cứu kết quả điều tra của Cục Quản lý cạnh tranh, thảo luận và kiến nghị Bộ trưởng Bộ Công Thương về cách thức xử lý. Bộ trưởng Bộ Công Thương: Quyết định có hoặc không áp dụng biện pháp chống bán phá giá. 18. Doanh nghiệp có thể tìm thấy thông tin và hỗ trợ về chống bán phá giá ở đâu? Cục Quản lý Cạnh tranh-Bộ Công thương(Cơ quan quản lý nhà nước phụ trách về vấn đề chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài vào Việt Nam) Ban Pháp chế-Phòng Thương mại và Công nghiepek Việt Nam ( Đơn vị đầu mối cung cấp tất cả các thông tin về chống bán phá giá ở Việt Nam và trên thế giới cho doanh nghiệp) Mục tiêu chủ yếu của các biện pháp chống bán phá giá là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của ngành sản xuất trong nướ trước hành vi bán phá giá gây thiệt hại của hàng hóa nhập khẩu. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần biết sử dụng công cụ này trong những hoàn cảnh thích hợp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. III. CÁC LOẠI BÁN PHÁ GIÁ VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN 1. Các loại phán giá giá. 1.1. Theo thông lệ quốc tế, người ta chia hành động bán phá giá thành 2 loại: bán phá giá hàng sản xuất trong nước trên thị trường nội địa và bán phá giá hàng nhập khẩu. Hai trường hợp này thường được tách riêng và được giải quyết theo hai bộ luật riêng biệt. + Bán phá giá hàng sản xuất trong nước trên thị trường nội địa Là việc cá nhân hoặc tổ chức sản xuất đặt giá tiêu thụ thấp hơn giá thành tại thị trường trong nước. Mục tiêu của hành động bán phá giá này là nhằm loại bỏ khỏi thị trường, hoặc ngăn cản sự thâm nhập thị trường, của một doanh nghiệp hay một sản phẩm của doanh nghiệp. + Bán phá giá hàng nhập khẩu Là việc doanh nghiệp nước ngoài bán hàng hóa dưới chi phí tại nước nhập khẩu. 1.2. Trong thời gian đàm phán dẫn tới Hiến chương Havana về quan hệ thương mại quốc tế, những nước tham gia đã chia việc phá giá thành 4 loại: Phá giá về giá: Là hành vi được quy định trong điều VI của Hiệp định GATT (“sản phẩm của một nước được đưa vào kinh doanh trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm”). Phá giá dịch vụ: Là hành vi tạo ra lợi thế về giá do có phá giá cung cấp dịch vụ vận tải biển. Phá giá hối đoái: Là hành vi dựa trên cơ sở khống chế tỷ giá hối đoái để đạt được lợi thế cạnh tranh. Phá giá xã hội: Là hành vi xuất phát từ việc nhập khẩu hàng hoá với giá thấp do tù nhân hay lao động khổ sai sản xuất. Đôi khi một công ty có thể bán ra nước ngoài với giá cao hơn, tình trạng đó gọi là phá giá ngược. Năm 1990, Deardorff đã chỉ ra sự liên kết chặt chẽ giữa phá giá và mức độ cạnh tranh trên thị trường trong nước. Ông còn nói thêm rằng, trong trường hợp cả thị trường và công ty đều được bảo hộ thì hầu như chắc chắn các công ty nước ngoài phải bán với giá thấp hơn giá thị trường, nếu họ muốn xuất khẩu hàng hoá. Điều VI Hiệp định GATT giải quyết vấn đề chống phá giá và thuế đối kháng thực sự không ngăn cấm hành vi phá giá. Điều này chỉ quy định các thành viên của GATT công nhận rằng phá giá chỉ bị kết án, nếu nó gây ra hay đe doạ gây ra tổn hại vật chất cho một ngành công nghiệp đã thành lập, hoặc làm chậm lại việc thành lập một ngành công nghiệp nội địa tại lãnh thổ của thành viên khác. Nếu việc thẩm tra ở nước nhập khẩu chỉ ra rằng việc phá giá đang xảy ra và gây ra thiệt hại về mặt vật chất đối với một ngành công nghiệp, thì khi đó chính phủ có thể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Trong thực tế, vấn đề khó khăn là việc xác định loại phá giá nào đã được nêu ở trên đang xảy ra trên thị trường. Không có một nhà kinh tế nào có khả năng xác định một cách đúng đắn về động lực phía sau của việc bán phá giá. 2. Những biến tướng của bán phá giá Khái niệm về phá giá đang được nhiều chuyên gia kinh tế tiếp tục hoàn chỉnh để giải quyết một thực tế là có những hành vi bán phá giá, mặc dù bề ngoài biểu hiện là không có sự phá giá theo đúng như công thức so sánh giá, nhưng công ty đó lại có những hành động khác có thể dẫn đến những hậu quả tương tự. Đó chính là những biến tướng của bán phá giá. Các loại biến tướng của phá giá được phân chia chi tiết hơn, bao gồm: Phá giá ẩn, được định nghĩa trong bản phụ lục của điều VI của Hiệp định GATT, là nhà nhập khẩu bán hàng với giá thấp hơn giá ghi trên hoá đơn của nhà xuất khẩu có mối liên kết với nhà nhập khẩu, đồng thời giá cũng thấp hơn giá ở nước xuất khẩu. Loại phá giá này là phá giá thông qua chuyển giá. Phá giá gián tiếp là việc nhập khẩu thông qua một nước thứ ba mà tại đó sản phẩm không bị coi là bán phá giá. Phá giá thứ cấp là việc xuất khẩu sản phẩm có chứa đựng các bộ phận được nhập khẩu với giá thường được xem là phá giá. 3. Tác động của bán phá giá Bản thân khái niệm bán phá giá đã cho thấy tác động lớn nhất của bán phá giá là việc gây ra thiệt hại vật chất cho các ngành kinh doanh trong nước. Tổn thất này rất lớn xét trên cả góc độ vĩ mô và vi mô. Trên góc độ vĩ mô: một ngành sản xuất bị đe dọa sẽ kéo theo việc phá sản của nhiều doanh nghiệp thuộc ngành đó, đồng thời dẫn đến tình trạng mất việc làm của nhân viên và gây ra các tác động dây chuyền tới những ngành kinh doanh khác. Trên góc độ vi mô: khi đối mặt với hiện tượng bán phá giá, doanh nghiệp sẽ bị mất thị trường và mất lợi nhuận. Đây thực sự là mối lo ngại không chỉ của các nước phát triển mà của cả các nước đang phát triển, vì lợi thế so sánh của các nước luôn thay đổi và cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt hơn trên thị trường quốc tế. Chính vì lẽ đó, các doanh nghiệp sản xuất nội địa đều muốn chính phủ bảo vệ họ trước hiện tượng bán phá giá. Nhìn chung, các chuyên gia kinh tế đều nhìn nhận rằng bán phá giá là hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong quan hệ kinh doanh quốc tế. Mặc dù người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi vì được mua hàng hóa với mức giá rẻ hơn mức giá thông thường, nhưng bán phá giá có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự của nước nhập khẩu. Chính vì vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tìm mọi cách, mà trước tiên là bằng việc thỏa thuận thông qua các điều ước quốc tế và xây dựng pháp luật quốc gia, để chống lại hành vi bán phá giá, nhằm bảo vệ thị trường và nền sản xuất trong nước của mình. IV. TÌNH HÌNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRÊN THẾ GIỚI VÀ CÁC LUẬT CÓ LIÊN QUAN. Mặc dù sẽ bị xử phạt theo thông lệ quốc tế, bán phá giá vẫn là yếu tố thường gặp trong giao thương quốc tế và gây thiệt hại cho các ngành sản xuất. Để bảo vệ các doanh nghiệp, mỗi quốc gia đều cố gắng đề ra những biện pháp chống bán phá giá (anti-dumping) nhất định. Các biện pháp chống bán phá giá nhằm mục đích tái lập trật tự trong cạnh tranh theo đúng tinh thần tự do thương mại, đồng thời cũng là công cụ bảo vệ ngành sản xuất nội địa đối trước sự xâm chiếm của hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, cũng có người cho rằng việc sử dụng các biện pháp chống bán phá giá để cản trở hàng hoá nhập khẩu là không hợp lý. Thật ra, các biện pháp chống bán phá giá còn đóng vai trò một loại “van an toàn” cho chính sách tự do kinh doanh: càng mở rộng cửa cho hàng hoá bên ngoài vào thì càng cần phải giữ chắc tay nắm để có thể đóng cửa ngay lại được khi cần thiết, càng chủ trương hội nhập vào khuynh hướng toàn cầu hoá thì càng phải có những biện pháp phòng thủ để trấn an các nhà sản xuất nội địa và tạo được sự ủng hộ của doanh nghiệp trong nước. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà các nước và khu vực công nghiệp phát triển trên thế giới, như Mỹ, Liên minh châu Âu, Úc và Canada, một mặt vẫn khẳng định ủng hộ tự do mậu dịch, mặt khác lại là những quốc gia dùng đến các biện pháp chống bán giá nhiều nhất. Theo báo cáo mới nhất của Ban thư ký WTO, chỉ tính riêng nửa đầu năm 2005 đã có trên 20 nước thành viên của tổ chức này tiến hành 62 vụ kiện chống bán phá giá, với sản phẩm xuất khẩu đến từ 30 quốc gia và vùng lãnh thổ. Số vụ chống bán phá giá không tăng, nhưng xu hướng các nước giàu áp dụng rào cản đối với hàng hoá nhập khẩu đến từ các nước nghèo lại tăng mạnh. Nếu năm 2003 chỉ có 7 vụ kiện bán phá giá do các nước phát triển khởi xướng, thì năm nay con số đó đã lên trên 20. Liên minh châu Âu, Ấn Độ và Mỹ đứng đầu danh sách các nước áp dụng biện pháp chống bán phá giá, còn Trung Quốc luôn đứng đầu danh sách các nước có hàng bị kiện bán phá giá, tiếp theo là Hàn Quốc, Malaysia, Nga và Thái Lan. Các vụ kiện bán phá giá tập trung chủ yếu vào ngành hóa chất, tiếp đến là các nguyên vật liệu cơ bản như sắt, thép, nhôm và nhựa. Hiện nay, nhiều thành viên của WTO như Trung Quốc, Ấn Độ và Hồng Kông đã lên tiếng bày tỏ mối lo ngại rằng Liên minh Châu Âu có thể sử dụng nhiều hơn các biện pháp chống phá giá đối với hàng dệt may nhập khẩu, khi hệ thống hạn ngạch dệt may chấm dứt vào đầu năm 2005. Từ trước đến nay, EU là khu vực nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới và cũng là khu vực xuất khẩu sản phẩm dệt lớn nhất thế giới, đồng thời đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu sản phẩm may mặc. Theo WTO, kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của EU năm 2002 lên tới 71,6 tỷ euro, tức là khoảng 91 tỷ USD, còn kim ngạch xuất khẩu đạt được 43,8 tỷ euro, tức là vào khoảng 55,7 tỷ USD. Đại sứ Trung Quốc tại WTO đã phát biểu: EU luôn đi đầu trong việc áp dụng các biện pháp thương mại, đặc biệt chống phá giá. Còn đại diện thương mại Mỹ tại WTO cho biết, luật chống bán phá giá là một quy định cố hữu trong chính sách thương mại của Mỹ và hoàn toàn nhất quán với các quy định của WTO. Trong số 351 phán quyết có hiệu lực về chống phá giá, một nửa trong số đó được Mỹ áp dụng với các đối tác thương mại châu Á, 8- với hàng hóa từ Thái Lan, 7- với các sản phẩm từ Indonesia, 18- với Đài Loan, 29- đối với Hàn Quốc, 33- với Nhật và 57- với Trung Quốc. Các doanh nghiệp tại một số quốc gia đang phát triển đã có rất nhiều tiến bộ trong việc tự bảo vệ mình trước các đối thủ cạnh tranh dày dạn kinh nghiệm, thậm chí dành lợi thế trong các vụ kiện chống bán phá giá. Tuy nhiên, có những doanh nghiệp được áp mức thuế bằng 0% trong các vụ kiện chống bán phá giá đã vội nghĩ rằng mình thắng cuộc, nhưng thực tế không phải như vậy. Được hưởng thuế suất 0% chưa hẳn sẽ vĩnh viễn được xem là không bán phá giá, vì mức thuế này chỉ được áp dụng tạm thời trong một thời hạn nhất định và sẽ được xem xét hàng năm sau cuộc điều tra ban đầu. Điều quan trọng là các doanh nghiệp phải hợp tác tham gia điều tra và chuẩn bị trả lời thật tốt các câu hỏi để được hưởng mức thuế thấp nhất. Đây mới là mục tiêu chủ yếu, bởi vì việc chứng minh không bán phá giá để mong có một chiến thắng tuyệt đối trong những vụ kiện chống phá giá ở nước ngoài là điều rất khó xảy ra. 1. Pháp luật quốc tế về chống bán phá giá Các quy định hiện hành của WTO về phá giá và chống bán phá giá có thể được nhìn nhận qua các vấn đề như: hiểu thể nào về hành vi bán phá giá, các biện pháp chống bán phá giá nào có thể được áp dụng, thủ tục áp dụng các biện pháp này ra sao. Vấn đề chống bán phá giá lần đầu tiên Hiệp hội các quốc gia (League of Nations) nghiên cứu ngay từ năm 1922. Đến năm 1947, với sự ra đời của tổ chức GATT (General Agreement of Tariffs and Trade - Hiệp ước chung về thuế quan và thương mại), các biện pháp chống bán giá chính thức được đặt dưới sự chi phối của pháp luật quốc tế. Lúc ấy, đề tài này chưa được chú ý nhiều mà chỉ về sau, khi thương mại phát triển ngày càng nhanh, sự cạnh tranh trở nên ráo riết hơn, và các nước thành viên của GATT cũng ngày càng đông đảo hơn, thì chống bán phá giá mới trở thành một mối quan tâm thật sự. Năm 1967, một số quy định về chống bán phá giá tại GATT được chuẩn hoá trong Hiệp định về thi hành điều VI của GATT (Agreement on the Implementation of Article VI), thường được gọi tắt là Hiệp định chống bán phá giá. Hiệp định này không chỉ quy định về chống phá giá, mà còn qui định các biện pháp chống tài trợ đối với hàng nhập khẩu đã được tài trợ tại nơi sản xuất. Thời gian sau đó, Hiệp định về chống bán giá được bổ sung thêm nhiều nội dung quan trọng. Là một trong những hiệp định thương mại đa biên của WTO, Hiệp định chống bán phá giá có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các nước thành viên của WTO. Các quy định trong Hiệp định là cơ sở pháp lý giúp các nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của các ngành sản xuất trong nước khi xảy ra hiện tượng bán phá giá. Năm 1995, WTO đã thành lập Uỷ ban về chống bán phá giá để giám sát việc điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nước thành viên. Sau khi phát hiện ra hàng hoá bị bán phá giá có khả năng ảnh hưởng đến sản xuất trong nước, các ngành đó đề nghị những cơ quan hữu trách thực hiện việc điều tra và đưa ra kết luận về việc có thực hiện hay không thuế chống bán phá giá để bảo vệ sản xuất trong nước. Hiệp định chống bán phá giá của WTO quy định các biện pháp chống bán phá giá chỉ được thực hiện trong những hoàn cảnh nhất định và phải đáp ứng được 4 điều kiện sau: - Sản phẩm đang bán phá giá: Sản phẩm của nước xuất khẩu đang được bán ở thị trường của nước nhập khẩu với mức giá thấp hơn giá bán thông thường của sản phẩm đó ở trên thị trường nước xuất khẩu. - Có sự thiệt hại về vật chất do hành động bán phá giá gây ra hoặc đe doạ gây ra đối với các doanh nghiệp nội địa đang sản xuất các sản phẩm tương tự với sản phẩm bán phá giá, hoặc gây ra sự trì trệ đối với quá trình thành lập của một ngành công nghiệp trong nước. - Phải có mối quan hệ nhân quả giữa bán phá giá và thiệt hại vật chất (hoặc đe doạ gây ra thiệt hại vật chất) do chính hành động bán phá giá đó gây ra. Cơ quan điều tra không được áp đặt cho hàng nhập khẩu những gì do các yếu tố khác gây ra. - Tác động của bán phá giá phải có tính bao trùm, ảnh hưởng tới cộng đồng rộng lớn. 2. Thuế chống bán phá giá Thuế chống phá giá được ra đời từ những năm đầu của thế kỷ 20, trước hết tại Canada (1904), sau đó đến New Zealand (1905), Australia (1906), Mỹ (1914). Thuế chống bán phá giá là loại thuế đặc biệt đánh vào hàng nhập khẩu, khi một doanh nghiệp sản xuất bị nhận định là đã bán phá giá. Về bản chất, thuế chống bán phá giá là khoản thuế bổ sung đánh vào hàng nhập khẩu, nhằm triệt tiêu tác dụng hay ngăn ngừa việc bán phá giá đối với sản phẩm đó (điều VI.2 của Hiệp định GATT). Mục tiêu chính của thuế chống bán phá giá là nhằm vô hiệu hóa việc bán phá giá, bù đắp những tổn thất do bán phá giá và cạnh tranh không lành mạnh gây ra cho các doanh nghiệp của nước nhập khẩu hàng bán phá giá. 3. Luật chống bán phá giá của Mỹ Mỹ là quốc gia vô địch về số lần áp dụng các biện pháp chống bán phá giá cũng như số lượng các biện pháp chống bán phá giá được sử dụng. Theo thống kê của WTO, trong vòng 20 năm kể từ năm 1980 đến năm 2000, trên thế giới có khoảng 1253 biện pháp chống bán phá giá khác nhau được xây dựng và áp dụng, trong đó riêng Mỹ đã chiếm đến 304 biện pháp, tương đương 30%. Các quy định pháp luật của Mỹ về chống bán phá giá rất phức tạp và đa dạng. Những quy định đầu tiên nằm trong Luật doanh thu năm 1916 (Revenue Act). Trong bộ luật này, các nhà làm luật ghi rõ: “Điều kiện để một hành vi được coi là bán phá giá nếu nó nằm trong mưu đồ huỷ hoại hay gây thiệt hại cho một ngành sản xuất của Mỹ, hay để ngăn chặn sự ra đời của ngành sản xuất ấy”. Đến năm 1916, Luật chống bán phá đầu tiên của Mỹ ra đời. Nhưng do một số hạn chế nên đến năm 1921, nước Mỹ ban hành Luật chống bán phá giá mới (Anti-dumping Act). Trong luật bán phá giá năm 1921, điều kiện “mưu đồ huỷ hoại” bị loại bỏ vì các nhà làm luật Mỹ cho rằng rất khó chứng minh điều kiện này. Có thể nói, hệ thống pháp luật chống bán phá giá tại Mỹ bao gồm: Luật chống bán phá giá năm 1916, Luật chống bán phá giá năm 1921, Chương 7 của Luật thuế quan năm 1930, Điều lệ của Bộ thương mại (DOCs Regulations) và nhiều điều lệ sửa đổi và bổ sung khác, trong đó gần đây nhất là Bộ luật CDSOA. Năm 2000, Quốc hội Mỹ thông qua Bộ luật về các biện pháp tài trợ và bán phá giá tiếp diễn (Continued Dumping and Subsidy Offset Act of 2000), gọi tắt là CDSOA. CDSOA còn được gọi là Tu chính án Byrd vì nó xuất phát từ một dự luật của thượng nghị sĩ Robert Byrd. Theo Tu chính án Byrd thì số tiền thuế chống bán phá giá thu được sẽ được chia lại cho các công ty Mỹ thắng kiện. Đây là một khoản tiền đáng kể đối với các công ty Mỹ vì có trường hợp mức thuế chống bán phá giá lên đến 400%. Năm 2002, công ty Candle Lite, bang Cincinnati, đã thu được khoản tiền lên đến 15,6 triệu USD sau khi thắng kiện một công ty Trung Quốc, và đến năm 2003, số tiền này là 39 triệu USD, cứ như thế hàng năm Candle Lite đều nhận được một số tiền khổng lồ.Còn theo thống kê của các cơ quan lập pháp Mỹ cho thấy, số tiền mà Tu chính án Byrd mang lại cho các doanh nghiệp Mỹ đi kiện chống bán phá giá trong năm ngoái là hơn 192 triệu USD. Năm 2005, với vụ kiện tôm, nếu lấy giá trị nhập khẩu tôm là 2 tỷ USD và tính thuế suất trung bình cho 6 nước ở mức 10% thì số tiền thuế mang lại cho Liên minh tôm miền Nam nước Mỹ lên tới 200 triệu USD. Pháp luật chống bán phá giá Mỹ quy định: “Cơ quan chức năng chỉ được tiếp nhận và xử lý các vụ kiện theo đúng trình tự, nếu đơn kiện là do ngành sản xuất nội địa đứng tên hay được đệ trình nhân danh họ”. Để có được điều kiện này, đơn phải được đưa ra dưới tên của các công ty sản xuất, hay có sự ủng hộ của họ, chiếm ít nhất 25% tổng sản lượng mặt hàng tương đương tại Mỹ. Do đó, nhiệm vụ đầu tiên của cơ quan chức năng là xác định tính đại diện của các công ty Mỹ đệ đơn kiện. Sau khi bên nguyên đáp ứng đủ điều kiện về tính đại diện, các cơ quan chức năng sẽ tiếp nhận hồ sơ khởi kiện và bước vào giai đoạn tiếp theo, đó là xác minh xem có hành vi bán phá giá hay không và có sự thiệt hại vật chất hay không. Pháp luật Mỹ trao hai nhiệm vụ này cho hai cơ quan khác nhau là Bộ thương mại (Department of Commerce - DOC) đảm nhậm việc xác định có hành vi bán phá giá hay không và nếu có thì tới mức nào, và Uỷ ban thương mại quốc tế (International Trade Commission - ITC) đảm nhận việc xác định có hay không có thiệt hại hay đe doạ gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa do hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra. DOC và ITC sẽ phối hợp làm việc với nhau trong những thời hạn qui định, và sau đó công bố kết luận trong những bản phán quyết sơ bộ và cuối cùng. Về giai đoạn điều tra, pháp luật chống bán phá giá của Mỹ quy định các bước điều tra như sau: 4. Pháp luật về bán phá giá của Việt Nam Nhìn chung, các quy định về bán phá giá trong thương mại quốc tế đã được áp dụng vào pháp luật Việt Nam. Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật cạnh tranh, Pháp lệnh về chống phá giá và một số Nghị định hướng dẫn thi hành hai văn bản luật quan trọng này nhằm điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, bán phá giá. Theo Điều 3, Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004, thì “hàng hoá có xuất xứ từ nước hoặc vùng lãnh thổ bị coi là bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam nếu hàng hoá đó được bán với giá thấp hơn giá thông thường…”. Giá thông thường ở đây được hiểu là giá của mặt hàng tương tự đang được bán trên thị trường nội địa của nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường. Trong trường hợp không có mặt hàng tương tự hay số lượng của mặt hàng tương tự này không đáng kể trên thị trường nội địa của nước xuất khẩu, thì giá thông thường này có thể được xác định căn cứ vào giá của một mặt hàng tương tự đang được bán trên thị trường của một nước thứ ba (không phải là nước xuất khẩu và nước nhập khẩu) hoặc có thể xác định bằng tổng của giá thành hợp lý với chi phí và lợi nhận ở mức hợp lý của hàng hoá đó. Như vậy, mỗi khi một mặt hàng nước ngoài được nhập khẩu vào thị trường Việt Nam với mức giá thấp hơn mức giá thông thường, thì đều có thể bị xem là hành vi bán phá giá vào thị trường Việt Nam. Tại khoản 3, Điều 2 của Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam, thì “biên độ bán phá giá không đáng kể là biên độ bán phá giá không vượt quá 2% giá xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam”. Như vậy, theo quy định này thì biên độ phá giá hàng nhập khẩu vào Việt Nam nếu ở mức 2% vẫn được xem là không bán phá giá vào thị trường Việt Nam. Chỉ khi biên độ này vượt quá 2% thì mới bị coi là vi phạm luật bán phá giá của Việt Nam. So với quy định của WTO, pháp luật Việt Nam quy định về điều kiện gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước có phần rõ ràng và cụ thể hơn. Tại Điều 2 khoản 7, Pháp lệnh chống bán phá giá của Việt Nam quy định về thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước đó là "tình trạng suy giảm đáng kể hoặc kìm hãm tăng trưởng về sản lượng, mức giá, mức tiêu thụ hàng hoá, lợi nhuận, tốc độ phát triển sản xuất, việc làm của người lao động, đầu tư và các chỉ tiêu khác của ngành sản xuất trong nước hoặc là tình trạng dẫn đến khó khăn cho việc hình thành một ngành sản xuất trong nước". Pháp luật Việt Nam còn quy định tổ chức, cá nhân đại diện cho ngành sản xuất

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxBán phá giá & chống bán phá giá trong thương mại của việt nam và trên thế giới.docx
Tài liệu liên quan