Phần I. Lý luận chung về thuế GTGT
A. Khái quát về luật thuế GTGT
I. Định nghĩa về thuế GTGT.
II. Căn cứ tính thuế và phương pháp tính thuế.
1. Giá tính thuế.
2. Thuế suất thuế GTGT.
3. Phương pháp tính thuế.
3.1 Phương pháp khấu trừ thuế.
3.2 Phương pháp tính thuế trực tiếp.
B. Khái quát chung những quy định trong hoàn thuế GTGT.
I. Đối tượng được hoàn thuế.
II. Hồ sơ hoàn thuế GTGT.
III. Đối tượng được hoàn thuế GTGT.
IV. Trách nhiệm của hai cơ quan thuế trong việc hoàn thuế.
V. Hạch toán hoàn thuế GTGT trong các doanh nghiệp.
PHẦN II. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO CÔNG TÁC HOÀN THUẾ GTGT TRONG CÁC DOANH NGHIỆP.
I. Hoàn thuế với hàng nông - lâm - thuỷ sản và hàng NK.
II. Thuế suất thuế GTGT và ảnh hưởng của nó tới công tác hoàn thuế.
III. Về hoá đơn và quản lý hoá đơn thuế GTGT.
IV. Về thủ tục hoàn thuế GTGT.
V. Về hệ thống tài khoản kế toán áp dụng cho hoàn thuế GTGT.
KẾT LUẬN.
35 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1329 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bàn về công tác quản lý và hạch toán hoàn thuế giá trị gia tằng trong các doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ghị hoàn thuế GTGT nộp thừa vào ngân sách Nhà nước.
- Quyết định sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản của cấp có thẩm quyền.
- Quyết toán thuế GTGT đến thời điểm sáp nhập giải thể.
Đối tượng được hoàn thuế GTGT có trách nhiệm:
Lập hồ sơ đề nghị hoàn thuế gửi cơ quan thuế.
Trường hợp hồ sơ không rõ ràng hoặc không đầy đủ, cơ quan thuế yêu cầu bổ sung hồ sơ hoặc giải trình thì cơ sở đề nghị hoàn thuế phải cung cấp hồ sơ bổ sung hoặc giải trình theo yêu cầu của cơ quan thuế.
Ngoài các hồ sơ phải gửi đến cơ quan thuế theo quy định, các hồ sơ khác liên quan đến hoàn thuế, khấu trừ thuế, các đối tượng được hoàn thuế phải lưu giữ đầy đủ tại cơ sở.
Các đối tượng được hoàn thuế khi lập và gửi hồ sơ hoàn thuế đến cơ quan thuế phải kê khai đúng, trung thực các số liệu kê khai và chịu trách nhiệm trước pháp luật về số liệu kê khai. Mọi trường hợp sai sót nếu kiểm tra, phát hiện đều bị xử lý truy thu về thuế. Tuỳ theo nguyên nhân và mức độ vi phạm còn bị phạt hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo pháp luật.
Hạch toán hoàn thuế GTGT trong các doanh nghiệp.
Tổ chức chứng từ kế toán:
Theo luật định : đối với các cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, khi bán hàng hoá- dịch vụ phải sử dụng hoá đơn GTGT do Bộ Tài Chính phát hành.
- Đối với cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp, khi bán hàng hoá, dịch vụ phải sử dụng “ Hoá đơn bán hàng” do Bộ Tài Chính phát hành. Việc ghi chép phải đầy đủ và đúng các yếu tố của chứng từ kế toán, bao gồm:
- Đối với các cơ sở sản xuất chế biến hàng nông lâm thuỷ sản chưa qua sơ chế của người sản xuất trực tiếp bán ra không hoá đơn theo chế độ quy định thì người mua phải lập “ Bảng kê mua hàng nông lâm thuỷ sản” theo mẫu 04- GTGT .
Tài khoản sử dụng:
Tk 133 “ Thuế GTGT” được khấu trừ.
Tài khoản này dùng để phản ánh số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, đã khấu trừ và còn được khấu trừ.
TK 133 gồm hai tiểu khoản:
TK 1331: thuế GTGT của hàng hoá- dịch vụ
TK 1332: thuế GTGT của TSCĐ
3. Phương pháp hạch toán hoàn thuế GTGT:
Theo luật định, khi bán hàng; người bán hàng giao hoá đơn GTGT, hoá đơn bán hàng cho người mua và người mua coi đó là hoá đơn thuế GTGT đầu vào của mình, lấy đó làm minh chứng số thuế GTGT sẽ được khấu trừ khi tính số thuế phải nộp. Đến cuối tháng, cơ sở sản xuất kinh doanh lập bảng kê số phát sinh trong tháng gồm số thuế đầu ra, số thuế đầu vào rồi khấu trừ cho nhau ra số thuế GTGT phải nộp hoặc được hoàn và lập tờ khai thuế với cơ quan thuế.
Có thể khái quát trường hợp điển hình của phương pháp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Kế toán thuế GTGT được khấu trừ
Tk 331, 111, 112… Tk 152,156,151,211,621,627…
Tổng giá Giá mua
thanh toán
TK133 TK33311
Khấu trừ vào VAT đầu ra
Thuế GTGT TK111,112
đầu vào
Được hoàn thuế
TK632
Phân bổ thuế GTGT đầu vào
cho các đối tượng không chịu
thuế
Sơ đồ 2: Sơ đồ hạch toán thuế GTGT đầu ra
Tk 133 Tk 3331 TK131,111,112
Khấu trừ thuế GTGT đầu vào
Thuế GTGT phải nộp
Tk 111, 112
Nộp thuế
Tk 711
Khoản được giảm thuế
Có thể thấy việc hạch toán thuế GTGT nói chung tại các doanh nghiệp phụ thuộc chặt chẽ vào cơ chế tài chính hiện hành bao gồm những qui chế tài chính được qui định chi tiết trong:
- Lập hoá đơn GTGT.
- Mức thuế suất với từng loại mặt hàng, chủng loại hàng hoá, dịch vụ.
- Thủ tục hành thu của cơ quan thuế.
Từ sơ đồ hạch toán có thể thấy hoàn thuế GTGT là một phần của công tác kế toán thuế GTGT tại doanh nghiệp. Vì vậy, hạch toán hoàn thuế GTGT phụ thuộc chặt chẽ vào các nhân tố trên. Bên cạnh đó, cơ chế hoàn thuế GTGT hiện nay còn bị chi phối bởi một số qui định đặc biệt thể hiện sự ưu tiên của nhà nước với những mặt hàng như nông lâm thuỷ sản (NLTS) chưa qua chế biến. Trong phần II của bài viết này (phần thực trạng và giải pháp) sẽ tìm hiểu một cách chi tiết những nhân tố nêu trên nhằm tìm ra một giải pháp cho công tác hạch toán hoàn thuế GTGT tại các doanh nghiệp hiện nay.
Phần II: thực trạng và giải pháp cho công tác hoàn thuế VAT trong doanh nghiệp.
Hoàn thuế với hàng nông lâm thuỷ sản và hàng xuất khẩu:
Thời gian qua hoàn thuế GTGT đang là một vấn đề bức xúc, thu hút sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách và cả phía các doanh nghiệp. Bộ Tài Chính vừa ban hành thông tư số 82/2002/TT-BTC, trong đó có qui định cụ thể đối tượng hoàn thuế theo hai loại:
Loại 1: Đối tượng áp dụng kiểm tra - thanh tra trước khi hoàn thuế.
Loại 2: Đối tượng áp dụng hoàn thuế trước khi kiểm tra sau.
Việc quy định này không những tháo gỡ được vướng mắc trong việc quản lý đối tượng được hoàn thuế, tránh thất thu cho ngân sách Nhà nước (NSNN) mà còn đảm bảo một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp.
Nhưng vẫn còn những tồn tại trong công tác hoàn thuế GTGT tại thời điểm này, đó chính là những quy định hoàn thuế với hàng nông lâm thuỷ sản (NLTS).
Trên thực tế, chính sách hoàn thuế GTGT đối với hàng NLTS là một biện pháp tốt nhằm giảm giá đầu ra, tăng khả năng cạnh tranh và tạo vị thế vững chắc cho các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Thật vậy, nếu căn cứ vào cách hạch toán tại doanh nghiệp thì khi doanh nghiệp thu mua NLTS chưa qua chế biến, kế toán sẽ ghi bút toán:
Nợ TK 152, 156...
Nợ TK 133: Thuế GTGT được hoàn lại.
Có TK 111,112,331...
Số liệu được ghi trên TK 111, 112, 331... là tổng giá thanh toán được ghi trên bảng kê mẫu số 04 theo qui định của Bộ Tài Chính; trên TK 133 là tổng giá thanh toán nhân với thuế suất thuế GTGT theo qui định.
Có thể tóm tắt trên sơ đồ:
TK 111, 112, 331... TK 152, 156...
Giá mua
TK 133 TK 111, 112...
Thuế GTGT được hoàn lại Nhận lại tiền từ hoàn thuế
Rõ ràng là một phần chi phí của đầu vào doanh nghiệp đã được Nhà nước "hỗ trợ". Sự "hỗ trợ" tích cực hoặc không là tuỳ thuộc mức thuế suất GTGT đầu vào được khấu trừ theo quy định do Bộ Tài Chính ban hành. Mức thuế suất có thể là 3%, 2%, 1% và có xu hướng tới 0%. Sở dĩ kế toán doanh nghiệp ghi chép được định khoản trên là căn cứ vào Bảng kê mẫu số 04 do Bộ Tài chính ban hành.
Trong Bảng kê cần phải chi tiết những thông tin về:
Tên cơ sở sản xuất, chế biến
Địa chỉ
Địa chỉ nơi tổ chức thu mua
Người phụ trách thu mua
Nhưng đến khi bắt tay vào công việc thực tế thì các doanh nghiệp lại tỏ ra lúng túng trước việc phân công trách nhiệm ghi chép bảng kê. Người ta đặt ra câu hỏi việc ghi chép này do doanh nghiệp hay do người bán NLTS tiến hành?. Có ý kiến cho rằng nếu buộc doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về tính chính xác trong Bảng kê mua hàng thì nên chăng Nhà nước bỏ quy định khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào đối với hàng NLTS?.
Xét trên bình diện rộng thì giải pháp ấy chỉ hạn chế tiêu cực đối với thuế GTGT bởi vì thuế GTGT đầu vào được khấu trừ càng nhỏ thì thuế GTGT phải nộp càng tăng, còn với thuế thu nhập doanh nghiệp thì chưa ổn. Bởi vì, Bảng kê hàng hóa chính là cơ sở pháp lý thay cho hoá đơn mua hàng làm căn cứ cho kế toán ghi chép nghiệp vụ và tính ra chi phí hợp lý, xác định thu nhập chịu thuế và giải trình trước cơ quan thuế vụ. Vậy nếu Bảng kê không bảo đảm tính hợp lý thì có được xác định là chi phí hợp lý để xác định thu nhập chịu thuế không?. Nếu không chấp nhận là chi phí hợp lý thì doanh nghiệp sản xuất không thể hoạt động được. Ngược lại, nếu chấp nhận là chi phí hợp lý để xác định thu nhập chịu thuế thì lại tạo các kẽ hở để các doanh nghiệp làm ăn không đúng đắn tham ô, chiếm dụng tiền của ngân sách Nhà nước và làm lũng đoạn giá bán trên thị trường.
Rõ ràng với một cơ chế quy định còn nhiều lỏng lẻo thì căn cứ ghi chép hạch toán kế toán cũng lỏng lẻo và không đảm bảo tính pháp lý là một hậu quả tất yếu. Nhưng điều nghiêm trọng hơn là làm thất thu hàng trăm ngàn tỷ đồng của NSNN xuất phát từ cái gọi là "nới lỏng cơ chế hoàn thuế" và nó còn vô hình chung tạo ra một sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các doanh nghiệp kê khai hạch toán nghiêm túc với doanh nghiệp móc ngoặc để chiếm dụng nguồn NSNN.
Xem xét số liệu báo cáo của tổng cục thuế (BTC) sau hai năm thực hiện hoàn thuế GTGT, ngành thuế cả nước đã hoàn gần 15.000 tỷ đồng, trong đó 25% hoàn trong ngành NLTS. Qua đợt thanh tra, kiểm tra hoàn thuế GTGT đã phát hiện 106 vụ vi phạm với số tiền hoàn khống thuế trên 300 tỷ đồng, chiếm gần 2% trên tổng số thuế được hoàn, 8% trên số thuế hoàn cho ngành hàng NLTS. Quan sát lượng kim ngạch xuất khẩu của ngành hàng rau quả cho thấy kim nghạch xuất khẩu rau quả cả nước năm 1999 đạt 114 triệu USD, năm 2000 đạt 214 triệu USD, năm 2001 đạt trên 300 triệu USD, 6 tháng đầu năm 2002 chỉ đạt 107 triệu USD. Số liệu trên cho thấy, kim ngạch xuất khẩu rau quả tăng "bất thường" trong năm 2000, đặc biệt là năm 2001 gấp 3 lần năm 1999, trong khi đó thị trường xuất khẩu khó khăn, giá xuất khẩu giảm. Kim ngạch 6 tháng đầu năm 2002 giảm chỉ bằng 50% so với cùng kỳ năm trước là do tăng cường kiểm tra thuế.
Trường hợp vi phạm phổ biến nhất, dễ thực hiện và khó kiểm tra nhất là trường hợp lập bảng kê mua hàng theo giá cao hơn giá thực tế đã mua để được khấu trừ nhiều hơn số thực tế. Cũng dể hiểu khi các doanh nghiệp Nhà nước rất khó cạnh tranh được với tư nhân trong lĩnh vực buôn bán nông sản vì cơ chế thu mua ở doanh nghiệp Nhà nước chặt chẽ hơn. Phải chăng, vô hình chung chính sách thuế đã tạo ra một môi trường cạnh tranh thiếu lành mạnh trong khâu tiêu thụ hàng NLTS giữa các thành phần kinh tế?.
Để khắc phục mặt trái của cơ chế hoàn thuế VAT đối với hàng xuất khẩu nói chung và hàng NLTS nói riêng nên chăng Nhà nước cần sửa đổi theo hướng sau:
Một là: Nên bãi bỏ quy định "nới lỏng" hoàn thuế GTGT với hàng NLTS vì nguyên tắc hoàn thuế là có thu mới có hoàn. Hàng NLTS mua trực tiếp từ người sản xuất không có hóa đơn GTGT, người mua không nộp thuế GTGT thì không được hoàn thuế. Thêm vào đó, Nhà nước nên giảm thuế GTGT đầu ra của sản phẩm được chế biến từ hàng NLTS hiện đang ở mức 10%, trong khi nguyên liệu chính của họ chiếm tới hơn 80% chi phí. Những khoản mục mua vào không có hóa đơn này nếu không được khấu trừ thì thuế GTGT phải nộp của các doanh nghiệp này sẽ rất cao và hạn chế sự đi sự phát triển của họ. Mặt khác, khoản đầu tư từ NSNN thông qua hoàn thuế nên chuyển sang cơ chế tăng đầu tư trực tiếp cho người sản xuất bằng giảm giá các yếu tố đầu vào (vật tư, dịch vụ, nông nghiệp), tăng kinh phí đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng (xây dựng kênh mương, tưới tiêu, quy hoạch ruộng đồng), khuyến khích áp dụng tiến bộ kỹ thuật, phát triển công nghiệp chế biến và bảo quản sau thu hoạch. Tất cả các khoản đầu tư trực tiếp như trên thông qua chính sách giảm giá đầu vào sẽ có tác dụng thiết thực nhằm giảm giá đầu ra của hàng NLTS xuất khẩu. Điều đó càng có ý nghĩa trong từng bước thực hiện lộ trình cam kết cắt giảm thuế quan và các khoản tài trợ của Nhà nước đối với hàng xuất khẩu khi tham gia hội nhập kinh tế thế giới.
Hai là: Đối với hàng hóa xuất khẩu có hoá đơn GTGT, doanh nghiệp đã đăng ký mã số thuế kinh doanh thì chỉ nên hoàn thuế cho khối lượng hàng hóa xuất khẩu thực thu ngoại tệ qua ngân hàng, kim ngạch của số lượng hàng hóa xuất khẩu phải tương ứng với giá trị hành xuất khẩu nhằm tránh tình trạng hoàn thuế cho cả hàng hóa tiêu thụ nội địa ở những doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh hàng xuất khẩu. Trong thực tế, việc trao đổi bằng ngoại tệ qua ngân hàng, nhất là bằng L/C, chỉ được dùng với những thương vụ lớn. Vì muốn mở L/C doanh nghiệp phải đặt trước một số tiền khá lớn cho ngân hàng, mà điều này lại cực kỳ khó khăn cho những doanh nghiệp xuất khẩu nhưng thiếu vốn. Vậy nên chăng các ngân hàng nên mở thêm dịch vụ nhận, chuyển tiền với những thương vụ nhỏ, cước phí ít nhằm khuyến khích các doanh nghiệp thanh toán qua ngân hàng. Một khi dịch vụ này tạo được sự thuận lợi cho giao dịch của doanh nghiệp thì cũng đem lại lợi ích cho các ngân hàng và cả nguồn thu cho NSNN.
Trên đây chỉ là một số biện pháp khắc phục tình trạng chính sách hoàn thuế chưa hợp lý với hàng NLTS và hàng xuất khẩu. Thực chất hoàn thuế GTGT hiện đang là một bức xúc được dư luận xã hội quan tâm. E rằng, chỉ với những giải pháp trên thì chẳng khác nào "trông cây mà mong thấy rừng". Bởi lẽ, xung quanh vấn đề hoàn thuế còn một loạt vấn đề cần quan tâm như: thuế suất thuế GTGT, tình trạng hoá đơn giả, thủ tục hoàn thuế và tài khoản sử dụng để phản ánh hoàn thuế GTGT. Xin lần lượt xem xét:
Thuế suất thuế GTGT và ảnh hưởng của nó tới công tác hoàn thuế
Theo khoản 1a mục I phần D của thông tư số 122/2000/TT-BTC thì:
“Cơ sở kinh doanh trong 3 thàng liên tục trở nên (không phân biệt liên độ kế toán) có luỹ kế số thuế đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế đầu ra thì được hoàn thuế. Số thuế được hoàn là số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết của thời gian xin được hoàn thuế...”
Từ đây, nếu giả định rằng phần giá trị gia tăng của doanh nghiệp không thay đổi qua các kỳ kế toán thì thuế suất đóng vai trò quan trọng có tính chất quyết định một doanh nghiệp là đối tượng được hoàn thuế và ngược lại. Mặt khác, xuất phát từ tầm quan trọng của thuế suất "thuế suất là linh hồn của mỗi sắc thuế". Nên nếu nghiên cứu về hoàn thuế GTGT mà lại bỏ qua phần thuế suất e sẽ là một thiếu sót lớn.
Xét về khía cạnh hạch toán thuế GTGT để xác định số thuế được hoàn, nếu gọi:
tr: thuế suất thuế GTGT đầu ra
tv: thuế suất thuế GTGT đầu vào
T: số thuế GTGT phải nộp
Gt: giá trị gia tăng
Gv: giá hàng hóa, dịch vụ mua vào
Gr: giá hàng hóa, dịch vụ bán ra
thì kế toán tại doanh nghiệp sẽ tính toán được dựa vào công thức:
T = Gr * tr - Gv *tv
T= (Gv +Gt) * tr - Gv *tv
T = Gv * tr + Gt * tr - Gv *tv
T= Gt * tr + Gv * (tr - tv)
Trường hợp hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu thì tr=0, thuế VAT phát sinh là Gv*tv, tức là doanh nghiệp được hoàn thuế đúng bằng số thuế GTGT phát sinh ở đầu vào. khi đó, nếu nhận được thông báo của cơ quan thuế và hoàn tất các thủ tục hoàn thuế. Kế toán sẽ phản ánh:
TK 1331 TK 111, 112...
Số thuế GTGT được Nhà nước hoàn
Trường hợp thuế suất đầu ra = thuế suất đầu vào thì tv = tr thì số thuế GTGT của doanh nghiệp phải nộp chính là GTGT nhân với thuế suất (Gt*tv=Gt*tr). Lúc này, kế toán sẽ phản ánh:
TK 111,112,331 TK133 TK 33311 TK131,111
Số thuế GTGT Thuế GTGT đầu ra
được khấu trừ
TK 152,156,211 TK511
Giá bán
Giá mua chưa thuế chưa thuế
Với cùng một mức thuế suất, luật thuế GTGT chỉ thực sự áp dụng với phần GTGT tăng thêm. Do đó, trường hợp này phản ánh đúng bản chất của thuế GTGT. Và nếu doanh nghiệp được hoàn thuế, điều này chứng tỏ doanh nghiệp đã bán ra với giá thấp hơn giá mua vào. Khoản hoàn thuế của Nhà nước cho doanh nghiệp cũng là một lẽ công bằng trong trường hợp ấy.
Trường hợp thuế suất đầu ra khác thuế suất đầu vào thì số thuế GTGT doanh nghiệp phải nộp hoặc được hoàn lại không được giữ đúng bản chất là phần giá trị tăng thêm của hàng hóa nhân với thuế suất. Hơn nữa, với thuế GTGT nhiều mức thuế suất, các doanh nghiệp phải hao tốn công sức thêm trong việc hoạch định chiến lược sản xuất, chiến lược mặt hàng. Bởi lẽ, họ phải đưa thêm một thông số vào tính toán, đó là mức thuế suất thuế GTGT của từng loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể.
ở nước ta, thuế suất thuế GTGT hiện hành có 4 mức 0%, 5%, 10% và 20%. Sự đa dạng về mức thuế suất thể hiện mức độ khuyến khích hoặc hạn chế đối với từng loại hình kinh doanh, từng loại mặt hàng - dịch vụ. Nhưng cũng từ sự đa dạng về mức thuế suất này đã gây rất nhiều bất cập như đã nêu trên cho các doanh nghiệp, ấy là chưa kể đến sự lúng túng của cơ quan thuế vụ khi họ tìm chỉ tiêu để sắp xếp nhóm mặt hàng dịch vụ tương ứng với bốn mức thuế suất trên cũng như việc làm tăng lên số lượng hoàn thuế hoặc truy thu thuế GTGT một cách không đáng có.
Rõ ràng là việc phải chuyển sang thuế GTGT một mức thuế suất là yêu cầu hợp lý. Cần nói thêm rằng, một mức thuế suất được hiểu là không tính đến mức thuế suất 0% dành cho hàng hóa - dịch vụ xuất khẩu.
Bàn về tính khả thi của phương án này cũng cần xem mấy lý do thuộc về bản chất của thuế GTGT.
Thứ nhất: Thuế GTGT có tính luỹ thoái.
Thứ hai: Việc áp dụng thuế suất GTGT một mức sẽ không tạo nhiều cơ hội cho Nhà nước thể hiện chính sách mặt hàng cũng như chính sách xã hội của mình (Thuế GTGT có tính trung lập cao).
Thuế GTGT có tính luỹ thoái. Điều này không cần phải bàn cãi nhiều nữa. Nhưng nên nhớ hệ thống thuế là một cơ cấu hoàn chỉnh, bổ khuyết và bọc lót cho nhau trong việc điều tiết thu nhập phát sinh trong nền kinh tế nhằm mục đích mang lại sự bình đẳng tương đối cho cộng đồng dân cư. Vậy thật sự có cần thiết lưu ý đến tính luỹ thoái của thuế GTGT hay không khi chúng ta đang ở cạnh nó một thuế thu nhập cá nhân với thiết kế một hệ thống thuế suất luỹ tiến từng phần nhằm điều tiết trên diện rộng các cá nhân có thu nhập cao hơn mức bình quân cộng đồng.
Với lý do thứ hai thì đây là một hạn chế đương nhiên của một sắc thuế mang tính trung lập cao. Nhưng cũng đã đến lúc các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý nên chú trọng đến việc dành những ưu đãi cho ngành, địa phương mình thông qua thuế. Bởi bất cứ các ưu đãi nào cũng là nguyên nhân cho sự bất bình đẳng cho các đối tượng còn lại.
Về hoá đơn và quản lý hoá đơn thuế GTGT
Hoá đơn sử dụng trong luật thuế GTGT là hoá đơn thuế GTGT, hoá đơn bán hàng và ngoài ra còn có Bảng kê mua hàng NLTS chưa qua chế biến, đất, đá, cát, sỏi, phế liệu không có hoá đơn.
Hóa đơn là một phần quan trọng của phương pháp chứng từ trong tổ chức hạch toán kế toán. Theo phương pháp này thì:
Hóa đơn chứng từ là một minh chứng cho tính hợp pháp cho việc hình thành các nghiệp vụ kinh tế thuộc đối tượng hạch toán kế toán và căn cứ ghi sổ.
Hoá đơn phục vụ kịp thời cho công tác lãnh đạo nghiệp vụ ở đơn vị hạch toán và phân tích kinh tế.
Hoá đơn gắn liền với quy mô, thời điểm phát sinh các nghiệp vụ kinh tế với trách nhiệm vật chất của cá nhân, các đơn vị về nghiệp vụ đó.
Với hệ thống hạch toán kế toán, chứng từ, hoá đơn là cơ sở để phân loại, tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế vào các sổ theo dõi từng đối tượng hạch toán cụ thể.
Hóa đơn chứng từ nói chung và hoá đơn liên quan đến thuế GTGT nói riêng theo những lý luận trên là có một tầm quan trọng đặc biệt. Nhưng một nghịch lý là hơn ba năm đưa luật thuế GTGT vào cuộc sống, đến giờ phút này khi được hỏi về cách kê khai bảng kê với một số mặt hàng như NLTS hay đất đá cát sỏi chưa qua chế biến thì bản thân doanh nghiệp vẫn tỏ ra lúng túng, vẫn không phân biệt được nhiệm vụ kê khai là thuộc về phía doanh nghiệp hay thuộc về người bán. Vậy thì tính chính xác của những nghiệp vụ kế toán sẽ lấy gì để bảo đảm và tại sao với một cơ chế còn quá lỏng lẻo như vậy mà số lượng tiền hoàn thuế cho doanh nghiệp vẫn không ngừng gia tăng?.
Vậy giải pháp nào giúp các doanh nghiệp tháo gỡ được vướng mắc này và hoàn thiện được một khâu quan trọng có tính chất tiên quyết trong việc tổ chức hạch toán hoá đơn - chứng từ?. Theo tác giả bài báo "Nên bỏ khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào đối với hàng NLTS” thì việc hợp thức hoá bảng kê là một điều cần thiết. Bởi đây là căn cứ hợp lý để tính chi phí và thu nhập hợp lý, hợp lệ trong kê khai thuế với các cơ quan tài chính. Nên chăng, có thể thiết kế Bảng kê theo mẫu này:
Bảng kê
(Tháng............... năm.........)
Tên cơ sở sản xuất kinh doanh :......................................................
Địa chỉ:.........................................................Mã số:..........................
Địa chỉ nơi tổ chức thu mua:.............................................................
Người phụ trách thu mua:....................................................................
N-T-N
Mua hàng
Người bán
Hàng hóa mua vào
Ghi chú
Mã thẻ
Mã vùng
Mã nghành
Tên hàng
Số lượng
Đơn giá
Tổng giá thanh toán
Tổng giá trị hàng mua vào:..................................
Số tiền thuế GTGT tính khấu trừ:.........................
Ngày ...... tháng ...... năm Ngày ...... tháng ...... năm
Người lập bảng kê Giám đốc cơ sở
(Ký, ghi rõ họ tên) (Ký tên, đóng dấu)
Điều kiện áp dụng Bảng kê này là:
Các ngành chức năng quy định cụ thể cho các tổ chức hiệp hội như: Hội nông dân, Hội khai thác đánh bắt thuỷ sản,.... và phải có trách nhiệm cấp phát thẻ hội viên (như trường hợp cấp thể công chức của các nghành). Trong thẻ phải có đầy đủ họ tên, địa chỉ, ảnh nhận dạng, số hiệu, mã số vùng, mã ngành, mã thẻ. Khi bán hàng, người bán phải xuất trình thẻ (làm căn cứ để miễn thuế). Người mua căn cứ vào thẻ hội viên để ghi vào chứng từ mua hàng và lên bảng kê.
2. Quản lý hoá đơn thuế GTGT
Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng lúng túng trong kê khai bảng kê và hoá đơn GTGT giả hoành hành như hiện nay là do các nhà hoạch định và các ban ngành có liên quan.
Thời gian qua, từ phía các cơ quan hữu trách cũng đã ban hành một số văn bản để điều chỉnh và ngăn chặn tình trạng nêu trên nhưng các quy định về chế độ quản lý hoá đơn trước nay chỉ tồn tại dưới dạng quyết định của BTC, trong khi đó vi phạm hoá đơn đều nằm trong luật, pháp lệnh, thấp nhất cũng dưới dạng nghị định. Vì vậy, về mặt lô gíc các giải pháp trong quyết định của BTC là không có giá trị thi hành bằng các quy định trong luật. Đơn cử như: Nghị định 49 về xử phạt vi phạm hoá đơn của thanh tra tài chính không thể có giá trị hơn việc xử phạt vi phạm hoá đơn trong luật thuế GTGT. Rõ ràng, đã có một sự thiếu đồng bộ trong việc quản lý về hoá đơn. Các văn bản quy phạm thì khập khiễng không có tính nhất quán về thẩm quyền ,gây ra một sự chồng chéo về văn bản. Vậy doanh nghiệp thực hiện hoặc không thực hiện theo văn bản nào và làm thế nào để có thể cập nhật chứ chưa nói gì tới việc hiểu biết một cách tường tận về những quy định ấy? Đó là một câu hỏi không dễ tìm ra lời giải đáp.
Trước thực trạng gia tăng đột biến những hành vi mua bán hoá đơn đầu vào; không xuất hoá đơn khi bán hàng mà nghiêm trọng hơn cả là việc in và phát hành hoá đơn giả mẫu hoá đơn của BTC; giá mẫu hoá đơn đặc thù của doanh nghiệp đã đăng ký và được BTC cho phép lưu hành; tổ chức cá nhân không có chức năng bán hoá đơn nhưng vẫn bán hoá đơn chưa sử dụng của BTC phát hành bất kể từ nguồn nào đã khiến dư luận đặt ra câu hỏi: Phải chăng cơ chế điều hành và quản lí hoá đơn thuế GTGT của ngành thuế đang bị vô hiệu hoá?. Và những kiểu vi phạm như trường hợp công ty xà phòng Hà Nội nhập một lượng hoá chất lớn rồi bí mật giao cho liên doanh Lever Haso, hàng chuyển đi song không xuất hoá đơn mà báo cáo là hàng bị tồn kho. Do số thuế GTGT đầu vào lớn hơn đầu ra nên công ty đã nhận đợc 1,8 tỷ đồng tiền hoàn thuế trong sáu tháng đầu năm 1999 đến bao giờ mới chấm dứt?
Theo ông Nguyễn Văn Ninh- Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế cho biết
: “ Trong văn bản số 3270/TCT/AC ngày 23/08/2002 nêu rõ: Đối với doanh nghiệp mới thành lập muốn mua được hoá đơn, phải nộp cho cơ quan thuế sơ đồ địa điểm SXKD, văn phòng giao dịch (do tổ chức cá nhân tự vẽ) có xác nhận và cam kết của người đứng đầu tổ chức về cá nhân số nhà, đường phố, các đường phố liên quan hoặc địa điểm thôn xã”
Nhưng BTC cũng quy định:
Một số doanh nghiệp có đủ điều kiện tự in hoá đơn, nếu được sự đồng ýcủa BTC thì sẽ được phép sử dụng hoá đơn tự in thay vì dùng hoá đơn của BTC phát hành. Như vậy với khoảng hơn 6000 doanh nghiệp nhà nước, 2500 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 29000 công ty trách nhiệm hữu hạn, 3000 doanh nghiệp tư nhân không tính đến hơn1200000 hộ gia đình, giả sử số doanh nghiệp này tự in hoá đơn riêng cho mình thì người mua hàng và cán bộ kiểm tra làm thế nào biết được hoá đơn này là thật hay giả? Trong những tình huống như vậy, liệu rằng yêu cầu phải rõ ràng về yêú tố nhân thân, địa chỉ như ông Ninh đã trích đẫn ở trên còn có quan trọng?.
Thiết nghĩ, việc cho rằng các mẫu hoá đơn tự in có nhiều ưu điểm ít bị lợi dụng nên cần mở rộng diện hoá đơn tự in cũng cần phải cân nhắc kỹ. Trong thực tế, chúng ta chưa cố một cuộc khảo sát chính thức nào về tình trạng giả mạo hoá đơn tự in. Mặt khác, hoá đơn tự in bản thân nó không thể thay thế toàn bộ cho hoá đơn của BTC. BTC vẫn phải in hoá đơn với giá thành hoá đơn sẽ cao hơn khi các doanh nghiệp không đủ điều kiện kinh tế và không cần thiết in hoá đơn riêng.
Nên chăng, BTC cần đánh giá lại tình trạng sử dụng hoá đơn tự in một cách cụ thể để có hướng xử lý cụ thể, bên cạnh đó củng cố lại việc phát hành hoá đơn in sẵn của BTC nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng và các thực thể kinh doanh nói chung.
IV. Về thủ tục hoàn thuế GTGT
Vừa qua BTC vừa ban hành thông tư số 82/2002/TT-BTC trong đó phân loại rõ 2 đối tượng được hoàn thuế.
1.Đối tượng áp dụng kiểm tra- thanh tra trước khi hoàn thuế gồm:
+ Cơ sở kinh doanh mới thành lập có thời gian kinh doanh dưới một năm, dề nghị hoàn thuế lần đầu.
+ Cơ sở kinh doanh đã có các hành vi vi phạm gian lận về thuế GTGT theo hướng dẫn.
+ Cơ sở kinh doanh xuất khẩu hàng hoá là nông lâm thuỷ sản chưa qua chế biến theo đường biên giới đất liền.
+ Cơ sở kinh doanh chia tách, giải thể phá sản.
2. Đối tượng áp dụng hoàn thuế trước - kiểm tra sau:
Là đối tượng không thuộc đối tượng quy định tại các điểm trên đây.
Cũng theo thông tư này, doanh nghiệp nào thuộc nhóm đối tượng (2) sẽ được ưu tiên xét hoàn thuế. Còn doanh nghiệp thuộc nhóm (1) sẽ phải chịu một thời gian hoàn thuế dài gấp bốn lần so với đối tượng (1) đâý là
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K1264.doc