Đề tài Bàn về nghiệp vụ bảo hiểm tai nạn dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Công ty Bảo Hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1999 – 2001

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

Chương I. Lý luận chung về bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối

với người thứ ba 2

I. Thực trạng hoạt động giao thông đường bộ ở nước ta, sự cần thiết và

tác dụng phải bảo hiểm TNDS của chủ xe 2

1. Thực trạng giao thông đường bộ ở Việt Nam 2

2. Sự cần thiết của bảo hiểm TNDS cua chủ xe cơ giới đối với người

thứ ba 4

II. Cơ sở hình thành bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ 3

dưới hình thức bắt buộc 6

III. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối

Với người thứ ba 7

1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm 7

2. Phí bảo hiểm 10

3. Trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm 14

Chương II. Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm TNDS

của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở Công ty bảo hiểm

Thành phố Hồ Chí Minh 17

I. Sự hình thành và phát triển của Công ty bảo hiểm

thành phố Hồ Chí Minh 17

1. Sự hình thành và phát triển 17

2. Kết quả kinh doanh của Công ty giai đoạn (1999 - 2001) 25

II. Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới

đối với người thứ ba ở Công ty bảo hiểm bảo Minh 28

1. Công tác khai thác 28

2. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất 34

3. Công tác giám định, bồi thường 37

4. Đánh giá kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm nhân sự

của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba của Bảo Minh 45

Chương III.Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ

Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở Công ty

Bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh 52

I. Điều kiện của bảo minh đối với nghiệp vụ bảo hiểm TCDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba 52

1. Thuận lợi 52

2. Khó khăn 53

II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ

bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ban ở

Công ty Bảo hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh 54

1. Tăng cường tuyên truyền quảng cáo 54

2. Tăng cường công tác quản lý 56

3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 59

4. Các giải pháp đối với các khâu công việc cụ thể 61

KẾT LUẬN 64

TÀI LIỆU THAM KHẢO 65

 

 

doc67 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1181 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bàn về nghiệp vụ bảo hiểm tai nạn dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Công ty Bảo Hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1999 – 2001, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
7,73%, năm 2000 tăng lên 44,35%, đến năm 2001 đã đạt mức cao 71,72%. Từ các kết quả trên ta thấy các nghiệp vụ quan trọng của Bảo Minh nói chung tỷ lệ bồi thường trên doanh thu còn ở mức khá cao, có nhiều nghiệp vụ tỉ lệ bồi thường trên doanh thu biến động thất thương qua các năm, điều này nói nên rủi ro mà Bảo Minh gặp phải lớn. Sở dĩ có những tồn tại này là do công ty chưa quản lý tốt công tác đề phòng hạn chế tổn thất, quá trình thẩm định rủi ro chưa chính xác nhiều khi còn qua loa, do mải chạy theo doanh thu... 2. Kết quả kinh doanh của công ty giai đoạn (1999-2001). Kết quả kinh doanh là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả của quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh của công ty trong một khoảng thời gian nhất định,thông thường là một năm. Kết quả kinh doanh được biểu hiện dưới hai chỉ tiêu chính là doanh thu và lợi nhuận. Bảng 6: kết quả kinh doanh của Bảo Minh trong giai đoạn(1998-2001)   Năm Chỉ tiêu đơn vị 1998 1999 2000 2001 Tổng doanh thu Tr.đ 469400 445642 488991 599102 Tổng chi phí Tr.đ 451778 434002 478642 586817 1. Chi bồi thường thực trả Tr.đ 100085 104585 141731 148369 2. Chi quản lý Tr.đ 46940 44564 48899 59910 3. Chi hoa hồng Tr.đ 23470 22282 24450 29955 4. Chi ĐP&HCTT Tr.đ 21123 20054 22005 26960 5. Phí nhượng tái bảo hiểm Tr.đ 201769 175656 176107 259871 7. Chi khác Tr.đ 58391 66861 65451 61752 Lợi nhuận trước thuế Tr.đ 17622 11640 10349 12285 (Nguồn: Công ty Bảo Hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh) Năm 1998 tổng doanh thu đạt 469400 triệu đồng trong khi đó tổng chi phí chỉ là 451778 triệu đồng, sở dĩ chi phí thấp là do tỉ lệ bồi thường thực trả trên tổng doanh thu thấp (21,32%) do đó làm cho lợi nhuận đạt được cao (17622 triệu đồng). Năm 1999, Đây là năm công ty gặp rất nhiều khó khăn như đã nói ở trên dẫn đến lợi nhuận đầu tư thấp, tỉ lệ tổng chi bồi thường thực trả trên tổng doanh thu cao hơn năm trước (23,47%), về số tuyệt đối là 104585 triệu đồng. Trong khi doanh thu lại thấp hơn năm trước, chỉ đạt 445642 triệu đồng, giảm 5,1% so với năm trước... những kết quả đó dẫn đến lợi nhuận của công ty bị sút giảm chỉ còn 11640 triệu đồng (giảm 33,95% so với năm trước). Năm 2000. Đây là năm đánh dấu sự kết thúc giai đoạn sụt giảm của nền kinh tế, bắt đầu một chu kỳ phát triển mới. Các hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ đều tăng khá ( công nghiệp tăng 15,7%, nông lâm ngư nghiệp tăng 4,5%,xuất nhập khẩu tăng 25%...) từ đó làm cho GDP tăng 6,7%. Chính những thuận lợi về môi trường kinh doanh kết hợp với những giải pháp đúng đắn của mình, trong năm này tổng doanh thu của hầu như tất cả các nghiệp vụ của Bảo Minh đều tăng từ 10-20% so với năm trước, từ đó góp phần to lớn làm cho tổng doanh thu của Bảo Minh cũng tăng trưởng mạnh mẽ, đạt 488991 triệu đồng, tăng 9,73% so với năm trước. Tuy doanh thu cao nhưng tổn thất xảy ra lại nhiều, bồi thường thực trả 141731 triệu đồng, tăng 35,52% so với năm trước từ đó dẫn đến lợi nhuận giảm chỉ còn 10349 triệu đồng, giảm 11,09% so với năm trước. Năm 2001. Kinh tế vẫn đang trên đà phục hồi và phát triển, Việt Nam trở thành nước có GDP tăng trưởng cao vào hàng thứ hai trên thế giới: 6,2%, chỉ sao Trung Quốc, hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết... Đã góp phần làm cho tổng doanh thu của Bảo Minh tăng nhanh chóng, đạt 599102 triệu đồng, tăng 22,52% so với năm trước. Bồi thường thực trả là 148369 triệu đồng, tăng 4,68% so với năm trước tuy nhiên vẫn rất nhỏ so với tốc độ tăng doanh thu. Từ các kết quả đó đã làm cho lợi nhuận đạt 12285 triệu đồng, tăng 18,71% so với năm trước. Kết quả này tạo ra điều kiện và động lực cho sự phát triển của công ty trong năm sau. II.Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở công ty bảo hiểm Bảo Minh. 1. Công tác khai thác. Khai thác bảo hiểm là khâu đầu tiên của quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Đây là khâu quyết định tới sự thành bại của các Công ty bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự nói riêng, bởi vì hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo quy luật số đông bù số ít. Chỉ khi số lượng xe đủ lớn tham gia bảo hiểm thì mới hình thành được một quỹ tiền tệ tập trung chi trả cho chủ xe khi tai nạn xẩy ra và bù đắp các chi phí. Vì vậy khâu khai thác có ảnh hưởng quyết định đến doanh thu và lợi nhuận từ đó ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của công ty nói chung và từng nghiệp vụ nói riêng. Nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc, điều này tạo ra sự thuận lợi cho các công ty trong việc khai thác. Tuy nhiên không phải vì tính bắt buộc mà việc khai thác trở nên đơn giản. Bởi vì sản phẩm bảo hiểm vốn đã trừu tượng, thì bảo hiểm trách nhiệm nói chung và bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba nói riêng lại càng trở lên trừu tượng hơn, càng khó thấy được tác dụng, lợi ích hơn, vì vậy khách hàng rất dễ trốn tránh không tham gia. Mặt khác hiện nay trên thị trường lại có rất nhiều công ty đang triển khai nghiệp vụ này vì vậy tình trạng cạnh tranh rất gay gắt do đó việc khai thác càng trở lên khó khăn. Nhận rõ tầm quan trọng và những khó khăn trong khâu khai thác bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Bảo Minh đã có những quy định, những biện pháp tích cực để thúc đẩy khai thác: -Các quy định: +Nhân viên khai thác phải nắm vững các văn bản, các quy định của bộ tài chính và công ty, các điều khoản liên quan đến nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Lãnh đạo các đơn vị phải có trách nhiệm phổ biến, hướng dẫn cán bộ khai thác thuộc đơn vị mình về các văn bản, các điều khoản đó. +Việc khai thác bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba phải được phân công cho tổ, nhóm hoặc phòng trực tiếp theo dõi và quản lý. Mỗi khai thác viên (KTV) phải tiếp thị khai thác được một số lượng khách hàng phù hợp với năng suất lao động định mức. Để đạt được và vượt mức năng suất lao động được giao, ngoài tự khai thác KTV phải có trình độ quản lý và tổ chức hoạt động của hệ thống cộng tác viên, đại lý theo nguyên tắc quản lý đại lý của công ty. số lượng khách hàng của từng KTV phải được lập thành danh sách, cuối tháng có báo cáo cho lãnh đạo phòng. Chi nhánh cập nhật số lượng tăng, giảm và hàng quý phải có tổng hợp báo cáo công ty. Những khách hàng có phí bảo hiểm từ 100 triệu đồng hoặc từ 50 xe trở lên là những khách hàng lớn và phải thường xuyên quan tâm, chăm sóc theo chế độ quy định về chính sách khách hàng của công ty. Trên cơ sở khách hàng đanh quản lý, các đơn vị phải giao kế hoạch cụ thể cho từng KTV, ngoài khách hàng cũ phải có phải có chỉ tiêu khai thác khách hàng mới. Hàng tháng hoặc hàng quý sơ kết đánh giá tình hình khách hàng mới và khách hàng bị mất ( lý do ). Việc kiểm tra công việc của KTV sẽ dựa vào số liệu này theo từng quý, từng năm. +Quy tắc, biểu phí và mức trách nhiệm do Bộ Tài Chính, công ty ban hành được áp dụng chung cho các đơn vị thuộc Bảo Minh. Nghiêm cấm các đơn vị tự ý điều chỉnh, thay đổi quy tắc, biểu phí và mức trách nhiệm khi chưa có ý kiến của công ty. Trong quá trình khai thác nếu gặp khó khăn phải báo cáo công ty bằng văn bản để được hướng dẫn. -Các biện pháp để thúc đấy khai thác. Để thúc đẩy công tác khai thác công ty đã tiến hành tuyên truyền, quảng cáo để giúp khách hang hiểu biết về sản phẩm của công ty từ đó thúc đẩy họ mua sản phẩm của mình; trả hoa hồng thoả đáng để khuyến khích khách hàng tham gia bảo hiểm tại công ty, đối với những khách hàng lớn, không những được trả hoa hồng mà còn được giảm phí, thăm hỏi...để tạo niềm tin và sự hài lòng từ đó khách hàng tham gia bảo hiểm lâu dài tại công ty. Cùng với các biện pháp tác động lên khách hàng công ty còn có các biện pháp tích cực nhằm khuyến khích, động viên các KTV và nâng cao chất lượng KTV, như: Khen thưởng những khai thác viên có thành tích tốt, bằng các hình thức: Thưởng tiền, bằng khen, tăng lương, tăng cấp bậc...; tuyển chọn KTV cẩn thận kỹ lưỡng, bằng cách đề ra những tiêu chuẩn về khả năng giao tiếp, về trình độ, về doanh thu... Bằng những chính sách, những giải pháp của mình kết hợp với những thuận tiện mà môi trường vĩ mô đem lại, công ty đã đạt được những kết quả khai thác rất tốt: Số lượng và tốc độ tăng số xe tham gia bảo hiểm , doanh thu phí bảo hiểm gốc tăng nhanh, đồng thời phí bảo hiểm bình quân trên một đầu xe cũng có tiến triển hợp lý. Bảng 7: Tình hình khai thác bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Bảo Minh.   Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1999 2000 2001 Số xe tham gia bảo hiểm -Xe máy -Ô tô Xe Xe Xe 193719 127000 66719 226384 150884 75500 327755 240016 87739 Doanh thu phí bảo hiểm gốc -Xe máy -Ô tô Tr.đ Tr.đ Tr.đ 35820 4940 30880 41037 6060 34977 50757 9836 40921 Tốc độ tăng số xe TGBH -Xe máy -Ô tô % % % 16,86 18,81 13,16 44,78 59,07 16,21 Tốc độ tăng doanh thu -Xe máy -Ô tô % % % 14,56 22,67 13,27 23,69 62,31 16,99 Doanh thu bình quân trên một đầu xe -Xe máy -Ô tô Tr.đ Tr.đ Tr.đ 0.1849 0.0389 0.4628 0.1813 0.0402 0.4633 0.1549 0.041 0.4664 (Nguồn: Công ty Bảo Hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh) Nhìn vào bảng này ta thấy số lượng cả ô tô và xe máy tham gia bảo hiểm đều lớn, tốc độ tăng trưởng rất cao. Năm 2000 tốc độ tăng số xe máy tham gia bảo hiểm là 18.81%, năm 2001 đã tăng vọt lên đến 59,07%. Đối với ô tô, năm 2000 tốc độ tăng số xe tham gia bảo hiểm là 13,16%,năm 2001 tốc độ này cũng đã tăng đến 16.21%. Ta thấy tốc độ tăng số xe ô tô tham gia bảo hiểm đều nhỏ hơn so với xe máy qua các năm. Điều này không phải tốc độ tăng số xe ô tô tham gia bảo hiểm là chậm mà là do số ô tô lưu hành có tốc độ tăng chậm hơn rất nhiều so với xe máy đồng thời Tỉ lệ ô tô hiện đã tham gia bảo hiểm trên toàn thị trường bảo hiểm Việt Nam chiếm khoảng 80%, còn đối với xe máy thì tỉ lệ này mới chỉ chiếm khoảng 25%, một tỉ lệ rất thấp so với ô tô, do đó khai thác đối với xe máy sẽ dễ hơn nhiều so với khai thác ô tô. Tỉ lệ số xe ô tô và xe máy tham gia bảo hiểm hiện nay như trên là vẫn còn nhỏ, đặc biệt là xe máy, điều đó hứa hẹn sự tiến triển tốt của nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba nói chung và của công tác khai thác của Bảo Minh nói riêng. Đi liền với số xe ô tô và xe máy tham gia bảo hiểm lớn và tốc độ tăng trưởng không ngừng, doanh thu phí bảo hiểm gốc cũng có tiến triển rất khả quan. Đối với xe máy: Năm 1999 doanh thu phí là 4940 triệu đồng, năm 2000 đạt được 6060 triệu đồng, tăng 22,67% so với năm 1999, đến năm 2001 đã tăng lên đến 9836 triệu đồng, tăng 62,31% so với năm 2000. Đối với ô tô: năm 1999 đạt 30880 triệu đồng, năm 2000 đạt 34977 triệu đồng, tăng 13,27% với năm 1999, năm 2001 đã đạt được 40921 triệu đồng, tăng 16,99% so với năm 2000. Chính những thành tựu đạt được về doanh thu phí bảo hiểm gốc này đã góp phần rất lớn vào việc tăng tổng doanh thu của công ty vì đấy là nghiệp vụ chiếm tỉ trọng khá lớn trong công ty. Đặc biệt những kết quả này về doanh thu phí bảo hiểm gốc tác động rất lớn đến lợi nhuận của công ty do doanh thu phí bảo hiểm gốc lớn trong khi hầu như không tái đi, trong khi gần như tất cả các nghiệp vụ khác đều tái đi khá nhiều, có nghiệp vụ tái đi gần hết, như: Bảo hiểm hàng không, bảo hiểm tài sản và thiệt hại, bảo hiểm cháy đều tái đi đến hơn 90% mỗi năm, các nghiệp vụ quan trọng khách cũng tái đi xấp xỉ 50% mỗi năm. Doanh thu phí bảo hiểm gốc phí của xe máy và ô tô tăng lên một phần do sự tăng lên của phí bảo hiểm bình quân một đầu xe tăng lên. Sở dĩ phí bình quân trên một đầu xe tăng lên là do tác động lớn của việc áp dụng biểu phí mới của Bộ Tài Chính. Ta thấy khi áp dụng biểu phí mới làm cho mức phí tăng lên từ đó gây khó khăn cho việc khai thác, tuy nhiên công ty vẫn không ngừng tăng được số xe khai thác và tổng doanh thu phí bảo hiểm gốc phí bảo hiểm gốc. Điều đó càng cho thấy khâu khai thác đã đạt được kết quả tốt. Mặc dù công tác khai thác của công ty đã đạt được những thành tích đáng kể, tuy nhiên vẫn còn những hạn chế cần khắc phục: -Việc quản lí còn lỏng lẻo, không rõ ràng trong việc sang tên, đổi chủ, không thực hiện nghiêm túc kiểm tra xe thường xuyên theo định kỳ. -Việc kiểm soát xe không thường xuyên, nhiều khi bị lơ là. -Nhận thức của chủ xe về tác dụng của việc tham gia bảo hiểm chưa tốt. -Việc tuyên truyền, quảng cáo mặc dù đã được chú ý nhưng còn nhiều hạn chế, như: Chi phí cho quảng cáo còn thấp, hình thức quảng cao tuyên truyền chưa phong phú, chất lượng quảng cáo chưa cao... -Nhiều khi nhân viên khai thác mải chạy theo doanh thu phí bảo hiểm gốc do đó rủi ro không được thẩm định một cách cẩn thận, nhiều khi còn không được thẩm định. -Tồn tại tình cạnh tranh không đẹp trong khai thác giữa nhân viên khai thác trong công ty và ở những công ty khác nhau, như: Nhiều nhân viên khai thác trong công ty muốn có thành tích hơn người khác, muốn được thăng tiến đã tìm cách làm giảm uy tín của người khác, giúp nhân viên khai thác công ty khác khai thác khách hàng hiện có của đồng nghiệp...Đối với các công ty khác nhau thì nói xấu nhau, tranh dành khách hàng của nhau... 2.Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Đề phòng hạn chế tổn thất là hoạt động cơ bản của con người nhằm ngăn chặn khả năng xảy ra tổn thất và làm giảm mức độ trầm trọng của tổn thất. Đối với các công ty bảo hiểm công tác đề phòng hạn chế tổn thất có vai trò rất quan trọng, do hoạt động kinh doanh của các công ty bảo hiểm là kinh doanh rủi ro, tức là: Người tham gia bảo hiểm nộp cho người bảo hiểm một số tiền gọi là phí bảo hiểm, người bảo hiểm nhận phí bảo hiểm đồng thời chấp nhận rủi ro mà người tham gia bảo hiểm chuyển cho. Chính vì vậy các công ty bảo hiểm rất chú trọng đến công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Nếu làm tốt công tác này cả công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm đều được lợi, bởi vì khi làm tốt công tác này thì rủi ro xảy ra sẽ ít đi do đó công ty bảo hiểm phải bồi thường ít đồng thời người tham gia bảo hiểm cũng ít gặp rủi ro hơn. Để làm tốt công tác đề phòng hạn chế tổn thất, Bảo Minh đã tuyên truyền về khả năng xảy ra tổn thất, tư vấn cho người tham gia bảo hiểm lựa chọn các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, bỏ kinh phí thích đáng để làm các biển chỉ đường, xây dựng các đường lánh nạn, giám định xe định kỳ... , tổ chức các buổi hội thảo về công tác đề phòng hạn chế tổn thất, khen thưởng các tổ chức, cá nhân làm tốt công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Mặc dù công ty đã có nhiều chính sách, biện pháp tích cực để làm tốt công tác đề phòng hạn chế tổn thất, tuy nhiên kết quả đạt được lại chưa được như mong muốn. Bảng 8: Kết quả của công tác đề phòng hạn chế tổn thất   Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1999 2000 2001 Tổng chi cho công tác ĐPHCTT -Xe máy -Ô tô Tr.đ Tr.đ Tr.đ 1612 222 1390 1847 273 1574 2284 443 1841 Tổng chi bồi thường -Xe máy -Ô tô Tr.đ Tr.đ Tr.đ 17409 856 16553 23896 1098 22798 28659 2172 26487 Tốc độ tăng chi ĐPHCTT -Xe máy -Ô tô % % % 14,56 22,67 13,27 23,69 62,31 16,99 Tỉ lệ giữa chi ĐPHCTT và STBT -Xe máy -Ô tô % % % 9.26 25,97 8,39 7,73 24,84 6,90 7,97 20,38 6,95 (Nguồn: Công ty Bảo Hiểm Thành Phố Hồ Chí Minh) Ta thấy, số tiền chi cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất tăng lên cả về số tuyệt đối và số tương đối. Năm 1999 tổng chi cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất là 1612 triệu đồng. Trong đó, chi cho xe máy là 222 triệu đồng, chi cho ô tô là 1390 triệu đồng. Năm 2000 tổng số chi là 1874 triệu đồng, tăng 14,56% so với năm 1999. Trong đó, chi cho xe máy là 273 triệu đồng, tăng 22,67% so với năm 2000, tổng chi cho ô tô là 1574 triệu đồng, tăng 13,27% so với năm 2000. Đến năm 2001 tổng chi đề phòng hạn chế tổn thất đã lên đến 2284 triệu đồng, tăng 23,69% so với năm trước. Trong đó chi cho xe máy là 443 triệu đồng, tăng 62,31% so với năm trước, chi cho ô tô là 1841 triệu đồng, tăng 16,99% so với năm trước. Chi đề phòng hạn chế tổn thất của Bảo Minh là khá cao và tăng nhanh qua các năm, tuy nhiên để xem chí phí này có hiệu quả không ta phải xét tỉ lệ giữa nó với số tiền bồi thường. Tỉ lệ giữa chi đề phòng hạn chế tổn thất với chi bồi thường từ năm 1999 đến năm 2001 tương ứng là 9,26%, 7,73%, 7,97%. theo số liệu này thì hiệu quả của chi đề phòng hạn chế tổn thất cao nhất là vào năm 1999, giảm mạnh vào năm 2000, đến năm 2001 lại tăng lên một chút. Cụ thể: Đối với xe máy, tỉ lệ này năm 1999 đạt được là 25,97%, năm 2000 giảm xuống còn 24.84%, đến năm 2001 giảm mạnh xuống chỉ còn 20,38%. Đối với ô tô, năm 1999 đạt 8,39%, năm 2000 giảm xuống còn 6.90, đến năm 2001 tăng lên chút ít và đạt 6,95%. Từ kết quả trên ta thấy mặc dù công ty rất cố gắng để nâng cao hiệu quả của công tác đề phòng hạn chế tổn thất nhưng hiệu quả chưa được cao, đặc biệt ô tô tổn thất xảy ra lớn, xe máy thì có xu hướng tổn thất ngày càng lớn. Mặc dù tổn thất xảy ra không phải do công tác đề phòng hạn chế tổn thất quyết định tất cả mà nó còn phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân như: những hạn chế của khâu khai thác, sự tích luỹ rủi ro làm cho xác suất xảy ra rủi ro giữa các năm khác nhau có sự khác nhau rất lớn, các chính sách kinh tế vĩ mô mà công ty không kiểm soát được. Tuy vậy có rất nhiều rủi ro mà công tác đề phòng hạn chế tổn thất có thể gíup công ty tránh được nhưng vẫn xảy ra, từ đó góp phần to lớn làm tăng thiệt hại đối với công ty. Điều đó nói lên những hạn chế của công tác đề phòng hạn chế tổn thất. 3. Công tác giám định, bồi thường. 3.1/ Công tác giám định. Giám định tổn thất là một khâu trung gian, có tác dụng giúp cho việc tính toán bồi thường được chính xác đúng người, đúng việc. Công tác giám định hoàn thành tốt sẽ đảm bảo lợi ích cho người tham gia bảo hiểm, và đảm bảo lợi ích cho công ty bảo hiểm. Những thiệt hại về người và tài sản đối với người thứ ba, mức độ lỗi của các bên, việc giám định tổn thất rất phức tạp đòi hỏi phải chính xác. Khi tai nạn xẩy ra giám định là một khâu rất quan trọng của nghiệp vụ bảo hiểm vì kết quả của công tác này là cơ sở để công ty bảo hiểm phân định trách nhiệm bảo hiểm và xác định số tiền bồi thường. Vì thế, khi có thông báo tai nạn xẩy ra, các giám định viên của công ty phải kịp thời tới ngay hiện trường để thu thập các chứng cứ có liên quan đến vụ tai nạn và phối hợp với cảnh sát giao thông để xác định nguyên nhân tai nạn. Đồng thời cán bộ giám định đánh giá thiệt hại và mức độ lỗi của các bên những kết luận cuả cán bộ giám định là cơ sở để thực hiện việc bồi thường. Trong trường hợp vụ tai nạn được giải quyết bằng hoà giải giữa các bên thì cảnh sát giao thông và cảnh sát điền tra nơi thụ lý vụ án thông báo cho cơ quan bảo hiểm thông nhất về cách thức và thực hiện việc hoà giải được tốt. Và cảnh sát giao thông hoặc cảnh sát điều tra cung cấp bản sao hồ sơ tai nạn cho công ty bảo hiểm. Nhìn chung khi cán bộ giám định hoàn tất hồ sơ thì công tác bồi thường mới bắt đầu triển khai. Để bồi thường được sát với thực tế, giảm được những thất thoát trong quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm , đồng thời nâng cao chất lượng của sản phẩm và uy tín của công ty. Các công ty bảo hiểm phải làm tốt công tác giám định. Vì vậy công tác giám định có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, nhất là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Nhận rõ được vai trò quan trọng đó Bảo Minh đã chú trọng nâng cao chất lượng của công tác giám định. Để nâng cao chất lượng công tác giám định trước tiên công ty chú trọng đến việc nâng cao chất lượng của nhân tố con người, tức là nâng cao trình độ của giám định viên. Bằng cách tự đào tạo đồng thời cử cán bộ các khoá học đào tạo dành cho giám định viên trong và ngoài nước.Để không ngừng nâng cao chất lượng giám định cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ giám định viên, tạo điều kiện cho họ hoàn tất nhiệm vụ của mình công ty còn trang bị cho giám định viên: máy ảnh, phương tiện đi lại, phương tiện liên lạc...Trong công tác giám định, yêu cầu đối với các cán bộ giám định rất khắt khe: Ngoài việc, các cán bộ giám định phải có trình độ chuyên môn về bảo hiểm, thì các cán bộ phải có những hiểu biết về pháp luật, để xác định thiệt hại về người và tài sản được chính xác thì họ phải tập huấn qua những lớp y học về con người..., và hơn hết phải trung thực, có phẩm chất đạo đức...Chỉ khi hội tụ đủ các yếu tố trên thì công tác giám định mới đạt được kết quả tốt, đảm bảo lợi ích cho công ty và cho cả người tham gia bảo hiểm. Vì vậy cán bộ giám định cần được đào tạo cẩn thận là chính sách đúng đắn của công ty. Về mặt tổ chức công tác giám định. Công tác giám định được công ty sắp xếp theo một qui trình khoa học và phù hợp với điều kiện thực tế của công ty. Cụ thể là: Ngay sau khi tiếp nhận khai báo tai nạn, đơn vị mở hồ sơ giải quyết tai nạn phải cử giám định viên xuống ngay hiện trường để tham gia xử lý tai nạn. Giám định viên phải có trách nhiệm.: -Xin ý kiến lãnh đạo đơn vị hoặc phòng công ty để chỉ thị cho chủ xe hoặc phối hợp với các cơ quan liên quan để ngăn ngừa, đề phòng hạn chế tổn thất. -Yêu cầu chủ xe, lái xe và các cơ quan chức năng đưa nạn nhân đi cấp cứu. -Tiến hành ghi nhận tình huống tai nạn, giám định sơ bộ tổn thất, mức độ thiệt hại về người và tài sản, chụp ảnh hiện trường và các tổn thất, ghi lại địa chỉ bệnh viện, trung tâm y tế nơi các nạn nhân được đưa đến cấp cứu. -Phối hợp với các bên liên quan trong công tác bảo vệ hiện trường, xác định tai nạn( tìm nhân chứng, tung tích nạn nhân, người có lỗi...) -Cần phải kiểm tra số sườn, số máy để đảm bảo rằng xe bị tai nạn là xe tham gia bảo hiểm. -Giám định viên có trách nhiệm liên hệ ngay với cảnh sát giao thông hoặc cơ quan công an giải quyết vụ việc để tìm hiểu về tình hình tai nạn, mức độ lỗi dự kiến cũng như thông báo hướng dẫn cho khách hàng trong việc giải quyết tai nạn, thu thập hồ sơ chứng từ để đủ cơ sở pháp lý đòi bồi thường. Trong trường hợp được cơ quan chức năng thụ lý kéo dài mà phải sớm biết nguyên nhân tai nạn để có hướng xử lý, có thể đề nghị cơ quan Công an cho ý kiến. -Trong trường hợp cơ qua công an thụ lý tai nạn có yêu cầu thương lượng ngay, giám định viên phải bảo cáo trung thực với lãnh đạo các cấp( theo phân cấp) để chỉ đạo trong việc thương lượng về mức độ lỗi hoặc mức độ bồi thường. Với những chính sách những quy định về giám định tổn thất của Bảo Minh công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể: -Hiện nay công ty đã có nhiều giám định viên giỏi, có tư cách đạo đức, nhiệt tình với công việc, có lòng tin với khách hàng, giúp công ty tăng thêm uy tín và khả năng cạnh tranh. -Cùng với những giám định viên có chất lượng, tính chuyên nghiệp trong giám định của công ty cũng khá cao. Phần lớn các vụ tổn thất của công ty do nhân viên giám định của công ty giám định. Không những chỉ giám định cho mình mà công ty còn tiến hành giám định cho các công ty khác và được hầu hết đánh giá là tốt. Mặc dù công tác giám định của công ty hiện nay được làm khá tốt nhưng vẫn có những hạn chế cần khắc phục, đó là: Vẫn có những giám định viên trình độ thấp không đủ điều kiện đảm nhận công việc, giám định qua loa, không cẩn thận. Ngoài ra còn có những người thông đồng với khách hàng để trục lợi bảo hiểm ... 3.2. Công tác bồi thường. Bồi thường là khâu cuối cùng hoàn thiện sản phẩm bảo hiểm, luôn đi liền với khâu giám định. Nhằm thực hiện tốt phương châm kinh doanh của công ty là “Tăng trưởng và hiệu quả”, chất lượng phục vụ đặt lên hàng đầu. Mà như chúng ta biết bảo hiểm là một ngành dịch vụ và chất lượng của nó thường chỉ được biết đến ở giai đoạn cuối cùng sau khi có tai nạn xẩy ra. Do đó công tác bồi thường của các loại hình bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba nói riêng thể hiện chất lượng của sản phẩm bảo hiểm.Và chất lượng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới sẽ được quyết định sự thành công của hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới của công ty. Nếu như chất lượng của công tác khai thác bảo hiểm thể hiện chủ yếu ở số đơn bảo hiểm mới mà công ty khai thác được thì chất lượng của công tác bồi thường lại thể hiện ở số lượng đơn bảo hiểm tái tục vào những năm tới. Mà việc duy trì khách hàng truyền thống và khách hàng tiềm năng đều có ý nghĩa quan trọng đối vơí hoạt động kinh doanh bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới của công ty. Để làm tốt công tác bồi thường Bảo Minh đã đề ra quy trình bồi thường cho riêng mình, trên cơ sở kế thừa của các công ty khác, Bảo Minh luôn quan tâm đến quyền lợi của khách hàng, nhiệt tình giúp đỡ hướng dẫn khách hàng để công việc bồi thường được diễn ra nhanh chóng chính xác, ngay cả khi tai nạn xảy ra mà đơn bảo hiểm đã hết hạn trong thời hạn cho phép Bảo Minh vẫn bồi thường nhân đạo cho khách hàng, trong quá trình bồi thường Bảo Minh luôn kết hợp với các bên liên quan để tính toán bồi thường được chính xác thoả đáng... Tuy Bảo Minh đã có nhiều cố gắng để làm tốt công tác bồi thường, tuy nhiên công tác này có được làm tốt hay không phải căn cứ vào kết quả cụ thể. Bảng 9: Tình hình bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0047.doc
Tài liệu liên quan