LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ THÀNH PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT 2
1.1 Bản chất, nội dung kinh tế của tính giá thành sản phẩm 2
1.1.1 Khái niệm liên quan 2
1.1.1.1 Chi phí sản xuất 2
1.1.1.2 Giá thành sản phẩm 5
1.1.2 Gía thành 5
1.1.2.1 Bản chất và nội dung kinh tế của giá thành 5
1.1.2.2 Phân loại giá thành 6
1.1.3 Mối quan hệ giữa chi phí và giá thành sản phẩm 7
1.2 Đối tượng và phương pháp tính giá thành 8
1.2.1 Đối tượng tính giá thành 8
1.2.2 Phương pháp tính giá thành sản phẩm 9
1.2.2.1 Phương pháp trực tiếp ( hay còn gọi là phương pháp giản đơn) 9
1.2.2.2 Phương pháp cộng chi phí 9
1.2.2.3 Phương pháp hệ số 10
1.2.2.4 Phương pháp tỷ lệ 11
1.2.2.5 Phương pháp loại trừ sản phẩm 11
1.2.2.6 Phương pháp liên hợp 12
1.2.3 Yêu cầu quản lý và vai trò của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành phẩm 12
1.2.3.1 Yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 12
1.2.3.2 Vai trò của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 13
Phần 2: Một số đánh giá và ý kiến đóng góp với chế độ kế toán hiện hành liên quan đến phương pháp tính giá thành 14
2.1 Đánh giá về chế độ kế toán hiện hành liên quan đến phương pháp tính giá thành. 14
2.2 Một số ý kiến đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. 17
2.3 Một số kinh nghiệm tổ chức kế toán quản trị chi phí và tính giá thành sản phẩm của Pháp và Mỹ 21
KÕt luËn 23
26 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1875 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bàn về phương pháp tính giá thành sản phẩm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
liền với quá trình sản xuất hàng hóa và là chỉ tiêu tính toán không thể thiếu được trong nguyên tắc hạch toán kinh tế. Những khoản chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất và tiêu dùng cho sản xuất tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan đến việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi khoản tính toán chủ quan đều không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành đều dẫn tới giảm sút hiệu quả trong kinh doanh của doanh nghiệp và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Như vậy, giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng sử dụng các nguồn lực, công nghệ và trình độ quản lý của doanh nghiệp.
1.1.2.2 Phân loại giá thành
Để đáp ứng các yêu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hóa giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hóa, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau.
* theo thời điểm tính giá thành và nguồn số liệu tính giá thành: giá thành được phân thành ba loại sau
- giá thành kế hoạch: giá thành kế hoạch được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán của chi phí kỳ kế hoạch.
- giá thành định mức: cũng như giá thành kế hoạch, giá thành định mức cũng được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành định mức lại được xây dựng trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch ( thường là đầu tháng) nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình sản xuất sản phẩm.
- Giá thành thực tế: giá thành thực tế là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm trên cơ sở các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm.
* theo phạm vi phát sinh chi phí: giá thành được chia thành giá thành sản xuất và giá thành tiêu thụ
- Giá thành sản xuất ( giá thành công xưởng) là chỉ tiêu phản ánh tất cả các chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất, bao gồm chi phí vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung
- Giá thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ) là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm ( chi phí sản xuất, quản lý và bán hàng). Do vậy, giá thành tiêu thụ còn được gọi là giá thành đầy đủ hay giá thành toàn bộ. Gía thành toàn bộ là căn cứ để xác định lợi nhuận sản xuất và tiêu thụ từng loại sản phẩm trong doanh nghiệp. Tuy nhiên do những hạn chế nhất định khi lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp cho từng mặt hàng, từng loại dịch vụ nên cách phân loại này chỉ còn mang ý nghĩa học thuật, nghiên cứu.
Giá thành toàn bộ của sản phẩm
=
Giá thành sản xuất của sản phẩm
+
Chi phí quản lý doanh nghiệp
+
Chi phí bán hàng
Mối quan hệ giữa chi phí và giá thành sản phẩm
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu kinh tế quan trọng phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, nó có mối liên hệ mật thiết với nhau, một bên chi phí sản xuất phản ánh mặt hao phí sản xuất, còn giá thành sản phẩm phản ánh mặt kết quả sản xuất. Chi phí sản xuất là căn cứ để tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp tức là tất cả các khoản chi phí phát sinh( trong kỳ, kỳ trước chuyển sang) và các chi phí tính trước đó có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Cả kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều là các hao phí về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình sản xuất trong một kỳ. Tuy vậy, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm lại có những khác nhau:
Về thời gian: giá thành sản phẩm chỉ gắn với một kỳ nhất định còn chi phí sản xuất thì liên quan đến nhiều kỳ như chi phí kỳ trước chuyển sang, chi phí kỳ này phát sinh không bao gồm các chi phí chuyển sang kỳ sau.
Về giá trị: tổng giá thành sản phẩm không bao gồm những chi phí chờ phân bổ ở kỳ sau, song giá thành sản phẩm lại tính cả chi phí đã chi chi ở kỳ trước được phân bổ cho kỳ này. Tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ khác với tổng giá thành sản phẩm của các sản phẩm hoàn thành trong kỳ.
Có thể phản ánh mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thông qua sơ đồ sau:
B
A
Chi Phí sản xuất dở dang đầu kỳ
D
C
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
Tổng giá thành sản phẩm, dịch vụ hoàn thành
Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
Qua sơ đồ ta thấy:
AC = AB + BD – CD
Hay, khi giá thành sản phẩm dở dang (chi phí sản xuất sản phẩm dở dang) đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau, hoặc các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí phát sinh trong kỳ.
Đối tượng và phương pháp tính giá thành
Đối tượng tính giá thành
Cùng với đối tượng hạch toán chi phí sản xuất, đối tượng tính giá thành sản phẩm cũng là bước công việc quan trọng đầu tiên liên quan đến công tác tính giá thành sản phẩm. Để phân biệt được đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành ngay cả khi chúng đồng nhất là một, kế toán cần căn cứ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức sản xuất, đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm, đặc điểm, tính chất của sản phẩm và yêu cầu quản lý doanh nghiệp để xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm.
Vơi sản xuất giản đơn, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm hay toàn bộ quá trình sản xuất hoặc có thể là nhóm sản phẩm. Đối tượng tính giá ở đây là sản phẩm cuối cùng.
Với sản xuất phức tạp, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là bộ phận,chi tiết, các giai đoạn chế biến, phân xưởng sản xuất hoặc nhóm chi tiết, bộ phận sản phẩm,... còn đối tượng tính giá thành lại là thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng hay bán thành phẩm ở từng bước chế tạo.
Với sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng loạt nhỏ thì đối tượng hạch toán là các đơn hàng riêng biệt, còn đối tượng tính giá thành là các sản phẩm của từng đơn đặt hàng. Đối với sản xuất hàng loạt có khối lượng lớn, phụ thuộc vào quy trình công nghệ sản xuất mà đối tượng hạch toán chi phí có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết,... còn đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm.
Dựa trên cơ sở trình độ, yêu cầu tổ chức quản lý để xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành phẩm. Với trình độ cao,có thể chi tiết đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành ở các góc độ khác nhau, ngược lại nếu trình độ thấp thì đối tượng có thể bị hạn chế và thu hẹp lại.
Phương pháp tính giá thành sản phẩm
1.2.2.1 Phương pháp trực tiếp ( hay còn gọi là phương pháp giản đơn)
Phương pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất với khối lượng lớn, sản xuất với chu trình sản xuất ngắn như nhà máy điện nước.
=
Phương pháp cộng chi phí
Phương pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp có quy trình sản xuất gồm nhiều công đoạn nối tiếp nhau như trong các ngành cơ khí chế tạo, dệt, thuộc da, Mỗi công đoạn trong quy trình thực hiện việc sản xuất hoàn chỉnh một bộ phận sản phẩm. chi phí sản xuất được tập hợp theo từng công đoạn. Gía thành sản phẩm được xác định bằng cách cộng chi phí sản xuất của các bộ phận,chi tiết sản phẩm hay tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn , bộ phận sản xuất tao nên thành phẩm:
Ztp = Z1 + Z2 ++ Zn
Phương pháp hệ số
Phương pháp hệ số áp dụng trong những doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất cùng dùng một thứ nguyên liệu và một lượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không tập hợp riêng cho từng loại sản phẩm mà phải tập hợp chung cho cả quá trình sản xuất . Theo phương pháp này kế toán dùng hệ số quy đổi để quy đổi các loại sản phẩm về sản phẩm gốc, sau đó dựa vào tổng chi phí liên quan đến các loại sản phẩm đã tập hợp để tính ra giá thành sản phẩm gốc và tính ra giá thành từng loại sản phẩm .
Giá thành đơn vị
sản phẩm gốc
=
Tổng giá thành của tất cả các loai sản phẩm
Tổng số sản phẩm gốc ( kể cả quy đổi)
Giá thành đơn vị sản phẩm từng loại
=
Giá thành đơn vị sản phẩm gốc
x
Hệ số quy đổi
từng loại
Trong ®ã:
Q0: Tæng sè s¶n phÈm gèc ®· qui ®æi
Qi: Sè lîng s¶n phÈm i (i = 1,n)
Hi HÖ sè qui ®æi s¶n phÈm i (i =1,n)
Tổng giá thành sản xuất của các loại sản phẩm
=
Giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ
+
Tổng chi phí phát sinh trong kỳ
-
Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ
Phương pháp tỷ lệ
Kế toán thường tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo nhóm sản phẩm cùng loại trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm có quy cách phẩm chất khác nhau như may mặc, dệt kim, đánh giầy.
Theo phương pháp này kế toán căn cứ vào tỷ lệ chi phí giữa chi phí sản xuất thực tế với chi phí sản xuất kế hoạch ( hoặc định mức) , kế toán tính ra giá thành đơn vị và tổng giá thành sản phẩm hàng hóa từng loại.
Giá thành thực tế đơn vị sản phẩm từng loại
=
Giá thành kế hoạch
(hoặc định mức) đơn vị sản phẩm cùng loại
x
Tỷ lệ
chi phí
Tỷ lệ chi phí
=
Tổng giá thành thực tế của sản phẩm
X 100
Tổng giá thành kế hoạch( hoặc định mức) của các loại sản phẩm
Phương pháp loại trừ sản phẩm
Đối với các doanh nghiệp mà trong quá trình sản xuất, bên cạnh các sản phẩm chính có thể thu được các sản phẩm phụ ( các doanh nghiệp bia, mì ăn liền) để tính giá thành sản phẩm chính kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ ra khỏi tổng chi phí sản phẩm. Giá trị sản phẩm phụ có thể xác định theo nhiều phương pháp, ví dụ như phương pháp giá ước tính, giá kế hoạch
Tổng giá thành sản phẩm chính
=
Giá trị sản phẩm chính dở dang đầu kỳ
+
Tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
-
Giá trị sản phẩm phụ thu hồi ước tính
-
Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ
Phương pháp liên hợp
Phương pháp này thường được áp dụng trong những doanh nghiệp có tổ chức sản xuất, tính chất quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra phải đòi hỏi việc tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như các doanh nghiệp sản xuất hóa chất, dệt kim
1.2.3 Yêu cầu quản lý và vai trò của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành phẩm
1.2.3.1 Yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Trong giác độ quản lý của từng doanh nghiệp, giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế quan trọng được sử dụng làm căn cứ để bù đắp chi phí sản xuất kinh doanh. Ngoài ra chỉ tiêu giá thành còn là căn cứ để đánh giá hiệu quả của các biện pháp kinh tế - tổ chức – kỹ thuật mà công ty đã đầu tư trong quá trình sản xuất kinh doanh, phục vụ cho việc thực hiện chế độ hạch toán kinh tế nội bộ.
- Yêu cầu bù đắp chi phí và tính toán kết quả kinh doanh: giá thành sản phẩm phải phản ánh đầy đủ các khoản chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh cho dù chi phí đó là loại chi phí trực tiếp hoặc gián tiếp, phát sinh trước, trong hoặc sau quá trình sản xuất và phát sinh ở bất kỳ địa điểm nào, phục vụ cho bất kỳ mục đích sản xuất kinh doanh nào. Hạch toán giá thành thuộc về nội dung quản lỳ vi mô phụ thuộc vào yêu cầu quản trị của doanh nghiệp mà điểm mấu chốt của nó là phục vụ cho việc xác định mức hao phí cần bù đắp để thực hiện quá trình tái sản xuất. Điều mà các doanh nghiệp quan tâm là làm sao tiết kiệm được chi phí, bảo đảm được tính pháp lý của các khoản chi phí và sự quan tâm này cũng đồng nhất với sự quan tâm của các cơ quan chức năng của Nhà Nước.
- Yêu cầu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh: để đáp ứng được yêu cầu này thì giá thành sản phẩm phải được tính toán và tổng hợp từ các loại chi phí khác nhau phát sinh ở các bộ phận sản xuất, phục vụ và các giai đoạn khác nhau trong quá trình sản xuất sản phẩm.
Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp hoạt động của nhiều bộ phận có chức năng khác nhau và sự tiếp nối hoặc kết hợp của nhiều giai đoạn sản xuất khác nhau để cùng thực hiện một mục đích chung là tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh với chất lượng cao và tiết kiệm được chi phí. Việc đánh giá hiệu quả hoạt động của từng bộ phận gắn liền với lượng chi phí đã sử dụng vừa đảm bảo cho việc sử dụng chi phí phù hợp với mục đích, hợp lý, tiết kiệm vừa xác định được những đối tượng cần thiết phải có sự chú trọng trong đầu tư để nâng cao hiệu quả hoạt động chung.
1.2.3.2 Vai trò của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu kinh tế cơ bản phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quản lý tốt chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là yêu cầu quan trọng đối với các doanh nghiệp trong môi trường kinh tế cạnh tranh như hiện nay. Việc tính đúng và tính đủ giá thành giúp cho phản ánh đúng tình hình thực hiện và kết quả thực hiện giá thành của doanh nghiệp, xác định đúng đắn kết quả kinh doanh trong kỳ.
Trong một phạm vi nhất định, giá thành vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan. Cần phải xem xét giá thành trên nhiều góc độ khác nhau để sử dụng chỉ tiêu giá thành một cách hiệu quả nhất. tính khách quan của giá thành chính là tính tất yếu của sự di chuyển và kết tinh giá trị tư liệu sản xuất và sức lao động trong sản phẩm. Nhưng giá thành lại là một đại lượng được tính toán trên cơ sở chi phí sản xuất chi ra trong kỳ nên nó mang những yếu tố chủ quan nhất định. Từ đó cho thấy giá thành sản phẩm là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh những tiêu hao trong quá trình sản xuất sản phẩm nhưng cũng đồng thời là thước đo năng lực và trình độ quản lý kinh tế của doanh nghiệp. Từ những lý do đó, nhiệm vụ của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là phải ghi chép và phản ánh một cách đầy đủ, trung thực về mặt lượng chi phí sản xuất đồng thời phải tính toán chi phí theo đúng nguyên tắc, xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí, phản ánh chi phí theo đúng thời điểm, địa điểm phát sinh. Để tính đúng và tính đủ giá thành, kế toán phải dựa trên cơ sở của việc tính chính xác chi phí sản xuất và tính đủ mọi hao phí bỏ ra theo đúng chế độ quy định. Tính đủ giá thành cũng đồng nghĩa với việc loại bỏ những chi phí không liên quan đến giá thành sản phẩm.
Phần 2
Một số đánh giá và ý kiến đóng góp với chế độ kế toán hiện hành liên quan đến phương pháp tính giá thành
Đánh giá về chế độ kế toán hiện hành liên quan đến phương pháp tính giá thành.
* Những điểm đã làm được của hệ thống kế toán tài chính và hệ thống kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Thứ nhất: tập hợp chi phí sản xuất trong kế toán tài chính đã được tổ chức một cách có hệ thống, khoa học, các thông tin kinh tế về chi phi đều phản ánh chi tiết trên các tài khoản cấp 2 và tổng hợp trên các tài khoản cấp 1 và các thông tin này được hệ thống trên sổ chi tiết, sổ tổng hợp. chế độ cũng cho phép các doanh nghiệp lựa chọn một trong hai phương pháp tập hợp chi phí đó là kiểm kê thường xuyên và kiểm kê định kỳ , giúp cho các doanh nghiệp có thể tìm được phương pháp phù hợp với điều kiện vật chất nhân lực của mình, giúp cho kế toán chi phí có thể đưa ra thông tin kế toán chính xác kịp thời nhanh chóng.
Thứ hai: trong kế toán tài chính chế độ kế toán cũng cho phép doanh nghiệp sử dụng các phương pháp tính giá thành một cách linh hoạt trong các phương pháp : phương pháp trực tiếp, phương pháp tổng hợp chi phí, phương pháp tỷ lệ, phương pháp hệ số, phương pháp loại trừ sản phẩm phụ giúp cho doanh nghiệp lựa chọn được phương pháp tính hợp lý có hiệu quả.
Thứ ba: kế toán tập hợp chi phí sản xuất đã xây dựng được một hệ thống sổ chi tiết, sổ tổng hợp và hệ thống tài khoản chi phí tương đối đồng bộ và từng bước hoàn thiện.
Thứ tư: trong những năm gần đây đã có sự thay đổi vai trò của kế toán quản trị đối với các doanh nghiệp, kế toán quản trị đã được đưa lên một tầm cao mới cho việc ra quyết định, có thể nói, kế toán quản trị ngày nay thực sự đã trở thành một công cụ đắc lực có hiệu quả cho các nhà quản lý doanh nghiệp trong việc lập ra các lệnh thông qua các dự toán trong việc kiểm soát các hoạt động thông qua việc so sánh đánh giá đặc biệt là trong việc quyết định về quản lý.
Thứ năm: riêng đối với kế toán quản trị, việc phân tích mối quan hệ giữa chi phí – khối lượng – lợi nhuận đã và đang được nghiên cứu sâu hơn , đầy đủ hơn và chi tiết hơn. Những kết luận mới về mối quan hệ này đã giúp cho các nhà quản trị thấy được thực trạng sản xuất, thấy rõ được trung tâm của mỗi hoạt động vào kết quả kinh doanh chung của đơn vị, để từ đó có thể định dạng được các chính sách trong tương lai và phân tích được kết quả đạt được.
* Những tồn tại cần được khắc phục của hệ thống kế toán tài chính và kế toán quản trị liên quan đến chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Điều nhận thấy rất rõ, đó là trong rất nhiều doanh nghiệp chưa phân biệt rõ ràng giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính, trong doanh nghiệp các nhà quản lý thường chỉ quan tâm đến chức năng tài chính và coi kế toán quản trị là một bộ phận của kế toán tài chính mà không có nhìn nhận kế toán quản trị có chức năng riêng: kế toán tài chính có chức năng cung cấp thông tin tài chính của doanh nghiệp cho các đối tượng quan tâm doanh nghiệp thông qua báo cáo tài chính lập theo chế độ kế toán do Nhà nước quy định, còn kế toán quản trị không tuân thủ những nguyên tắc chung về áp dụng kế toán được ban hành.
Bên cạnh đó trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ như các công ty trách nhiêm hữu hạn,công ty tư nhân, thì công tác kế toán quản trị vần chưa được chú trọng mà còn là vấn đề mới mẻ do các giám đốc doanh nghiệp, chủ sở hữu doanh nghiệp có trình độ hạn chế về các khái niệm cận biên, số dư đảm phí, chi phí thích hợp, biến phí, định phí và mối quan hệ giữa chi phí – khối lượng – lợi nhuận còn là các thuật ngữ xa lạ đối với họ.
Còn đối với các doanh nghiệp có tổ chức hệ thống kế toán quản trị thì còn tồn tại một nhược điểm đó là các thông tin kinh tế được sử dụng trong kế toán quản trị chưa được tập hợp, phân loại phù hợp với các phương pháp của kế toán quản trị, các thông tin được xử lý trong kế toán quản trị chủ yếu được lấy từ các thông tin hệ thống kế toán tài chính , đó là các thông tin quá khứ. Nhưng kế toán quản trị có mục tiêu khác với kế toán tài chính và nó đòi hỏi có nhiều thông tin cần thiết khác phục vụ cho dự toán, dự báo, lập dự toán chi phí giá thành cũng như cung cấp thông tin để sản xuất quản lý và ra quyết định, các doanh nghiệp chưa xây dựng được một hê thống thu thập kế toán thông tin quản trị riêng.
Trên đây là những bất cập trong kế toán quản trị , còn trong kế toán tài chính cũng tồn tại rất nhiều điểm không hợp lý trong việc áp dụng chế độ kế toán hiện nay. Một điều nhận thấy các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế đang sử dụng phương pháp tập hợp chi phí chủ yếu là phương pháp kiểm kê thường xuyên mà bỏ qua phương pháp kiểm kê định kỳ:
Qua thực tế hiện nay trong nền kinh tế chỉ có khoảng 5 – 7 % các doanh nghiệp sản xuất thuộc các ngành công nghiệp, nông lâm nghiệp và xây lắp đăng ký hạch toán hàng tồn kho trong đó có hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp kiểm kê định kỳ. một tỷ lệ rất thấp so với những ưu điểm đơn giản, dễ làm, giảm nhẹ khối lượng công việc hạch toán của phương pháp kiểm kê định kỳ hàng tồn kho.
Việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương pháp kiểm kê định kỳ chưa được ứng dụng rộng rãi trong thực tế là do những nguyên nhân sau:
- Chế độ chứng từ về hàng tồn kho chưa được cải tiến một cách phù hợp với sự thay đổi về phương pháp hạch toán hàng tồn kho theo chế độ kế toán mới. vì theo chế độ chứng từ kế toán thì “ tất cả các thông tin số liệu liên quan đến công việc kế toán đều phải được lập chứng từ kế tóa theo đúng mầu quy đinh, phải ghi chép đầy đủ , kịp thời,đúng sự thật các nội dung quy định của mỗi loại chứng từ”. khi đó, hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ gọi là phương pháp tính theo mức chênh lêch thì có đặc điểm cơ bản là không theo dõi quá trình xuất hàng cho nên không cần dùng chứng từ theo dõi xuất hàng.
Các phương pháp hạch toán chi tiết hàng tồn kho cũng chưa có sự cải thiện cần thiết theo sự đổi mới về phương pháp hạch toán hàng tồn kho theo chế độ kế toán mới. Vì theo chế độ kế toán,doanh nghiệp có thể áp dụng lựa chọn một trong ba phương pháp kế toán chi tiêt hàng tồn kho theo cách làm truyền thống trước đây : phương pháp thẻ song song, phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển và phương pháp số dư. Trong khi đó hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ không cần sử dụng đến chứng từ xuất hang cũng như các chứng từ nhập hàng nên không thể ghi chép được tình hình nhập xuất các loại hàng tồn kho và thẻ kho được.
Mặt khác, phương pháp hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành phẩm theo phương pháp kiểm kê định kỳ có nhiều điểm chưa được rõ ràng và hợp lý, làm cho khối lượng hạch toán của kế toán kiểm kê định kỳ chưa được rõ ràng.
Một số ý kiến đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Để làm rõ các yếu tố khoản mục chi phí trong quá trình tập hợp chi phí là có thực và hợp lý cần phải tổ chức hệ thống sổ kế toán chi tiết, đặc biệt là hệ thống tài khoản chính.
Qua nghiên cứu hệ thống tài khoản kế toán hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh hiện nay chúng ta cần nhận thấy rằng tài khoản kế toán mới đã đáp ứng được ở một mức độ nhất định về nhu cầu thông tin cho quản lý. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc ghi chép phản ánh của kế toán cũng như công tác kiểm tra. Hệ thống tài khoản kế toán này cũng cho thấy sự phù hợp và thích ứng với yêu cầu và đặc điểm của nền kinh tế thị trương, thể hiện sự vận dụng có tính chọn loc các chuẩn mực, nguyên tắc và thông lệ kế toán quốc tê vào Việt Nam. Bên cạnh những ưu điểm nói trên, hệ thống tài khoản kế toán áp dụng trong các doanh nghiệp còn tồn tại nhiều điểm cần phải khắc phục và hoàn thiện:
Trước hết, có thể kể đến những hướng dẫn về nội dung và phương pháp vận dụng chưa thật cụ thể, chưa gắn với các đặc điểm của đơn vị sản xuất, kinh doanh có quy mô và đặc điểm khác nhau.
Thứ đến, thiếu sự thống nhất trong hướng dẫn.
Mặt khác, có nhiều điểm hướng dẫn thiếu chính xác mâu thuẫn với nhau dẫn đến việc vận dụng vào thực tế hết sức khó khăn và thiếu thống nhất giữa các doanh nghiệp.
Vì vậy, để phù hợp với định hướng phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta và thực hiện chính sách kinh tế mở cửa, đưa kế toán hội nhập quốc tế, tài khoản hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh cần phải hoàn thiện theo các hướng sau:
- Hệ thống tài khoản kế toán chi phí sản xuất phải có tính thống nhất cao và bao quát toàn diện được các loại hình doanh nghiệp và các lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế quốc dân.
- Nội dung và kết cấu của tài khoản phải thích ứng với cơ chế thị trường, hình thành các mô hình kế toán mẫu đối với các doanh nghiêp và cách thức vận dụng hệ thống tài khoản hạch toán chi phí tương ứng.
Trên cơ sở đó, có một số giải pháp sau nhằm hoàn thiện hệ thồng tài khoản chi phí sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay :
Một là, thống nhất hệ thống tài khoản chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp.
Giải pháp này xuất phát từ thực trạng tài khoản hạch toán chi phí sản xuất áp dụng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay. Trong các doanh nghiệp này, toàn bộ các chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất từ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp đến chi phí sản xuất chung đều tập hợp ở đây. Điều này gây khó khăn cho kế toán trong việc phân biệt chi phí và thông tin từng loại.
Hai là, thay đổi nội dung phản ánh hoặc mở thêm chi tiết của tài khoản 621. theo chế độ hiện hành tài khoản 621 “ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp” dùng để phản ánh toàn bộ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp ( bao gồm chi phí nguyên vật liệu chính và vật liệu phụ) được sử dụng trực tiếp để sản xuất sản phẩm, thực hiện dịch vụ trong kỳ kinh doanh. Với nội dung này, cuối kỳ, kế toán sẽ rất khó khăn trong việc xác định giá trị sản phẩm dở dang, bởi vì, nguyên vật liệu chính là đối tượng chế biến, còn các vật liệu khác lại là chi phí chế biến. Do đó, khi tính giá trị sản phẩm dở dang bắt buộc kế toán phải tách rời giá trị vật liệu chính ra khỏi chi phí về mặt vật liệu trực tiếp.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ, tiết kiệm công sức của kế toán, có hai phương án để hoàn thiện tài khoản 621 sau đây:
Mở thêm tài khoản cấp 2 vào tài khoản 621
theo phương án này, tài khoản 621 “ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp” sẽ được chi tiết thành hai tài khoản cấp 2 là tài khoản 6211 “ chi phí nguyên vật liệu chính” và tài khoản 6212 “ chi phí vật liệu khác”
Phương án này hoàn toàn tôn trọng chế độ tài khoản kế toán hiện hành. Khi áp dụng phương pháp này, kế toán sẽ không mất thời gian vào việc tách đối tượng chế biến ( nguyên vật liệu chính) và chi phí chế biến ( vật liệu khác) ra khỏi chi phí nguyên vật liệu trực tiếp nữa. từ đó , việc xác định giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ sẽ nhanh c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5962.doc