Trong những năm vừa qua, tuy bảo hiểm Hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh là những nghiệp vụ còn khá mới mẻ nhưng Bảo Việt đã thu được những kết quả đáng kể. Điều đó không chỉ thể hiện ở sự tăng trưởng của các chỉ tiêu trong hoạt động kinh doanh mà còn khẳng định được do sự đóng góp của nghiệp vụ đối với nền kinh tế. Thông qua tác dụng làm bảo toàn vốn, tạo ra một tâm lý an toàn, tin tưởng cho chủ doanh nghiệp cũng như cho toàn bộ công nhân, hai loại nghiệp vụ này đã làm nổi bật được vai trò của mình trong công cuộc đổi mới đất nước. Trong công cuộc đổi mới này, bằng lợi thế về tầm quan trọng không thể phủ nhận, bảo hiểm Hoả hoạn tự tin hơn bao giờ hết, sẵn sàng bước vào giai đoạn mới- giai đoạn cạnh tranh.
41 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1171 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bảo hiểm hoả hoạn thực trạng- Giải pháp đối với Tổng Công ty Bảo Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, Bảo Việt mới chính thức triển khai bảo hiểm Hoả hoạn theo Quyết định 06/TCQĐ của Bộ Tài chính.
Năm 1990, trên cả nước đã có 16 công ty bảo hiểm tiến hành nghiệp vụ này. Tuy nhiên nhìn chung mới chỉ bảo hiểm cho các nghành xăng, dầu còn lại phần lớn các tài sản, các nhà máy, xí nghiệp, công xưởng, hệ thống khách sạn từ Nam ra Bắc... trị giá nhiều tỷ đồng vẫn chưa được bảo hiểm. Có nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan dẫn đến việc ngành bảo hiểm chưa triển khai được toàn diện. Nguyên nhân cơ bản là chúng ta đã quá quen với cơ chế bao cấp, Hoả hoạn và rủi ro xảy ra đã có Nhà nước bù đắp thiệt hại còn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác thì chưa có thói quen tham gia bảo hiểm tài sản. Bên cạnh đó về chủ quan, công tác tuyên truyền, vận động thu hút khách hành của nghành bảo hiểm còn nhiều hạn chế.
Sau một năm thực hiện, một yêu cầu cấp bách được đặt ra là phải có quy định chung hướng dẫn về bảo hiểm Hoả hoạn. Vì vậy ngày 2. 5.1991, Bảo Việt đã ban hành Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt áp dụng trên cả nước. Nghiệp vụ này ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng của nó đặc biệt là sau khi Hội đồng bộ trưởng ra quyết định số 332/ HĐBT ngày 23. 10 1991 về việc bảo toàn, phát triển vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, thông tư số 82/TC/CN hướng dẫn cụ thể việc thực hiện quyết định trên của HĐBT : "... Để tránh các trường hợp không bảo toàn được vốn do nguyên nhân khách quan như thiên tai, rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh... tránh các trường hợp phải xử lý giảm vốn và đưa lỗ vào doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần phải mua bảo hiểm tài sản để tạo nguồn bù đắp cho các thiệt hại đó tại các công ty bảo hiểm Việt nam. Khoản chi về bảo hiểm được hạch vào giá thành hoặc chi phí lưu thông của doanh nghiệp. Nhà nước sẽ không cho ghi giảm vốn trong trường hợp tài sản bị tổn thất vì những rủi ro mà công ty bảo hiểm trong nước triển khai loại hình bảo hiểm tương ứng...".
II Các hoạt động trong bảo hiểm hoả hoạn
Cũng giống như bất cứ một nghiệp vụ bảo hiểm nào, nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn gồm các bước cơ bản sau :
- Khai thác
- Giám định
- Bồi thường
- Hạn chế tổn thất
Các bước này có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau. Kết quả của bước này ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của các bước tiếp sau nó và làm thành một chu trình hoạt động của một nghiệp vụ.
1. Công tác khai thác bảo hiểm
Đây là bước đầu tiên và không thể thiêú trong nghiệp vụ bảo hiểm. Công tác khai thác đóng một vai trò quyết định trong sự phát triển một công ty. Khách hàng sẽ không mua bảo hiểm nếu họ không biết rằng mua bảo hiểm họ sẽ được lợi gì. Do đó mà công việc tuyên truyền, quảng cáo trong bước này là cần thiết và nó càng trở nên đặc biệt quan trọng đồi với nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn - nghiệp vụ mà chưa có tập quán ở nước ta
1.1 Tuyên truyền, quảng cáo, chủ động tiếp cận khách hàng
Hàng năm Bảo Việt kết hợp với các cơ quan, ban ngành có liên quan như : cảnh sát PCCC, đài truyền thanh, truyền hình, báo chí, các Bộ, nghành để tuyên truyền về ý nghĩa, tác dụng của bảo hiểm Hoả hoạn. Qua đó mới có thể thuyết phục được khách hàng mua bảo hiểm.
Mặt khác, công ty cử cán bộ xuống từng xí nghiệp, đơn vị kinh doanh để giải thích, vận động mua bảo hiểm chứ không thụ động ngồi chờ khách hàng hoặc chỉ gửi các công văn, quy tắc cho họ trả lời vì khách hàng rất ngại đọc. Một phần vì khó hiểu, một phần vì không nhận thức được hết ý nghĩa, tác dụng của bảo hiểm.
Cán bộ bảo hiểm cần chủ động đến gặp khách hàng, cùng họ đi thăm cơ sở sản xuất, nghiên cứu quy trình sản xuất của họ..., chỉ cho họ thấy những rủi ro mà họ có thể gặp phải và những hậu quả của nó. Cán bộ bảo hiểm giải thích rõ cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm họ được gì và mất gì, ước tính số phí mà họ phải trả, giải đáp những vấn đề mà họ còn thắc mắc, chưa hiểu rõ, gây cho họ lòng tin và nhu cầu tham gia bảo hiểm. Kinh nghiệm cho thấy rằng, hướng tuyên truyền vận động nên tập trung vào những đối tượng "ăn nên làm ra ", có của ăn của để. Vì thế, Bảo Việt đã chú ý đến các đơn vị, doanh nghiệp lớn có khả năng tài chính khai thác như : Công ty liên doanh về các thiết bị viễn thông COMVIK đã mua bảo hiểm với số tiến bảo hiểm là 19000000 $, mức phí là 47500 $ ; công ty liên doanh INDOCHINA CERAMIC sản xuất vật liệu xây dựng, trang thiết bị nội thất đã mua với số tiền bảo hiểm là 12250000 $, mức phí là 20825 $.
Để tìm ra các doanh nghiệp "ăn nên làm ra" không phải là khó, cán bộ khai thác nên chú ý theo dõi quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, phát thanh, truyền hình...) đồng thời phải có sự phối hợp với các ngân hàng, cơ quan khác để nắm bắt được đối tượng.
1.2 Đánh giá rủi ro
Công tác đánh giá rủi ro được tiến hành sau khi khách hàng gửi giấy yêu cầu bảo hiểm với mục đích giá chính xác các rủi ro có thể xảy ra với các đối tượng bảo hiểm. Qua đó xác định tỷ lệ phí bảo hiểm thích hợp tương ứng với các rủi ro mà công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm.
Để có cơ sở đáng giá đúng rủi ro, thông thường công ty bảo hiểm sẽ gửi cho khách hàng bản phiếu điều tra các rủi ro (bảng câu hỏi). Qua phần trả lời khách hàng trong phiếu điều tra, các công ty bảo hiểm sẽ xác định được bậc chịu lửa của công trình, loại PCCC (các thiết bị PCCC được trang bị, đội cứu hoả, bảo vệ... ), hạng sản xuất (với đơn vị sản xuất), loại kinh doanh dịch vụ ( với đơn vị kinh doanh dịch vụ ), mức độ nguy hiểm với các tài sản để trong kho, cửa hàng, từ đó xác định mức phí thích hợp.
Tuy nhiên trên thực tế, để đảm bảo sự chính xác, trung thực khi đánh giá rủi ro, ngoài việc gửi phiếu điều tra rủi ro, các cán bộ khai thác bảo hiểm sẽ đến làm việc trực tiếp với khách hàng, nghiên cứu và khảo sát thực tế kỹ hơn, hướng dẫn khách hàng trả lời các câu hỏi trong phiếu điều tra, cùng cộng tác với cảnh sát PCCC đánh giá thực tế về công tác PCCC, phương tiện chuyên môn (khách hàng cần những phương tiện PCCC nào, bố trí ở đâu, với số lượng là bao nhiêu...). Cuối cùng trên cơ sở đánh giá rủi ro, cán bộ khai thác sẽ thoả thuân với khách hàng về tỷ lệ phí sẽ áp dụng.
Như vậy công tác đánh giá rủi ro có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó yêu cầu cán bộ bảo hiểm không những phải giỏi chuyên môn mà còn phải có sự năng động, tận tình và cẩn thận.Trong bảo hiểm Hoả hoạn, khâu đánh giá rủi ro là khâu quyết định trong việc cấp đơn bảo hiểm cũng như việc đưa ra mức phí phù hợp.
1.3 Cấp giấy chứng nhận bảo hiểm (đơn bảo hiểm)
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn, công ty bảo hiẻm sẽ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho khách hàng sau khi họ đã chấp nhận mức phí. Giấy chứng nhận bảo hiểm Hoả hoạn bao gồm :
- Số đơn bảo hiểm
- Tên, địa chỉ người được bảo hiểm
- Ngành sản xuất kinh doanh
- Những rủi ro được bảo hiểm
- Tài sản dược bảo hiểm
- Tổng giá trị tài sản
- Số tiền bảo hiểm
- Chi phí dọn dẹp hiện trường
- Mức miễn thường
- Thời hạn bảo hiểm
- Phí bảo hiểm cả năm
Thông thường tài sản được bảo hiểm của khách hàng có nhiều loại không thể hiện được chi tiết trong Giấy yêu cầu bảo hiểm . Vì vậy, kèm theo Giấy chứng nhận bảo hiểm còn có bản danh mục tài sản. Bản này được coi như một bộ phận của Giấy chứng nhận bảo hiểm và có giá trị pháp lý, nó thể hiện từng hạng mục tài sản, số lượng, đơn giá, giá trị, số tiền bảo hiểm của từng loại đó :
Giấy chứng nhận bảo hiểm cần được lập thành bốn bản : Một bản trao cho khách hàng, một bản cho tài vụ, một bản lưu và một bản cho Tổng công ty.Hiện nay Bảo Việt cũng quy định phạm vi mức phân cấp khai thác cho từng công ty. Nếu đối tượng bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trong phạm vi đó thì công ty chỉ cần gửi một bản giấy chứng nhận. Nếu vượt quá mức phân cấp, trước khi cấp giấy chứng nhận cho khách hàng, các công ty cần gửi hồ sơ cho Tổng công ty xem xét và quyết định.
1.4 Bổ sung tài sản được bảo hiểm và theo dõi tình hình thu phí
Trên thực tế, có nhiều khách hàng yêu cầu sửa đổi, bổ sung tài sản được bảo hiểm sau khi đã được cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Các công ty cần xem xét kỹ yêu cầu thay đổi như : giá trị bảo hiểm, các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ phí để từ đó tính toán, điều chỉnh lại tỷ lệ phí, phí bảo hiểm cho thích hợp. Bản bổ sung sửa đổi cũng được lập thành bốn bản trao cho các bộ phận nói trên.
Ngoài ra các cán bộ khai thác cũng cần định kỳ xuống thăm các đối tượng bảo hiểm, kiểm tra các công tác PCCC, nêu ra các đề xuất để tăng cường công tác này. Đồng thời phải phối hợp với các bộ phận tài vụ để theo dõi việc đóng phí của khách hàng, nhắc nhở họ tái tục bảo hiểm khi thời hạn bảo hiểm sắp hết.
1.5 Hoa hồng
Trong công tác khai thác không thể không nói đến vấn đề hoa hồng. Đây là một khoản chi được tính theo tỷ lệ phần trăm so với số phí bảo hiểm. Khoản hoa hồng này, công ty trả cho người trực tiếp đứng ra tham gia bảo hiểm hoặc trả cho người môi giới nhằm động viên khuyến khích họ nhiệt tình công tác, thu hút thêm nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm. Đây cũng là một hình thức tạo dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng.Từ năm 1995, để tạo tính chủ động, linh hoạt trong hoạt động, khoản chi hoa hồng được tính vào chi quản lý nghiệp vụ.
Có thể nói công tác khai thác có một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Thực hiện tốt khâu này sẽ tạo tiền đề cho các công ty bảo hiểm mở rộng và chiếm lĩnh thị trường.
2. Công tác giám định tổn thất
Khâu giám định tổn thất có vị trí quan trọng đối với công tác bồi thường. Các giám định viên bảo hiểm có nhiệm vụ xác định : nguyên nhân rủi ro có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không, giá trị thiệt hại thực tế là bao nhiêu...
2.1 Điều tra tai nạn
Nhận được thông báo tai nạn, giám định viên bảo hiểm sẽ xuống ngay hiện trường để nắm tình hình và điều tra tai nạn. Mục đích của việc điều tra tai nạn là thu nhập các bằng chứng và sự kiện. Trên cơ sở đó giải đáp các câu hỏi : tai nạn đã xảy ra như thế nào, ở đâu, khi nào, vì sao. Muốn vậy trong quá trình điêù tra, giám định viên phải thu thập hai loại thông tin : các tang vật và lời khai của nhân chứng.
- Tang vật : Là bất cứ một việc gì có liên quan giúp cho việc xác định những sự việc liên quan đến tai nạn. Hầu hết các tang vật đều có thể tìm thấy ở hiện trường hay cũng có thể tìm thấy ở nơi sửa chữa bị hư hại.
- Lời khai của nhân chứng : Là những lời kể, những câu trả lời của các nhân chứng thường là những người có mặt ở nơi hiện trường khi xảy ra tai nạn. Lời khai của nhân chứng cũng giúp cho việc xác định những vấn đề có liên quan đến tai nạn. Người bảo hiểm cần có những khả năng phân tích tìm ra những lời khai xác thực vì các lời khai của nhân chứng thường khác nhau và có khi mâu thuẫn với nhau.
Ngoài việc tiếp xúc, trao đổi, hỏi chuyện với các nhân chứng, giám định viên cần gặp gỡ, trao đổi với người được bảo hiểm, với công an PCCC. Qua đó, nguyên nhân Hoả hoạn, đánh giá sơ bộ và khái quát mức độ thiệt hại.
2.2 Đề xuất các biện pháp hạn chế tổn thất
Thông thường sau khi gặp hoả hoạn, người được bảo hiểm rất hoang mang và lúng túng không biết phải làm gì. Vì vậy trên cơ sở xem xét hiện trường và song song với việc điều tra tai nạn, giám định viên bảo hiểm phải góp ý kiến với người được bảo hiểm các biện pháp hạn chế tổn thất như sau:
- Cách ly khu vực và tài sản bị thiệt hại.
- Rào kín những nơi mà người ngoài có thể đột nhập vào.
- Bơm rút nước cứu hoả còn đọng lại ra khỏi những nơi chứa tài sản để tránh tài sản hư hỏng thêm.
- Di chuyển các mảnh đổ vỡ, tro than để cứu tài sản,
Qua quá trình điều tra, các giám định viên phải tìm ra được nguyên nhân gây Hoả hoạn. Chú ý rằng đó phải là những nguyên nhân trực tiấp dẫn đến hoả hoạn. Cuối cùng các giám định viên bảo hiểm sẽ xác định mức độ thiệt hại và lập biên bản giám định. Biên bản giám định sẽ được trình lên công ty một bản và Tổng công ty một bản.
3. Công tác bồi thường
Một trong những yêu cầu và cũng là một trong những phẩm chất quan trọng đối với người làm công tác bảo hiểm là phải quan tâm và cảm thông sâu sắc tới các nhu cầu và nguyện vọng của khách hàng. Phẩm chất đó phải được thể hiện đặc biệt rõ nét trong khâu trong khâu giải quyết bồi thường. Giải quyết bồi thường tốt có nghĩa là giải quyết nhanh và đúng - đây là nhiệm vụ số một của người làm công tác bồi thường và là một trong những biện pháp tuyên truyền có hiệu quả nhất, làm tăng uy tín của công ty và có ảnh hưởng tích cực tới khâu khai thác bảo hiểm.
Đảm bảo được mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ của công tác bồi thường, cán bộ công ty cần thực hiện tốt những bước sau :
3.1 Kiểm tra hồ sơ khiếu nại và xác định trách nhiệm bảo hiểm
Nhận được hồ sơ đòi bồi thường, người bảo hiểm phải kiểm tra, xem xét hồ sơ có đầy đủ và hợp lệ không. Trường hợp hồ sơ thuộc trách nhiệm bảo hiểm nhưng chưa đầy đủ thì phải yêu cầu khách hàng bổ sung kịp thời và ngày trả lời khách hàng. Sau đó, cán bộ bồi thường xem xét đối chiếu với quy tắc bảo hiểm và văn bằng hướng dẫn của Tổng công ty để xác định trách nhiệm bảo hiểm. Cụ thể : khiếu nại có nằm trong phạm vi thoả thuận bảo hiểm không; có điểm loại trừ nào tác động và ảnh hưởng đến khiếu nại đó không; có điều kiện bảo hiểm nào bị vi phạm làm vô hiệu hoá hoặc thu hẹp phạm vi được bảo hiểm của khiếu nại không ?
3.2 Xác định mức độ thiệt hại
Chức năng chính của công tác bảo hiểm là bồi thường những thiệt hại thực tế xảy ra cho người tham gia bảo hiểm nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh cho người được bảo hiểm. Xác định đúng giá trị thiệt hại mới đảm bảo việc bồi thường thực sự đem lại hiệu quả cho người được bảo hiểm.Việc xác định giá trị thiệt hại được tiến hành trên nguyên tắc : phải xác định ngay tại thời điểm và địa điểm xảy ra tổn thất. Trên cơ sở biên bản giám định về mức độ thiệt hại cùng các biên lai, chứng từ xác minh kèm theo các hồ sơ khiếu nại, cán bộ bồi thường sẽ xác định được mức thiệt hại thực tế của từng đối tượng bảo hiểm.
3.3 Xác định số tiền bồi thường
Nếu hồ sơ khiếu nại đã hợp lệ, đầy đủ, tổn thất đã được xác định là thuộc phạm vi bảo hiểm và tính toán được số tiền thiệt hại thì ta có thể tiến hành xác định số tiền bồi thường.
Số tiền bồi thường xác định dựa trên các cơ sở sau :
- Giá trị thiệt hại thực tế
- Số tiền bồi thường (là giới hạn trên của số tiền bồi thường )
- Mức miễn thường : sẽ không phải bồi thường nếu tổn thất bằng hoặc nhỏ hơn mức miễn thường. Nếu tổn thất lớn hơn mức miễn thường thì phải trừ đi mức miễn thường ( trong trường hợp áp dụng mức miễn thường có khấu trừ ).
Trước khi tính toán số tiền bồi thường, người được bảo hiểm cần xem xét số tiền khách hàng đòi bồi thường là bao nhiêu. Nếu số tiền đó bằng hoặc nhỏ hơn mức miễn thường thì không cần tính toán mà có thể trả lời ngay cho khách hàng là tổn thất không được bồi thường vì nằm trong phạm vi mức miễn thường. Nếu tổn thất lớn hơn mức miễn thường thì phải tính chi tiết mức độ thiệt hại.
Cụ thể :
* Đối với bảo hiểm Hoả hoạn :
Số tiền bảo hiểm
Số tiền bồi thường = Giá trị thiệt hại ´ ____________________
Giá trị bảo hiểm
3.4 Lập hồ sơ bồi thường, giải quyết bồi thường và khiếu nại
Trên cơ sở tính toán được số tiền bồi thường như trên, cán bộ bồi thường sẽ lập hồ sơ bồi thường và trình lên lãnh đạo Tổng công ty xét duyệt bồi thường. Sau khi có quyết định của lãnh đạo, cán bộ bồi thường sẽ thông báo cho khách hàng cụ thể về mức bồi thường, thời gian, địa điểm công ty bảo hiểm chi trả số tiến đó cũng như các giấy tờ cần thiết mà họ phải có. Nếu khách hàng chấp nhận thì việc bồi thường sẽ được chuyển cho phòng kế toán-tài vụ.
Trong thực tế, khâu bồi thường là khâu dễ phát sinh các tranh chấp, khiếu nại khi khách hàng cho rằng số tiền bồi thường là chưa hợp lý. Bởi vậy, cần xem xét nghiên cứu các ý kiến khiếu nại một cách khách quan. Cũng cần lưu ý là trước khi chính thức bồi thường, trên cơ sở những thông tin nhận được và đánh giá chung, cán bộ bồi thường sớm ước tính số tiền bồi thường và thông báo cho khách hàng biết trước để cho họ không bị bất ngờ khi công bố số tiền chính thức. Cần chú ý lắng nghe nguyện vọng của khách hàng, nhẹ nhàng và kiên nhẫn giải thích kỹ những thắc mắc của họ ngay cả khi từ chối bồi thường.
4. Các biện pháp đề phòng Hoả hoạn
Mục tiêu của công tác phòng Hoả hoạn là đề phòng hoả hoạn phát sinh và không cho đám Hoả hoạn lan rộng. Hiện nay có hai biện pháp phòng Hoả hoạn là phòng Hoả hoạn bằng thiết kế xây dựng và sử dụng các biện pháp quản lý.
+ Phòng Hoả hoạn bằng thiết kế xây dựng :nhằm cách ly các vật dễ Hoả hoạn với nguồn lửa. Các nguồn lửa có thể phát sinh từ các thiết bị toả nhiệt, bếp, lò sấy, lò sưởi, các thiết bị điện... Do vậy, việc thiết kế xây dựng cần lưu ý tới việc bố trí các phòng ban, kho, phân xưởng cũng như các thiết bị nội thất một cách hợp lý, đảm bảo độ an toàn cao.
+ Các biện pháp quản lý : Thực hiện các biện pháp quản lý là trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm. Dựa vào các quy định phòng Hoả hoạn và chữa Hoả hoạn của Nhà nước và địa phương, các giám đốc, thủ trưởng đơn vị cần đề ra nội quy, biện pháp PCCC cho cơ sở mình đồng thời có kế hoạch giáo dục, đôn đốc, theo dõi, kiểm tra việc chấp hành nội quy, biện pháp đó. Các cán bộ, công nhân phải triệt để chấp hành các nội quy PCCC cũng như các tiêu chuẩn về an toàn trong hoạt động công tác, sản xuất.. Cùng với cảnh sát PCCC, các công ty bảo hiểm sẽ hướng dẫn người tham gia bảo hiểm thực hiện tốt công tác PCCC ở các khu vực dễ xảy ra rủi ro, đề nghị họ có các biện pháp ngăn ngừa kịp thời và hợp lý.
5. Công tác chữa Hoả hoạn
Trước hết cần trang bị các phương tiện thiết bị báo Hoả hoạn để xác định vùng xảy ra Hoả hoạn nhằm hạn chế tổn thất đến mức tối thiểu. Thành lập các đội cứu hoả ở các đơn vị cũng như trang bị các phương tiện dập lửa thì mới đảm bảo chữa Hoả hoạn có hiệu quả và kịp thời. Các công ty bảo hiểm qua việc tham quan các cơ sở bảo hiểm yêu cầu họ không những thực hiện các nội quy PCCC mà còn phải tranh bị các thiết bị chữa Hoả hoạn cần thiết.
III. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn
1. Kết quả khai thác và thực hiện doanh thu
Công cuộc đổi mới kinh tế của đất nước mỗi năm lại mang đến những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Kinh tế phát triển cộng với cơ chế quản lý theo hướng thị trường đã làm cho nhu cầu và khả năng tham gia bảo hiểm tăng.
Năm năm qua ( 91-95 ) là những năm khởi đầu cho nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn. Do có sự nỗ lực của ban lãnh đạo Tổng công ty cũng như các cán bộ trong công tác bảo hiểm Hoả hoạn nên kết quả nghiệp vụ này ngày càng cao.Hơn một năm đầu triển khai nghiệp vụ ( 89-90 ) các đơn vị tham gia còn quá ít ỏi. Trong số hàng vạn các xí nghiệp hoạt động trên phạm vi cả nước thì đơn vị tham gia bảo hiểm Hoả hoạn chỉ dừng lại ở con số trên dưới 100. Đây là những doanh nghiệp thực sự có nhu cầu và thường là những công ty thuộc về ngành xăng dầu, do vậy khả năng xảy ra rủi ro là rất lớn.
Nguyên nhân của tình trạng này là do bước đầu chuyển sang kinh tế thị trường, nhiều đơn vị còn lúng túng, kinh doanh chưa ổn định nên không có điều kiện tham gia bảo hiểm. Mặt khác do nước ta tồn tại quá lâu cơ chế cũ, nên khi chuyển sang cơ chế mới, lãnh đạo các xí nghiệp còn mang nặng tư tưởng bao cấp, chưa thấy rõ được trách nhiệm phải bảo toàn vốn của mình. Một phần nưã là về phía công ty, do đây là nghiệp vụ mới, cán bộ làm công tác bảo hiểm Hoả hoạn chưa nhiều, chưa có kinh nghiệm. Hơn nữa, cán bộ chưa phục vụ tận tình mà để khách hàng phải tự đến gõ cửa công ty.
Nắm bắt được tình hình như vậy, Văn phòng Tổng công ty cũng như các công ty địa phương đã có những nỗ lực lớn để khắc phục tình hình. Do vậy đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong những năm gần đây :
Nếu như năm 2000, Bảo Việt mới chỉ nhận bảo hiểm cho 1413 đơn vị thì đến năm 2003, số đơn vị được bảo hiểm đã lên tới 3102 đơn vị -gần gấp 3 lần. Còn giá trị bảo hiểm cũng tăng nhưng tăng hơn gấp 14 lần. Có thể nói giá trị bảo hiểm tăng nhanh như vậy một mặt là vì nền kinh tế Việt Nam trong những năm vừa qua đang trên đà phát triển vượt bậc. Trong thời gian đầu mở cửa, đã có những Công ty nước ngoài đầu tư nhưng chỉ đầu tư với mức độ rất dè dặt mục đích của họ là muốn thăm dò thị trường Việt Nam. Sau một thời gian nghiên cứu, thấy Việt Nam là nơi có cơ hội đầu tư tốt nên những dự án lớn hơn về quy mô đã được ký kết.
Doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn tăng nhanh, với tốc độ cao và khá đều. Năm sau doanh thu tăng hơn năm trước. Sở dĩ Bảo Việt đạt được kết quả như vậy là do những nguyên nhân chủ yếu sau :
- Về khách quan : sự ban hành các quyết định của Bộ tài chính có liên quan đến vấn đề bảo hiểm đã tạo ra ảnh hưởng lớn đối với việc kinh doanh bảo hiểm của công ty. Điều đó được thể hiện là số đơn bảo hiểm cấp và doanh thu trong năm 2003 tăng gần gấp đôi so với năm 2000. Những năm gần đây số đơn bảo hiểm và doanh thu tăng không mạnh nguyên nhân chủ yếu là do nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn của Công ty bị mất hẳn một phần doanh thu về phía Công ty bảo hiểm Petrolimex và Bảo Minh. Mặc dù bị hao hụt lớn nhưng nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn những năm gần đây vẫn duy trì được doanh thu năm sau tăng hơn năm trước. Đó là kết quả nỗ lực không thể phủ nhận của toàn bộ cán bộ trong nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn. Những năm gần đây do chính sách của nhà nước ngày càng thông thoáng nên các Công ty bảo hiểm nước ngoài đã có thể được kinh doanh trên thị trường Việt Nam. Điều này tạo nên sự cạnh tranh không nhỏ đối với Bảo Việt. Nhưng nhờ có uy tín từ trước nên doanh thu bảo hiểm của Bảo Việt những năm gần đây vẫn tăng cao và nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn cũng tăng theo.
- Về chủ quan : Tổng công ty đã có những cố gắng đáng kể trong việc đào tạo, bồi dưỡng và mở rộng đội ngũ cán bộ. Thỉnh thoảng, công ty có mở lớp hướng dẫn, tập huấn cho cán bộ, cộng tác viên để trau dồi thêm nghiệp vụ. Ngoài ra, các cán bộ nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn cũng cố gắng tìm mọi cách để mở rộng địa bàn tiếp thị, triển khai mạng lưới các văn phòng đại diện quận, huyện ở các địa phương giúp cho việc tiếp cận khách hàng được tốt hơn đồng thời giữ vững địa bàn hoạt động, không để mất khách hàng. Tổng công ty đã mở rộng mạng lưới tuyên truyền, quảng cáo thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như : đài, báo, tạp chí, vô tuyến truyền hình....
Đi đôi với việc bồi dưỡng cán bộ, Tổng công ty đã từng bước hoàn thiện hơn trong việc tính phí. Việc áp dụng biếu phí linh hoạt đã đưa ra được những mức phí cạnh tranh, phù hợp với cơ chế thị trường. Nếu như trước đây, Baỏ Việt chủ trương áp dụng một tỷ lệ phí trung bình cho tất cả các ngành sản xuất kinh doanh, các loại tài sản khác nhau là 0,29 %, sau đó sử dụng hệ số điều chỉnh thì đến tháng 12 năm 1993, Tổng công ty đã đề nghị Bộ tài chính cho phép áp dụng phí bảo hiểm Hoả hoạn mới xây dựng trên cơ sở theo những kinh nghiệm của Munich Re và một số nước khác trong khu vực. Biểu phí này giảm đi 20% so với biểu phí cũ nhưng vẫn đảm bảo hoạt đông kinh doanh của Bảo Việt và quan trọng hơn nữa là vẫn được các nhà tái bảo chấp nhận.
Mặt khác, Tổng công ty đã có quan hệ rất tốt với Bộ tài chính, Tổng cục đầu tư và phát triển, các ngân hàng, cục CSPCCC... Giờ đây, Bảo Việt cũng luôn luôn được sự ủng hộ của các ngân hàng. Các ngân hàng chỉ cho các doanh nghiệp vay vốn khi họ đã tham gia bảo hiểm cho tài sản của mình. Nhiều ngân hàng đã buộc các đơn vị vay tiền phải xuất trình giấy tờ chứng nhận bảo hiểm thì mới cho vay tiền. Tổng công ty cũng đã theo dõi chặt chẽ các công trình đầu tư lớn, kịp thời thông báo cho địa phương. Nhiều trường hợp đã phối hợp với Tổng cục đầu tư và phát triển thông qua Bộ tài chính đề nghị Nhà nước cấp bổ sung vốn để tham gia bảo hiểm. Bảo Việt đã phối hợp chặt chẽ với một số ngành có số lượng tài sản lớn như bưu điện, y tế, công nghiệp để triển khai đồng bộ trong cả nước.
Bên cạnh đó, sự thành lập các công ty môi giới bảo hiểm, các công ty bảo hiểm nước ngoài cũng có những đóng góp tích cực trong việc đem lại dịch vụ bảo hiểm cho công ty
Doanh thu tăng còn được thể hiện qua bảng sau :
Bảng : Cơ cấu doanh thu bảo hiểm Hoả hoạn tại Bảo Việt
Năm
Đơn vị
1999
2000
2001
2002
2003
Doanh thu BH Hoả hoạn
tỷ đồng
40,48
102,04
197,5
392,76
417,94
Doanh thu của Bảo Việt
tỷ đồng
1559,1
3272,3
5073
7040,1
8779,1
Tỷ lệ
%
2,59
3,12
3,89
5,58
4,76
Nguồn số liệu: Phòng bảo hiểm Hoả hoạn và kỹ thuật - Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam
Tỷ lệ doanh thu của bảo hiểm Hoả hoạn so với doanh thu toàn công ty ngày càng tăng.. Năm 2003, tỷ lệ này có giảm đi một ít, nguyên nhân là do doanh thu của bảo hiểm Hoả hoạn tăng không đáng kể trong khi đó doanh thu của toàn Tổng công ty tăng (do sự tăng doanh thu của các nghiệp vụ khác như : bảo hiểm hàng xuất, bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm thân xe ô tô...).
Tuy nhiên, đến nay bảo hiểm Hoả hoạn đã là một nghiệp vụ quan trọng đem lại nguồn doanh thu không nhỏ cho Bảo Việt.
2 Tình hình chi bồi thường
Ta đã biết được vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác bồi thường trong bảo hiểm. Bồi thường chính xác, nhanh chóng là phương pháp tốt nhất để tạo ra sự tín nhiệm của khách hàng vào công ty. Quán triệt quan điểm đó, Bảo Việt đã đề ra những biện pháp về quản lý cũng như việc tiến hành công tác này sao cho có hiêụ quả nhất.
Về b
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0101.doc