LỜI NÓI ĐẦU 1
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI 2
I. Khái quát chung về BHXH 2
1. Sự ra đời và phát triển của BHXH 2
2. Bản chất và những nội dung của BHXH. 5
II. BHXH tự nguyện cho nông dân. 14
1. Khái niệm chung về BHXH tự nguyện: 14
2. Những nội dung cơ bản. 16
3. Triển khai BHXH tự nguyện cho nông dân ở các nước trên thế giới. 26
PHẦN II: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI BHXH TỰ NGUYỆN CHO NÔNG DÂN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY VỚIMỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT. 30
I. Sự cần thiết phải BHXH cho nông dân. 30
1. Vai trò của nông dân và lao động nông thôn trong hệthống kinh tế xã hội ở nước ta. 30
2. Thu nhập của người nông dân và lao động nông thôn. 32
3. Nhu cầu được BHXH của người nông dân. 33
4. Khả năng tham gia BHXH của người nông dân. 35
II. Thực trạng triển khai BHXH tự nguyện cho nông dân ở nước ta. 36
1. Thực trạng triển khai BHXH tự nguyện. 36
2. Đánh giá chung và thực tiễn hoạt động của BHXH cho nông dân ở nước ta thời gian qua. 41
III. Một số ý kiến đề xuất và việc triển khai BHXHtự nguyện cho nông dân. 42
1. Phương hướng tiến hành. 42
2.Tổ chức quảnlý quỹ BHXH tự nguyện cho người nông dân. 45
3. Vai trò của nhà nước và tổ chức bộ máy củacơ quan BHXH tự nguyện. 53
4. Hoạt động đầu tư tăng trưởng. 55
KẾT LUẬN 57
60 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1408 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bảo Hiểm Xã Hội cho nông dân: thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành và phát triển.
Đầu tư để tăng trưởng là một trong những nguồn góp phần hình thành quỹ. Các hoạt động đầu tư ngoài mua trái phiếu, tín phiếu, cho ngân sách nhà nước hoặc ngân hàng thương mại vay, cần thiết cho phép quỹ BHXH tự nguyện mở rộng hình thức đầu tư như kinh doanh bất động sản, đầu tư vào các công trình có lãi suất cao, an toàn dễ thanh toán ở các thành phần kinh tế. Các hoạt động đầu tư nhất là đầu tư quỹ hưu nông dân được tập trung ở cơ quan quản lý quỹ hưu nông dân cấp tỉnh trình UBND tỉnh quyết định. Toàn bộ lãi thu được sau khi trừ đi chi phí chi hoạt động đầu tư được nộp vào quỹ để bảo toàn và tăng trưởng.
Toàn bộ các khoản viện trợ, ủng hộ của các tổ chức, cá nhân theo địa chỉ quỹ hưu nông dân tỉnh thì được tập trung vào như một nguồn thu của quỹ và được quản lý sử dụng chung.
+ Hình thức đóng phí:
Để cho người nông dân tham gia BHXH thì yếutố ktlàvốn để có quyết định tham gia hay không và mức phí bảo hiểm là bao nhiều, hình thức đóng như thế nào.
Hiện nay, đời sống của người nông dân và lao động nông thôn đã được cải thiện hơn rất nhiều so với trước đây, họ đã có mứcthu nhập khá hơn . Bước đầu đã có tích luỹ bằng tiền, nhưng không thể nói khoản tích luỹ này đủ đảm bảo cho cuộc sống của họ khi về già nhưng một phần số tiền đó nếu đóng góp vào BHXH sẽ là cách tích luỹ tốt nhất khi tuổi già ập đến (tất nhiên mức trợ cấp không phải là đảm bảo hoàntoàn cuộc sống của họ khi về già, mà nó tạo ra một khoản thu nhập ổn định khi về già). Một số nước sử dụng hệ thống đóngphí bằng tem, tứclà người tham gia BHXH sẽ đóngphí thông qua việc mau tem,mỗi thương mại có giá trị khác nhau. Ví dụ ở ấn độ và Anh sử dụng các bộ cạc BHXH, mỗi bộ cạc có 52 hoặc 53 ô theo tuần trong năm vàđược sử dụng trên 20 năm.
Trong khi đó ở Pháp, hình thức đóng phí BHXH tự nguyện được tính theo “số điểm”, mỗi điểm ứng với một số tiền nào đó tại thời điểm đóng góp. . Tuy nhiên, Nhà nước cũng phải xác định “số điểm”tối thiểu cần phải đóng góp trong một kỳ (tháng, quý, năm) đóng góp. Đối với những người ndquá nghèo, họ khuyến cáo không nên tham gia vào hệ thống BHXH mà là đối tượng của cáchệ thống chính sách trọ giúp xã hội khác. Ngoài ra để xác định giá trị của điểm có thể căn cứ tổng thu, tổng chi của năm trước để điều chỉnh. Trên cơ sở tổng số điểm của người lao động trong suốt quá trình đóng BHXH, đến khi họ hưởng BHXH họ sẽ được tính trên giá trị thực tế của “điểm”vào hệ tại thời điểm thụ hưởng.
ở Việt Nam, do đặc điểm của đối tượng sản xuất nông nghiệp và lao động nông thôn phụ thuộc vào khí hậu, thời tiết vàmang tính thời vụ nên bước đầu triển khai cả hi hình thức đóng phí là bằng tiền và bằng hiện vật (lúa…)Tuy nhiên,cũng phải lưu ý đến thời gian đóng phí của người nông dân, có thể cho phép họ đóng phí theo năm vì thu nhập của người nông dân phụ thuộc rất nhiều vàomùa vụ. Nhưng việc quản lý thu phí vớicả hai hình thức sẽlà khó khăn và phức tạp cho cơ quan quản lý BHXH song trước mắt lạithuận lợi cho người nông dân. Tương lai sẽ tiến hành thu phí dưới một hình thức là bằng tiền nhằmtạo điều kiện cho BHXH nông dân ở nươcs tapt vì nó phù hợp hơn với cơ chế thị trường và dễ dàng cho công tác quản lý và thu phí.
+ Cơ sở xác định mức phí, điều kiện hưởng và mức hưởng.
Để xác định mứcphí cho phù hợp với đối tượng tham gia bảo hiểm, cũng như để đảm bảo cân bằng và phát triển quỹ BHXH tự nguyện, cần phải xem xẻtới các yếu tố ảnh hưởng tới sự chi trả như các yếu tố phản ánh khả năng đóng góp của người tham gia.
Phí BHXH xác định theo công thức:
P = fo + d.
Trong đó:
P: phí BHXH tự nguyện.
f: phí thuần tuý trợ cấp BHXH.
d: phụ phí (gồm phí dự phòng và phí quản lý).
Như vậy để xác định đượcmức phí phải đóng và mức hưởng BHXH phải dựa vào nhiều yếu tố và nhiều thông tin khác nhau về người lao động, cơ cấu nguồn lao động theo độ tuổi, giới tính… ngoài ra còn phải xác định và dự báo được tuổi thọ bình quân và xác xuất tử vong của người lao động nông thôn. Xác định mức phí có thể dựa vào các yếu tố sau:
- Mức hưởng: Mức hưởng là khoản tài chính mà người tham gia BHXH được chi trả khi bị tổn thất thu nhập, cụ thể đâylà giảm thu nhập do người nuôi dưỡng trực tiếp hoặc người tham gia BHXH mất sức lao động. Nó phụ thuộc vào thời gian và mức đóng góp của người đó.
- Tuổi thọ của người lao động và mức tăng trưởng kinh tế. Xã hội ngày càng phát triển thì nền kinh tế cũng tăng trưởng, các sản phẩm làm ra càng nhiều, thu nhập của người lao động cũng tăng theo. Đây là điều kiện tiền đề để người tham gia có khả năng đóng phí BHXH.
- Đồng thời với đời sống ngày càng nâng cao thì chắmóc y tế và nhu cầu vật chất được đáp ứng đầy đủ hơn do đó tuổi thọ của người dân ngày càng tăng lên. Do đó phải điều chỉnh mức đóng phí và thời gian đóng phí cho phù hợp.
- Ngoài ra cònphụ thuộc vàomức thu nhập hiện tại của dân cư. Vì thu phí phải tính được mức phí phù hợp với thu nhập của người dân, lúc đó mới gây được sự hấp dẫn với người tham gia và phù hợpvới khả năng của họ. Nừu đưa ra mứcphí quá cao sẽ có ít người tham gia BHXH như thế sẽ không đảm bảo được nguyên tắc của bảo hiểm là số đông bù số ít, nếu như đưa ra mức phí quá thấp thì sẽ không đủ khả năng chi trả.
+ Điều kiện hưởng và mức được hưởng BHXH nông dân.
Hưởng BHXH tự nguyện hàng tháng được căn cứ vàomức đóng BHXH và khă năng tăng trưởng của nguồn quỹ.
Người tham gia có đóng góp đầy đủ, đúng thời gian quy định và thời gian đóng (20 năm). Những người ở độ tuổi cao có thể đóng bù cho một số năm (nhưng cũng phải có 10 năm đóng theo tháng) và khi 60 tuổi với nam và 55 tuổi đối với nữ được hưởng trợ cấp BHXH hàng tháng.
Cách tính mức hưởng cụ thể: lấy tổng số tiền đóng góp và tồn tích trong sổ BHXH tuổi già có được trước khi người lao động được hưởng trợ cấp trừ đi chi phí quản lý theo quy định và chia cho 180 tháng.
Hai tiêu thức quan trọng được tính là:
Một là: xác định lãi suất cho từng thời kỳ. Lãi suất từng thời kỳ có thể xác định cho một năm hoặc một số năm,lãi suất phụthuộc vào chính sách tích góp và kết quả đầu tư phát triển quỹ (lãi gửi ngân hàng,lãi công trái,và lãi do đầu tư khác…). Việc xác định cụ thể mứclãi suất từng thời kỳ để tính mức hưởng về nguyên tắc do UBND tỉnh quyết định. Sau khimức lãi suất được xác định cho từng thời kỳ sẽ thực hiện phương pháp tồn tích. Năm đầu tính lãi đơn,các năm tiếp theo tính lãi kép.
Hailà: Xác định niên hạn BHXH là 180 tháng, niên hạn hưởng BHXH là căn cứ vào tuổi thọ bình quân tương lai sau 60 tuổi theo tính toán hiện nay tuổi thọ sau tuổi 60 của nam giới là 15,6 năm, của nữgiới là 18 năm ta lấy niên hạn BHXH 15 năm là phù hợp. (15 năm x 12 tháng = 180 tháng).
Theo cách tính trên đây, thì niên hạn hưởng BHXH của một người đủ 15 năm là chấm dứt. Tuy nhiên, trong thực tế thì người nông dân sẽ được hưởng BHXH suốt đời.Điều này cnàg thểhiện rõ mục đích của BHXHmangtính nhân văn, tính xã hội sâu sắc. Song phải làm tốt việc quản lý và tăng trưởng quỹ để có nguồn kinh phí chi cho đối tượng hưởng suốt đời.
- Những người tham gia BHXH tự nguyện chuyển đi nơi khác mà không thể tiếp tục tham gia thì được trả một lần toàn bộ số tiền người ấy đã đóng góp kể cả lãi, trừ chi phí quản lý.
- Người đang tham gia BHXH tự nguyện mà chết đi thì thân nhân người đó được hưởng toàn bộ số tiền theo cách tính như trên.
- Người đang hưởng trợ cấp BHXH tự nguyện chưa hết niên hạn 180 tháng mà bị chết thì số tiền còn laị của những tháng chưa hưởng sẽ được trả một lần hoặc trả hàng tháng cho thân nhân người đã mất.
e. Hình thức BHXH tự nguyện cho người nông dân.
Người nông dân nông thônhiện nay sản xuất theo kiểu hộ gia đình, tự chủ trong sản xuất và trong đời sống, rất ít làm thuê lấy công, nếu có cũng là để kiếm thêm thu nhập của chính bản than người lao động và gia đình họ. Như vậy, để xác định thu nhập bình quân một tháng củamỗi nông dân là rất khó. Người nông dân ở nông thôn chiếm gần 80% dân số,lại sống ở khắp mọi miền đất nước. Có những nơi dân cư sống rất thưa thớt, đặc biệt ở vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa; một số nhóm dan còn sống theo kiểu du canh, du cư. Vởy quản lý họ như thế nào và tổ chức cho họ tham gia BHXH như thế nào là một vấn đề khá phức tạp.
Từ hailý do trên đây, ta thấy BHXH bắt buộc cho nông dân và lao động nông thônlà không phù hợp mà chỉ nên áp dụng BHXH tự nguyện là hợp lý hơn cả.
3. Triển khai BHXH tự nguyện cho nông dân ở các nước trên thế giới.
a. BHXH đối với nông dân Phần Lan.
Phàn lan là một nước nằm ở phía bắc Châu Âu, giữa 60 – 70 vĩ độ Bắc có khoảng 5 triệu dân. Phần lan là một quốc gia nông nghiệp ở phía Bắc của thếgiới. Vào năm 1994 nông dân chiếm khoảng 7% tổng dân số có việc làm khoảng 35% lực lượng lao động là nông dân làm việc bán thời gian.
Phần lan có đạo luật BHXH ghi rõ:
Đạo luật về các chế độ dài hạn đối với nông dân có hiệu lực từ 1970 và bao trùm nông dân, ngư dân tự tạo việc làm và những người chăn nuôi trên 18 tuổi, cùng với các thành viên trong gia đình họ. BHXH bắt buộc đối với những người tham gia việc làm trong các trang trại, nếu trang trại có diện tích hơn 5 hecta đất trồng trọt. Đất rừng cũng được xác định xem nông dân thuộc đối tượng của đạo luật hay không, công thức được sử dụng ở đây cho phép một tỷ trọng thay đổi tuỳ thuộc vì năng suất lâm nghiệp có tỷ trọng thấp hơn phía Bắc đất nước.
Mức đóng góp: mức đóng góp bảo hiểm việc làm được tính theo phần trăm do Bộ Y tế và các vấn đề xãhội quy định.
Mức trợ cấp: chế độ dài hạn và trợ cấp cũng khác với nông dân tự tạo việc làm công quỹ như đối tượng của hệ thống chế độ dài hạn trên tổng thể. Tuổi thông thường được hưởng trợ cấp hưu trí là 65 tuổi.
Điều kiện được hưởng: nông dân trên 58 tuổi là có thể được hưởng.
b. Hệ thống BHXH nông dân tại Pháp.
BHXH nông dân pháp ra đời từ rất sớm, do người nông dân tự thànhlập các quỹ tương tự bảo hiểm cho mình vào cuối thế kỷ 19 đầu thếkỷ 20. Một tổ chức được nhà nước tài trợ là Tương tế xã hội nông nghiệp có chức năng của một cơ quan thực hiện BHXH đối với nông dân và những người làm trong nông nghiệp.
Tổ chức tương tế xã hội nông nghiệp được nhà nước tài trợ áp dụng các chế độ sau:
- BHXH cho nông dân (bảo hiểm bệnh tật, sinh đẻ, thương tật, tử vong).
- Trả tiền hưu trí cho nông dân.
- BHXH hưu trí đối với những người làm trong ngành nông nghiệp.
- Bảo hiểm thất nghiệp lao động và bệnh nghề nghiệp đối với người làm công.
Nhân viên phần lớn là người tình nguyện có mặt tại các xã tổng. Quỹ tương tế xã hội nông nghiệp ở các tỉnh hoặc liên tỉnh và 3 quỹ trung ương ở cấp quốc gia. Việc quản lý mỗi tổ chức này được đảm nhận bởi các đại diện do nông dân, người làm công nông dân có sử dụng lao động bầu ra, bởi các đại diện do các hộ gia đình và 2 đại diện trong số nhân sự của quỹ do bn kinh doanh chỉ định. Mỗi quỹ cấp tỉnh có trách nhiệm về các khoản đóng góp của thành viên, thu tiền đónggóp và trả các khoản tiền. Ba quỹ trung ương đảm nhận việc thực hiện chính sách xã hội nông nghiệp dưới sự chỉ đạo của cùng mộthội đồng quản trị.
Hình thức đóng phí: do đặc điểm của thu nhập của người dân nông thôn, để có cách đóng góp BHXH phù hợp khác với khu vựclàm công ăn lương, BHXH Pháp đã tính toán mức đóng sau đó tính ra số”điểm”, mỗi “điểm” tại mỗi thời điểm có thể khác nhau tuỳ vào giá trị đồng tiền tại thời điểm tính và tổng lượng tiền dự kiến cơ quan BHXH thu được trong năm.
c . Hệ thống BHXH ở Indonesia.
Những chương trình được đề xuất đối với người nông dân.
ở vùng nông thôn, lực lượngld chủ yếu gồm những người làm công ăn lương trong nhà nước và lao động tự do. Lao động nhà nước thực hiện cáccông việc của họ thông qua các hợp đồng về việc làm, bằng miệng hoặc bằng văn bản. Mặt khác, người lao động tự do là những nông dân độc lập hoặc lao động gia đình. Tuy nhiên ở hầu hết các vùng, lao động nông thôn và lao động tự do là những người lao động thủ công: thủ công trong công việc và trong cung cách thu nhập, đặt họ vào tình trạng sống theo nếp đơn sơ. Do đóhọ rất cần sự bảo trợ.
Những chương trình BHXH được đề xuất đối với dân số nông thôn bao gồm: Chăm sóc y tế, trợ cấp mất sứcld, và trợ cấp hưu trí.
+ Chăm sóc y tế bao gồm những chăm sóc y tế phù hợp trong trườnghợp ốm đau cũng như khi thai sản và sinh con. Các thành viên được hưởng các chăm sóc ytế và điều trị bệnh viện khi ốm đau không những chỉ cho bản thân họ mà cho cả các thành viên. Các trung tâm y tế cộng đồng tại các địa phươngcung cấp cả điều trị ngoại trú, tiêm phòng và cả đầu vụ kếhoạchhoá giađình,trong khi điều trị tại bệnh viện và khi sinh con được quy định tại các phòng khám và bệnh viện thuộc tuyến tỉnh và tuyến vùng.
+ Trợ cấp mất sức lao động được dành cho những trường hợp bị mất khả năng làm việc trong một mức độ quy định và khi mất sức lao động là vĩnh viễn hoặc kéo dài sau khi điều trị.
+ Trợ cấp hưu trí danh cho những người đến tuổi nhất định và khôngcòn khả năng để tự kiếm sống.
BHXH quy định dưới một số điều kiện: tiết kiệm được tích luỹ cùng với lãi suất có thể rút ra trong trường hợp đến tuổi 65. Trong trường hợp mất sức vĩnh viễn và chết,trợ cấpđược chi trả cho người được hưởng thừa kế và trợ cấp.
Tất cả các hệ thống BHXH cần phải đủ quỹ để chi trả trợ cấp theo luật định cũng như trang trải các chi phí. Mục tiêu là để cho ndchỉphải đónggóp một lần cho một năm và thậm chí anh ta được lựa chọn chi trả làm nhiều kỳ trong năm.
Phần II
Thực trạng triển khai BHXH tự nguyện cho nông dân ở nước ta hiện nay vớimột số giải pháp đề xuất.
I. Sự cần thiết phải BHXH cho nông dân.
1. Vai trò của nông dân và lao động nông thôn trong hệthống kinh tế xã hội ở nước ta.
Người nông dân là lựclượng lao động chính trong ngành nông nghiệp và giữ vai trò then chốt trong quá trình ptkt xã hội ở nước ta.
Nông nghiệp là ngành sản xuất giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia, cho dù quốc gia đó có nền kinh tế phát triển hay đang phát triển. Bởi vì ngành này cung cấp cho con người những sản phẩm thiết yếu nhất cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày như: lương thực,thực phẩm là yếu tố đầu tiên của sự tồn tại và phát triển kinh tế xã hội của bất kỳ quốc gia nào.
Xã hội càng phát triển, đời sống con người càng nâng cao về vật chất lẫn tinh thần thì nhu cầu về các sản phẩm từ nông nghiệp cũng tăng lên cả về số lượng và chất lượng, chủng loại. Nguyên nhân của sự tăng lên này là do:
- Dân số tăng lên không ngừng.
- Nhu cầu của bản thân con người cũng không ngừng tăng lên.
Bên cạnh đó nông nghiệp còn cung cấp các yếu tố đầu vào cho công nghiệp nhẹ và công nghệ thực phẩm hàng hoá để xuất khẩu.
Hơn nữa, nông nghiệp vànông thôn cònglà thị trường tiêu thụ rộng lớn của công nghiệp baogồm tư liệu sản xuất và tưliệu tiêu dùng mà chủ yếulàdựa vào thị trường trong nước trước hết là khu vực nôngnghiệp và nông thôn. Sự thay đổi về nhu cầu trong nông nghiệp và nông thôn sẽ tác động trực tiếp đến sản xuất ở khu vực phi nông nghiệp. Phát triển mạnh nông nghiệp nâng cao thu nhập cho dân cư nông thôn, từ đó tăng sứcmua của khu vực nông thôn là điều kiện hết sức quan trọng làm tăng nhu cầu đối với các sản phẩm công nghiệp, tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển nhanh và ổn định.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã làm chuyển dịch cơ cấu lao động trong các thành phần kinh tế. Nhu cầu về lao động tăng lên. Năng suất lao động trong nông nghiệp cũng tăng lên làm cho số lượngld giải phóng ra khỏi ngành nông nghiệp càng nhiều, xuất hiện xu hướng chuyển dịch lao động vào các ngành công nghiệp và dịch vụ, xu hướng đô thị hoá tăng cao.
Đó là tất yếu khách quan mang tính quy luật của mọi quốc gia trong quá trình công nghiệp hoá hiện đaị hoá đất nước.
Việt Nam là một nước nông nghiệp đang trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì nông nghiệp giữ một vai trò vô cùng quan trọng và to lớn đối với nền kinh tế quốc dân. Hàng năm không những đã tạo ra một khối lượng sản phẩm khổng lồ phong phú, đa dạng cho sản xuất công nghiệp tạo sự ổn định tình hình kinh tế chính trị xã hội ở nông thôn và tạo ra sự bền vững của đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước cùng với sự hăng say lao động, tinh thần tích cực sản xuất. Từ một nước không đủ gạo để ăn, hàng nămphải nhập một số lượnglớn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước cung cấp đủ nhu cầu gạo trong nước cònlà một trong 3 nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới. Điều này càng khẳng định hơn nữa vai trò củangười nông dân là quan trọng trong mọi lúc,mọi nơi.
Hiện nay cơ cấu lao động nông nghiệp và nông thôn nước ta vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ nguồn lao động xã hội. Điều này thể hiện ở bảng sau:
Nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản
23,3%
Côngnghiệp
37,7%
Dịch vụ
39%
Với đặc tính của nền kinh tế thị trường,tỷ trong nông nghiệp ngày càng giảm trong các ngành kinh tế thay vào đó là ngành công nghiệp dịch vụ tănglên. Do đó có thể tỷ trọng đóng góp của ngành nông nghiệp vào GDP có thể giảm đi, nhưng tổng giá trị của ngành nông nghiệp vẫn tăng lên qua các năm.
Theo viện khoa học xã hội thìhiện nay có 10% nông dân làm thêm các ngành phụ khác như tiểu thủ công nghiệp, xậy dựng, dịch vụ… Đặc tính của nông nghiệp là phụ thuộc vào thời tiết khí hậu và mang tính thời vụ. Do vậy những lúc nông nhàn,luông người từ khu vực nông thôn ra thànhthị ngày càng đông để tìm những công việc phụ không đòi hỏi trình độ tay nghề để kiếm thêm thu nhập cho bản thân và gia đình. Điều này vừa gâya ảnh hưởng xấu đến trật tự đô thị của những nơi họ đến mặt khác cũng tạo ra nhưngx lợi ích không nhỏ. Như vậy người nông dân nước ta không chỉ có đóng góp vào sản xuất và phát triển nông nghiệp mà còn đóng góp vào các ngành nghề khác trong xã hội. Do vậy người nông dân có một vai trò rất quan trọng đốivới sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế quốc dân.
2. Thu nhập của người nông dân và lao động nông thôn.
Năm 2001, thu nhập bình quân đầu người của nước ta là khoảng 650.000đ. Tuy nhiên thu nhập của người nông dân còn thấp so với thu nhập bình quân của cả nước, tuy rằng đó là kết quả tốt nhất từ trước đến nay.
Thu nhập bình quân nhân khẩu của các hộ nông thôn:
Dưới 100.000đ/tháng/người: 18,7%
Dưới 150.000đ/tháng/người: 33,9%.
Từ 400.000 – 1000.000đ/người/tháng chiếm 30,74%.
Trên 1.000.000 đ/người/tháng chiếm 3,36%.
(Nguồn: tạp chí LĐ & XH 5/2001)
Thu nhập bình quân củamột người lao động một tháng tham gia hoạt động kinh tế chia theo nhóm hộ (nguồn: điều tra của Bộ LĐTB & XH).
+ Vùng duyên hải miền trung:
Vùng, khu vực
Nhóm hộ
Nhóm 1
Nhóm 2
Nông thôn đồng bằng
280
323
Nông thôn ven biển
333
361
Nông thôn miền núi
268
310
+ Vùng Bắc Trung Bộ:
Vùng, khu vực
Nhóm hộ
Nhóm 1
Nhóm 2
Nông thôn đồng bằng
174
193
Nông thôn ven biển
194
195
Nông thôn miền núi
162
183
- Nhóm 1: nông nghiệp thuần: gồm các hộ trong 12 tháng trong nămn chỉ thuần tuý hoạt động về trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản.
- Nhóm 2: Nông nghiệp kiêm các ngành khác.
Gồm các hộ ngoài hoạt động chính là sản xuất nông lâm thuỷ sản còn tham gia thêm một số hoạt động kinh tế thuộc các ngành, lĩnh vực khác không phân biệt là ổn định hay không ổn định.
Như vậy, so với những năm trước thì thu nhập bình quân của dân cư nông thôn đã tănglênmột cách rõ rệt. Ngoài việc đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ncày họ bắt đầu có tích luỹ (dù còn thấp) và quan tâm đến các nhu cầu xã hội khác, trong đó có nhu cầu về BHXH. Đây là điểm rất quan trọng là tiền đề và cơ sở để tiến hành BHXHtự nguyện cho người nông dân.
3. Nhu cầu được BHXH của người nông dân.
Trong lịch sử nước ta, ở thời kỳ kinh tế chậm phát triển, điều kiện sống gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ chết cao, tuổi thọ trung bình của dân số chỉ 40 đến 50 tuổi, do đó chỉ những người trên 50 tuổi là được gọi là “lão”, những người trên 70 tuổi thì gọi “nhân sinh thất thập cổ lai hy” tức là ít có. Hiện nay, nhờ những thành tựu trong y học và kinh tế đemlại nên tỷ lệ chết giảm nhanh và tuổi thọ trung bình tăng lên. Bộ luật lao động của nước ta đã xác định trên 55 tuổi đối với nữ và trên 60 tuổi đối với nam mà vẫn hoạt động kinh tế thuộc nhóm lao động là người cao tuổi.
Liên hiệp quốc dự báo thế kỷ 21 là thế kỷ già hoá. Tại nhiều nước đang phát triển rất quan tâm đến vấn đề già hoá dân số và đang tìm biện pháp để giảm những ảnh hưởng tiêu cực của nó. Năm 1995, tỷ lệ người cao tuổi trên thế giới là 9%, thì vào năm 2015 quỹ dân số LHQ dự báo sẽ là 14%. ở Việt Nam , theo số liệu điều tra năm 1989 trong số 64 triệu dân thì có 7,2% dân số từ 60 tuổi trở lên. Đến năm1999 thì tổng số dân là 78 triệu người thì có tới hơn 10% dân số từ 60 tuổi trở lên, như vậy người già tăng nhanh cả về số lượng và tỷ lệ, đặc biệt là từ năm1989 đến nay, do đất nước ta thực hiện tốt chiến lược dân ố – kế hoạch hoá gia đình làm giảm đáng kể tỷ lệ sinh con và đã gián tiếp làm tăng tỷ lệ người cao tuổi. Theo nhiều chuyên gia thì mô hình biến động dân số ở Việt Nam khá giống với Trung Quốc và Hàn Quốc. Đó lànhững quốc giamà dân số chuyển từ loại”trẻ” sang “già” chỉ trong gần 20 năm. Như vậy có thể trong vài năm tới tỷ lệ người cao tuổi ở Việt Nam sẽ tăng lên rất nhanh.
Khác với các nước phát triển, người cao tuổi Việt Nam hiện nay hầu hết đã trải qua các cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Hoà bình lập lại, họ trở về với cuộc sống hàng ngày và phải đối phó với nhièu khó khăn về kinh tế, xã hội chịu đựng tình trạng suy dinh dưỡng, những bệnh phổ biến như sốt rét, lao và những bệnh dịch hiện tại như HIV, AIDS, ung thư, tim mạch… Hơn nữa, hầu hết những người cao tuổi trong số họ họ đều ở nông thôn. Do vậy mà cuộc sống hiện tại của họ gặp nhiều khó khăn nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Cơ chế thị trường bên cạnh mặt tích cực còn có mặt tiêu cực là làm cho quan hệ người già người trẻ, thế hệ trước thế hệ sau, thậm chí quan hệ gia đình, dòng họ phần nào cũng bị tiền tệ hoá… Do vạy, nếu Nhà nước không chủ động nhận thức được các nhu cầu, các tính biến dạng của xã hội tthì khó giải quyết tốt nhiệm vụ xã hội trong nước.
Hiện nay, nhu cầu BHXH cho người nông dân là cần thiết, là nguyện vọng khát khao của người dân.
Thực tế hình thức sơ khai của loại hình BHXH đã xuất hiện dưới dạng cácquỹ, hội ở nông thôn với tính chất tương trợ, tương hỗ lẫn nhau. Hàng bao đời nay, họ đều phảu tự bảo hiểm cho mình thông qua nhiều hình thức phong phú, đa dạng trở thành nếp văn hoá truyền thống của dân tộcta (con cái có nghĩa vụi chăm sóc cha mẹ, hàng xóm đùmbọc giúp đỡ lẫn nhau khi khó khăn…). Trước đây, trong co chế bao cấp, xã viên hợp tác xã khi về già gặp khó khăn đều được hợp tác xã trợ giúp từ quỹ phúc lợi hoặc mua thóc điều hoà với giá thấp. Cùng với cơ chế thị trường năng động, linh hoạt vàmèm dẻo thì sự giúp đỡ này không còn, do vậy nếu nhà nước thực hiện chính sách BHXH cho nông dân thì người nông dân sẽ yên tâm hơn lkhi cuộc sống về già không phải lo lắng đối phó với ốm đau bệnh tật tuổi già vì đã có sự bảo trợ an toàn, đáng tin cậy là BHXH.
Để xác định nhu cầu tham gia BHXH của người nông dân và lao động nông thôn đã có một số cuộc điều tra ở các địa bàn khác nhau. Kết quả khảo sát cho thấy trong số những nông dân và lao động nông thôn, số người ở nhóm tuổi từ 25 – 55 tuổi chiếm đại đa số. Đây là nhóm người đang là lựclượng lao động chủ chốt của các gia đình nông thôn. Đồng thời, những người này cũng sẽ là nhóm chủ yếu tham gia BHXH và có nguyện vọng tham gia rất cao.
Nhu cầu tham gia BHXH không chỉ cho chính bản thânngười lao động nông thôn mà còn đối với các thành viên khác trong gia đình. Đây là một đặc điểm trong truyền thống gia đình Việt Nam.
Qua số liệu một số cuộc điều tra của Bộ LĐTB & XH ta thấy rằng nhu cầu nội tại BHXH của người lao động nông thôn là rất lớn:
- Sự cần thiết phải có chính sách BHXH: 89,40%.
- Mong muốn tham gia BHXH: 86,30%.
- Sẵn sàng tham gia BHXH: 51%.
- Chế độ BHXH muốn tham gia:
+ Hưu trí: 81,42%.
+ Tử tuất: 35,78%.
+ BHYTế (ốm đau): 54,74%.
4. Khả năng tham gia BHXH của người nông dân.
Khả năng tham gia BHXH của người lao động nông thôn thường biẻu hiện qua tình trạng làm việc và khả năng tạo thu nhập của họ.
Hiện nay, người nông dân ngoài các công việc chính là làm ruộng, chăn nuôi, trông cây công nghiệp, cây ăn quả… thì còn một tỷ lệ khá lớn làm thêm các nghề phụ như thủ công nghiệp, mỹ nfgghệ…Như vậy sự đa dạng hoá công việc ở nông thôn đã tạo ra khả năng lớn hơn cho người nông dân nông thôn có thêm thu nhập.
Công việc làm thêm có sự khác biệt giữa các nhóm lao động, những người trồng lúa có thêm nghề phụ nhiều hơn so với nhóm lao động khác. Từ lao động sản xuất người lao động nông thôn đã tạo ra thu nhập và đã đóng góp đáng kể vào tổng thu nhập của gia đình. Tính bình quân mỗi lao động nông thôn có thu nhập là 651.oođ/tháng trong đó thu nhập từ các công việc chính chiếm 71,93%. Thu nhập của bản thân người lao động có sự khác biệt giữa các nhóm lao động điều này cho thấy khả năng tham gia BHXH tự nguyện của các nhóm lao động có khác nhau.
Ta biết rằng, người nông dân chi tiêu khá tằn tiện. Trung bình chi tiêu của một gia đình ở nông thôn là khoảng 10,68 triệu đồng/năm. Trong đó chi cho ăn uông chiếm 54,21%, các sinh hoạt khác khoảng 40%. Do vậymà họ đã tích luỹ được ở một mức nhất định. Điều này không có nghĩa là họ khá giả mà chẳng qua là họ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0036.doc