MỤC LỤC
MỞ ĐÀU
PHẦN 1 : Nhãn hiệu hàng hóa và điều kiện cần thiết để bảo vệ nhãn hiệu hàng hóa
1.1 Quan niệm về nhãn hiệu hàng hóa
1.2 Lợi ích của nhãn hiệu hàng hóa
1.3 a . Lợi ích của nhãn hiệu đói với người tiêu dùng
1.4 b . Lợi ích của nhãn hiệu đối với doanh nghiệp
1.5 1.3 Điều kiện cân thiết đẻ bảo vệ nhãn hiệu hàng hóa
1.6 1.3.1 Làm tốt công tác ghi nhãn hàng hóa
1.7 1.3.2 Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa
1.8 1.3.3 Nhanh chong cập nhật thông tin sử dụng các kênh truyền thông để quảng bá thương hiệu hàng hóa
1.9 1.3.4 Các thương hiệu cần phải được đầu tư, duy trì qua thời gian trên thị trường
PHầN 2 Vấn đề bảo vệ nhãn hiệu hàng hóa ở Viêt Nam
2.1 Đánh giá chung về nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam
2.2 Thực trạng về bảo vệ nhãn hiệu Việt Nam
2.3 Những nguyên nhân chính cản trở bảo vệ nhãn hiệu
PHầN 3 Giải pháp nhằm tăng cường bảo vệ nhãn hiệu hàng hóa của doanh nghiệp
3.1 Các giải pháp về phía doanh nghiệp
3.1.1 Xây dựng nhãn hiệu hàng hóa thành công trên thị trường
3.1.2 Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu – thương hiệu
3.1.3 củng cố nhãn hiệu hàng hóa
3.1.4 Chuyển nhượng nhãn hiệu
3.1.5 Bảo họ nhãn hiệu theo tên xuất xứ sản phẩm
3.1.6 Thành lập hiệp hội những người sản xuất nhằm hỗ trợ giúp đỡ nhau về sản phẩm ,thị trường
3.1 Các giải pháp về phía nhà nước
3.2.1 hoàn thiện hệ thống văn bản về bảo hộ quyền SHCN nói chung và bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nói riêng.
3.2.2 hoàn thiện công tác thị trường
3.2.3 Đảy mạnh xúc tiến thương mại
3.2.4 Tiến hành trao đỏi bảo hộ hàng hóa nước ngoài tại Việt Nam và bảo hộ hàng hóa Việt Nam tại nước ngoài
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2099 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bảo vệ nhãn hiệu hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng, qua đó nó cũng khẳng định uy tín và đẳng cấp của hãng sản xuất trên thị trường. Sở dĩ như vậy là do nhãn hiệu mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng và doanh nghiệp. ích lợi mà nó cung cấp càng nhiều thì nhãn hiệu đó càng mạnh.
Lợi ích của nhãn hiệu đói với người tiêu dùng
Lợi ích đầu tiên mà nhãn hiệu cung cấp cho người tiêu dùng là sự nhận biết. Thông qua nhãn hiệu người tiêu dùng biết sản phẩm đó là gì, công ty nào sản xuất. Ví dụ khi nói đến nhãn hiệu Hải Châu người tiêu dùng sẽ nhận biết được đó là bánh kẹo do công ty Hải châu sản xuất, hay khi thấy biểu tượng chữ M cách điệu khách hàng nhận biết được đó là sản phẩm của công ty Vinamilk.
Thứ hai, nhãn hiệu mang lại tính thực tiễn mang lại lòng tin cho người tiêu dùng.
Thứ ba, nhãn hiệu mang lại sự bảo đảm. Mỗi nhãn hiệu thường tạo được uy tín riêng trong nhận thức của người tiêu dùng, uy tín càng cao thì sự đảm bảo càng lớn. Uy tín đó được xây dựng từ chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng.
Thứ tư, nhãn hiệu đem lại nhận xét lạc quan. Thông qua nhãn hiệu sản phẩm khách hàng đa ra nhận xét lạc quan về sản phẩm và vị thế của hãng sản xuất trên thị trường.
Thứ năm, ngày nay con người ngày càng có xu hướng khẳng định bản thân và thể hiện cá tính riêng thông qua nhãn hiệu sản phẩm họ lựa chọn. Những nhà sản xuất đã nhanh chóng nắm bắt được ích lợi này và họ gắn cho sản phẩm của mình nhũng "cá tính " nổi trội. Trong thời đại công nghệ thông tin, hãng Honda đã tung ra sản phẩm @ - thể hiện sự sành điệu, nối mạng của người sử dụng. Hay là những người muốn khẳng định sự "sang trọng " của bản thân, họ sẽ lựa chọn xe Mercedes. Như vậy nhãn hiệu hàng hoá là thông điệp “cá tính hoá” người tiêu dùng.
Thứ sáu, nhãn hiệu đem lại tính liên tục trong tiêu dùng. Nếu khách hàng nhận thức một nhãn hiệu là tốt họ sẽ thích và tiếp tục lựa chọn.
Thứ bẩy, nhãn hiệu mang lại cảm giác thú vị, đặc biệt nếu nhãn hiệu đó có đẳng cấp càng cao.
Thứ tám, nhãn hiệu thể hiện đạo đức của khách hàng cũng như của doanh nghiệp.
b. Lợi ích của nhãn hiệu đối với doanh nghiệp
Nhãn hiệu hàng hoá mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp
Trước hết, với những nhãn hiệu đã dăng ký được sự bảo hộ của pháp luật. Một nhãn hiệu khi đã đăng ký bản quyền được gọi là thương hiệu (Trade mark) - trở thành một tài sản của doanh nghiệp và được pháp luật bảo hộ quyền sử dụng.
Thứ 2: Khẳng định đẳng cấp sản phẩm của doanh nghiệp.
Đẳng cấp sản phẩm của doanh nghiệp phản ánh chất lượng sản phẩm và uy tín khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có đẳng cấp cao là những doanh nghiệp có nhãn hiệu hàng hoá mạnh và nhãn hiệu đó là sự lựa chọn hàng đầu của khách hàng trong quyết định lựa chọn sản phẩm cùng loại.
Thứ 3: Nhãn hiệu có tác dụng phân đoạn thị trường. Để làm rõ lợi ích này tôi xin đưa ra bảng định vị hình ảnh nhãn hiệu theo thu nhập của 2 hãng Kimberly clark và Diatco
Nhóm thu nhập thấp
Nhãn hiệu B
Freedom(Kimberly)
Libera ( diatco)
Chú trọng đến lợi ích cơ bản của sản phẩm
ít quan tâm đến giá trị về hình ảnh nhãn hiệu
Chấp nhận mức giá thấp nhạy cảm về sự biến thiên giá
Nhóm thu nhập tr trung bình
Nhãn hiệu A2
Kotex Softina (Kimberly)
Dianna siêu thấm(Diatco)
Quan tâm đến lợi ích căn bản và có những nhu cầu đa dạng hơn nhưng hợp túi tiền
Chấp nhận những nhãn hiệu được đa số chấp nhận, quan tâm đến hình ảnh nhãn hiệu
Chấp nhận nửa giá hợp lý
Nhóm thu nhập cao
Nhãn hiệu A1
Kotex White (Kimberly)
Diana M (Diatco)
Nhu cầu chất lượng sản phẩm khắt khe và đa dạng hơn
Chú trọng những nhãn hiệu có hình ảnh cao cấp hơn, thể hiện hợp cá tính
Sẵn sàng chấp nhận mức giá cao
.
Thứ 4 : Giá trị nhãn hiệu là nguồn củng cố sức cạnh tranh.Nhãn hiệu là tài sản của doanh nghiệp do nó tạo ra dòng tiền tăng thêm cho sản phẩm qua khả năng phân biệt uy tín trên thị trường.Một doanh nghiệp có nhãn hiệu mạnh có thể được đánh giá giá trị tăng thêm ttrên thị trướng cao gấp nhiều lần giá trị thưc của nó. Đơn cử một ví dụ Nestle đã trả 2.5 tỷ france cho nhãn hiệu Rowntree. Như vậy, giá trị thương hiệu là nguồn củng cố, tăng thêm sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Thứ 5: Doanh nghiệp có thể kinh doanh nhãn hiệu thương hiệu hay chuyển nhượng nhãn hiệu cho doanh nghiệp khác cùng khai thác.
Theo điều 796 của bộ luật dân sự, ngoài việc được độc quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, chủ nhãn hiệu còn có quyền chuyển giao quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu nhãn hiệu của mình cho người khác.
Chuyển giao quyền sử dụng (hay còn gọi là mua bán) nhãn hiệu hàng hoá là việc bên giao (chủ nhãn hiệu) cho phép bên nhân (1 doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng nhãn hiệu) quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ nhãn hiệu hàng hoá của mình để lấy một khoản tiền nhất định. Theo quy định của nghị định 63-CP ngày 24/10/1996 đã được sửa đổi tại nghị định 06 ngày 1/2/2001 thì việc chuyển giao quyền sử dụng NHHH phải được thực hiện thông qua hợp đồng bằng văn bản và phải đăng ký tại cục sở hữu cộng nghiệp. Trong suốt thời hạn của hợp đồng Li xăng bên nhận được quyền sử dụng nhãn hiệu của bên giao trong phạm vi và điều kiện quy định trong hợp đồng Li xăng.
Thương hiệu có thể tham gia vào quá trình hợp tác, liên doanh như một nguồn vốn đóng góp. Nhãn hiệu là một tài sản quan trọng trong sản nghiệp của doanh nhân: ví dụ nhãn hiệu Coca-cola được định giá là 5 tỷ USD (năm 1980). Do vậy, những nhãn hiệu mạnh có thể cho thuê hoặc nhượng quyền sử dụng hay được coi như một nguồn vốn đóng góp khi doanh nghiệp tham gia vào hợp tác, liên doanh… qua đó mang lại giá trị tăng thêm cho doanh nghiệp.
Thứ 7: Hạn chế rủi ro và một số ích lợi khác.
1.3. Điều kiện cần thiết để bảo vệ nhãn hiệu hàng hoá-NHHH
Qua những lợi ích mà thương hiệu mang lại cho doanh nghiệp thì phát triển tài sản thương hiệu là vấn đề trung tâm của doanh nghiệp, nó là nhân tố cơ bản quyết định đến giá trị thị trường của doanh nghiệp. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam phải nhận thức được đầy đủ giá trị của thương hiệu trong kinh doanh, coi các quyết định về thương hiệu là những quyết định chiến lược quan trọng trên thị trường, từ đó không thể không coi bảo vệ thương hiệu hàng hoá là nhiệm vụ hàng đầu của doanh nghiệp. Muốn vậy doanh nghiệp cần phải đảm bảo tốt các điều kiện sau đây:
1.3.1. Làm tốt công tác ghi nhãn hàng hóa. Việc ghi nhãn hàng hoá với đầy đủ các nội dung quy định đem lại nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giới thiệu được hàng mình bán, đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của người mua, đẩy mạnh xúc tiến thương mại. Làm tốt công tác này là phù hợp với hội nhập kinh tế – thương mại thế giới, có thể xem đây là một hang rào kỹ thuật để bảo vệ sản xuất trong nước, đồng thời nó còn có tác dụng chống hàng giả cũng như thúc đẩy doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ và phương thức quản lý để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá.
1.3.2. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá.
Chính phủ đã ban hành nghị định 63/CP về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trong đó có quyết định về bảo hộ nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp của hàng hoá. Các nhãn hiệu được đăng ký sẽ được Nhà nước Việt Nam bảo hộ. Điều này đặc biệt quan trọng với những nhãn hiệu đã có tiếng trên thị trường. Những nhãn hiệu có uy tín nếu không được đăng ký bản quyền đương nhiên sẽ là đối tượng để các công ty cạnh tranh không lành mạnh khác chiếm đoạt. Trong trường hợp đó, tất nhiên doanh nghiệp sẽ mất quyền sử dụng nhãn hiệu và phải đấu tranh để đòi lại gây nhiều tổn thất về thời gian, tiền của và uy tín. Trường hợp của thương hiệu Trung Nguyên là một ví dụ.
1.3.3. Nhanh chóng cập nhật được thông tin, sử dụng các kênh truyền thông để quảng bá thương hiệu hàng hóa
Khi đã làm tốt công tác ghi nhãn mác hàng hóa và đăng ký bảo hộ nhãn hiẹu hàng hóa thì cần phải sử dụng các kênh truyền thông để quảng bá thương hiệu hàng hóa đó, đưa thương hiệu đó trở nên gần gũi hơn đối với người tiêu dùng. Nhanh chóng cập nhật được thông tin thị trường để kịp thời có những biện pháp phát triển thị trường, phát triển sản phẩm và đặc biệt là ngăn chặn việc làm giả sản phẩm của doanh nghiệp .
1.3.4. Các thương hiệu cần phải đạt được đầu tư, duy trì qua thời gian trên thị trường
“Thương hiệu không phải là một phép lạ được tạo ra trong một đêm, nó cần có tính nhất quán, hiện định và độ chín tính theo thập niên.” (Nguyên tắc 9 trong 22 nguyên tắc bất biến về xây dựng thương hiệu: AL Ries) Trong quá trình khai thác nhãn hiệu cần có kế hoạch đàu tư ,phát triển thương hiệu đưa chiến lược thương hiệu trở thành một trong những chiến lược dài hạn của mình.Một thương hiệu được đầu tư, phát triển lâu dài sẽ tạo ra uy tín cao trên thị trường, góp phần vào tự bảo vệ mình khi có tranh chấp.
Phần 2. Vấn đề bảo vệ nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam.
2.1. Đánh giá chung về nhãn hiệu hàng hoá Việt Nam
Bảo về nhãn hiệu hàng hoá đang là một vấn đề ưu tiên hàng đầu trong các doanh nghiệp hiện nay. Đã có nhiều văn bản của chính phủ về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung và nhãn hiệu nói riêng. Bao gồm:
Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 của chính phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp.
Nghị định 06/2001/NĐ-CP ngày 1/2/2001 của chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 63/CP.
Thông tư số 3055-TT/SHCN ngày 31/12/1996 của bộ khoa học Công nghệ và Môi trường hướng dẫn thi hành các quy định về thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp và một số thủ tục khác trong nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 của chính phủ.
Các văn bản khác liên quan đến việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp, đặc biệt là đối với nhãn hiệu hàng hoá. (Nghị định 01/2002/NĐCP và 01/CP (ngày 3/1/1996) về xử phạt hành chính trong lĩnh vực thương mại chưa có chế tài xử lý trường hợp nhãn sách, nhãn ị mờ không do lỗi cố ý của người sản xuất, kinh doanh do lỗi của bốc dỡ vận chuyển gây ra, hoặc với trường hợp ghi nội dung bắt buộc che khuất hoặc hiểu sai lệch nội dung bắt buộc trên nhãn)
Một số doanh nghiệp Việt Nam đã xây dựng được những thương hiệu uy tín, góp phần nâng cao đẳng cấp doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Đó là những doanh nghiệp tiên phong đưa hàng Việt Nam thương hiệu Việt Nam ra nước ngoài tính từ khi “mở cửa”. Từ năm 1989-1990, sản phẩm T-shirt, Polo-shirt của dệt nay thành công đã sang Nhật, Châu Âu. Ngay sau khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận Việt Nam vào đầu 1994 thì năm 1995, vỏ xe công nghiệp của Casumina, giày dép Biti’s và quần áo dệt may Thành Công đã vào thị trường này. Còn Vinamilk, Viso, Daso, Bita’s là những doanh nghiệp đưa hàng vào thị trường Trung Đông. Gần đây, bánh kẹo của Kinh Đô cũng thông qua đối tác truyền thông của mình là Đài Loan để sang thị trường Mỹ. Những thương hiệu, doanh nghiệp đó đã góp phần khá lớn trong tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Thử điểm qua vài con số đã thực hiện trong năm 2001: dẫn đầu là Vinamilk với giá trị xuất khẩu đạt 143 triệu Đôla Mỹ, Vifon: 10,36 triêu USD, Cầu tre: 14 triệu USD, Công ty dệt may Thành Công 11 triệu USD, May Việt Tiến 20 triệu USD(1)… Để đạt được những thành quả như vậy chứng tỏ doanh nghiệp phải có được thương hiệu uy tín đảm bảo được chất lượng, trình độ tổ chức, đó phải là một thương hiệu mạnh.
Bên cạnh những thành tựu như vậy, vấn đề thương hiệu ở Việt Nam còn rất nhiều bức xúc. Theo ông Nguyễn Bảo, phó cục trưởng cục xúc tiến thương mại thuộc bộ Thương mại cho rằng có nhiều hàng hóa của Việt Nam như may mặc, giày dép, nông sản xuất khẩu ra thị trường thế giới mà chưa có thương hiệu của riêng mình làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường. Ông cho rằng phần lớn các nhà sản xuất có khuynh hướng xuất khẩu, kể cả doanh nghiệp vừa và nhỏ đề bắt đầu nhận thức về vấn đề này, tuy nhiên từ nhận thức đến hành động vẫn còn một khoảng cách khá xa.
2.2 Thực trạng về bảo vệ nhãn hiệu Việt Nam:
Trong mấy năm gần đây, thương hiệu đã trở thành một vấn đề bức xúc, hàng loạt doanh nghiệp bị đánh cắp nhãn hiệu, là bánh phồng tôm Sa Giang, Bia Sài Gòn, Miss Sài Gòn, Vĩnh Hảo, cà phê Trung Nguyên, Petrol Việt Nam, Nước mắm Phú Quốc, kẹo dừa Bến Tre, thuốc lá Vinataba… tình trạng mất thương hiệu đang trở thành một vấn đề đáng báo động. Cục sở hữu Công nghiệp là cơ quan trực tiếp quản lý việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại Việt Nam cho biết số đơn đăng ký thương hiệu Việt Nam ra nước ngoài còn ít (hiện có 168 hồ sơ đăng ký) là do các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa thực sự làm quen và vẫn còn thụ động với việc đăng ký thương hiệu và xây dựng hình ảnh doanh nghiệp.
Nhà kinh tế Kevin-Lane Keller đã viết: “Càng ngày các doanh nghiệp càng nhận thấy rằng một trong những tài sản quý giá nhất của họ chính là thương hiệu”. Trên thực tế, mặc dù hàng Việt Nam, đặc biệt là nông sản, đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới nhưng người tiêu dùng vẫn chưa biết đấy là hàng hoá có xuất xứ từ Việt Nam. Một trong những nguyên nhân đó là thiếu tên thương hiệu. Trong khi đó, nước xuất khẩu nông sản cạnh tranh với Việt Nam như Thái Lan lại đặc biệt quan tâm đến vấn đề này. Gạo của Thái Lan được đóng gói vào nhưng bao nhỏ lại 5-10 kg có nhãn mác ghi đầy đủ nguồn gốc xuất xứ, tên gọi bằng tiếng Anh, tiếng Thái thậm chí cả tiếng Việt. Gạo của Thái Lan đã thâm nhập vào các kênh phân phối ở hệ thông siêu thị, các cửa hàng của Việt kiều, Hoa kiều tài nhiều nước trên thế giới. Trong khi đó một số sản phầm tên tuổi của Việt Nam lại đang có nguy cơ bị xâm hại thương hiệu nghiêm trọng trên thị trường thế giới.
Sau đây là một số trường hợp được đánh giá lá điển hình về tranh chấp thương hiệu
Trường hợp cà phê Trung Nguyên. Thương hiệu này đã có hồ sơ của Rice Field Crop đăng ký nhãn hiệu cà phê hàng đầu Buôn Mê Thuột Trung Nguyên (bằng tiếng Việt) vào tháng 11/2000, trong khi đó tháng 8/2001 mới có hồ sơ của chính Trung Nguyên đăng ký nhãn hiệu “ Trung Nguyên- nguồn cảm hứng sáng tạo mới”.
Trường hợp của Petro Vietnam : tranh chấp do NGUYENLAI Corp đăng ký nhãn hiệu giống Petro Vietnam cả về hình thức .Ban lãnh đạo Petro Vietnam đã đưa ra 3 cách giải quyết:
_ Cách 1 :Nguyenlai tự động hủy thương hiệu vì họ phải chứng minh dược thương hiệu này đã được chình họ sử dụng
_ Cách 2 : Tranh tụng và thuê luật sư trong nước, trường hợp này gặp phải khó khăn là hành lang pháp lý của nước ngoài mặc dù các luật sư trong nước được đánh giá là có đủ khả năng giải quyết.
_ Cách 3 : Tranh tụng và thuê luật sư tại Mỹ , trường hợp này chắc chắn nhất nhưng tốn kém
Hay trường hợp của nước mắm Phú Quốc: tuy hiện nay thương hiệu Phú Quốc đang được bảo hộ tại Việt Nam nhưng trên thực tế rất nhiều nhà sản xuất khác vẫn sử dụng nhãn hiệu này cho các sản phẩm của họ. ở nước ngoài, tình hình còn nghiêm trọng hơn vì trong các siêu thị, đa số nước mắm mang nhãn hiệu Phú Quốc được sản xuất tại Thái Lan. Nước mắm Phú Quốc là một đặc sản của Việt Nam nhưng thương hiệu nước mắm Phú Quốc lài do công ty Kim Seng tại California đăng ký từ tháng 2/1998.
Trong vài thập niên gần đây việc mua bán quyện sử dụng nhãn hiệu hàng hoá đã đem lại những khoản tiền tệ to lớn cho cả người bán lẫn người mua. Vì vậy, hoạt động mua bán này ngày càng phát triển. Nhưng trên thực tế đã xảy ra một số thương hiệu doanh nghiệp ký hợp đồng Li xăng mua quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá của nước ngoài trong khi nhãn hiệu hàng hoá đó chưa được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam.
Trên đây là những thương hiệu Việt Nam do chậm trễ chưa đăng ký nên đã bị các công ty nước ngoài chiếm đoạt. Còn vấn đề thương hiệu trong nước thì sao? Trường hợp thương hiệu NMC “bị cầm nhầm” sau đây là một minh chứng.
Công ty TNHH sản xuất cơ khí và cấu trục có tên giao dịch bằng tiếng Anh là Nippon Mechancs & Crane Co.Ltd (viết tắt là NMC). Nhiều doanh nghiệp đã công nhận NMC là một thương hiệu rất đáng tin cậy vì các sản phẩm xuất xưởng đều đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng của Nhật như JFSC9620, JISB8801 tiêu chuẩn châu Âu FEM9341 & các yêu cầu khác của khách hàng. Nhưng từ tháng 11/2001 công ty TNHH thiết bị công nghiệp Nagoya, tiếng Anh là Nagoya Machanery Co.Ltd cũng lấy NMC làm tên gọi giao dịch & đã không chỉ gây nhầm lẫn cho các đối tác, các khách hàng mà còn thực sự gây thiệt hại cho MNC về uy tín và kinh tế (do khách hàng của công ty TNHH sản xuất cơ khí và cấu trục ký “nhầm” hợp đồng với công ty TNHH thiết bị công nghiệp Nagoya vì trùng tên giao dịch NMC).
Ngoài tình trạng thương hiệu bị đánh cắp hay “cầm nhầm” hiện tượng hàng giả tràn lan cũng đang làm đau đầu các cơ quan quản lý thị trường. Một thương hiệu trở nên nổi tiếng chính là vì bản chất bên trong của nó có nghĩa là việc đạt được những thông tin ghi trên nhãn hàng đã khiến sản phẩm đó nổi tiếng. Hàng giả thường kém hơn hàng thật về chất lượng, việc làm hàng giả nhiều khi tinh vi đến mức giống hệt như hàng thật nhãn hiệu (thương hiệu) cũng được in giống như hàng thật đã khiến cho bảo vệ thương hiệu trở nên khó khăn.
2.3. Những nguyên nhân chính cản trở bảo vệ nhãn hiệu thương hiệu
Trước hết, nguyên nhân chính cản trở bảo vệ nhãn hiệu- thương hiệu là do chính bản thân các doanh nghiệp. Muốn bảo vệ được nhãn hiệu của mình các doanh nghiệp cần phải coi trọng hơn nữa vấn đề xây dựng và bảo vệ thương hiệu, coi đăng ký thương hiệu như một trong những biện pháp quan trong nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Một số các doanh nghiệp khi đã xây dựng được thương hiệu lại không tiếp tục củng cố, nâng cao uy tín và đẳng cấp thương hiệu đó, bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nghĩa là phải bảo hộ cả hình thức và nội dung sản phẩm.Còn có những doanh nghiệp do chạy theo tiền mà lơ là việc nâng cao chất lượng mẫu mã, hoàn thiện sản phẩm thậm chí còn làm giả sản phẩm của chính mình làm suy giảm uy tín, giá trị thương hiệu của doanh nghiệp.
Khi đã được xây dựng một thương hiệu cần phải quảng cáo để tồn tại. Nhưng do chi phí quảng cáo cao hay một số nguyên nhân khác mà thương hiệu sản phẩm chưa được quảng cáo rộng rãi, mở rộng thị trường. Bên cạnh đó trước khi xuất khẩu vào thị trường mới doanh nghiệp chưa thực sự nắm vững luật pháp nước ngoài, đăng ký bảo hộ thương hiệu – nhãn hiệu hàng hóa của mình trước khi xuất khẩu hàng hoá sang nước đó.
Một số nguyên nhân khác cản trở bảo vệ thương hiệu hàng hoá của doanh nghiệp như: bất cập trung chuyển nhượng thương hiệu đánh mất tên gọi xuất xứ của sản phẩm hay việc cam kết trao đổi quyền và trách nhiệm bảo hộ sản phẩm giữa các quốc gia còn nhiều thiếu sót.
Bên cạnh các nguyên nhân về phía doanh nghiệp, việc cản trở bảo vệ thương hiệu cũng xuất phát từ phía Nhà nước.
Hệ thống văn bản về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung và bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nói riêng còn chưa đầy đủ, chồng chéo. Bản thân các cơ quan có trách nhiệm còn mắc nhiều sai lầm gây “nhầm lẫn” thương hiệu dẫn đến uy tín và gây tốn kém tài chính cho một số doanh nghiệp.
Một nguyên nhân khác là do thủ tục đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá còn rườm rà phức tạp, thời gian xét duyệt hồ sơ kéo dài. Công tác thị trường chưa được hoàn thiện, việc phát hiện, xử lý và khắc phục hiện tượng hàng nhái, hàng giả còn chậm trễ và có nhiều yếu kém.
Công tác trợ giúp hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm thông tin thị trường, tiếp cận thị trường, hỗ trợ cho các hoạt động của doanh nghiệp về quảng bá và bảo vệ thương hiệu hàng hoá của doanh nghiệp ra thị trường thế giới cần phải được thúc đẩy mạnh hơn nữa.
Phần 3. Giải pháp nhằm tăng cường bảo vệ nhãn hiệu hàng hoá của doanh nghiệp
3.1. Các giải pháp về phía doanh nghiệp
Nhãn hiệu được định nghĩa như là tên gọi, biểu tượng, dấu hiệu, hình thức thiết kế hoặc sự phối hợp các yếu tố này nhằm xác nhận sản phẩm của một nhà cung cấp cụ thể và để phân biệt chúng với những sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Nhãn hiệu nằm ở trái tim của chiến lược kinh doanh và chiến lược Marketing. Nếu hàng hóa của doanh nghiệp được nhận thức giống như của các đối thủ cạnh tranh thì người tiêu dùng sẽ không phân biệt được và họ sẽ chọn loại rẻ nhất và dễ kiếm nhất để mua. Khi đó các doanh nghiệp bắt buộc phải cạnh tranh về giá và sẽ làm suy giảm tiền của họ. Nhưng nếu khách hàng nhận thức một nhãn hiệu là tốt, được đảm bảo cả nội dung và hình thức họ sẽ chấp nhận nó cho dù mức giá cao hơn. Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam phải nhận thức được đầy đủ giá trị của nhãn hiệu trong kinh doanh, coi làm tốt việc xây dựng nhãn hiệu là biện pháp đầu tiện nhằm tăng cường bảo vệ nhãn hiệu hàng hóa của doanh nghiệp.
3.1.1. Xây dựng nhãn hiệu hàng hoá thành công trên thị trường
Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải làm gì để xây dựng được nhãn hiệu mạnh thành công trên thị trường?- Đó là một tập hợp các chiến lược và biện pháp marketing hiệu quả của doanh nghiệp bao gồm:
Chiến lược sản phẩm của doanh nghiệp. Để xây dựng nhãn hiệu thành công, trước hết phả bắt đầu với sản phẩm có chất lượng đáp ứng được nhu cầu và mong muốn của khách hàng. Xã hội ngày càng phát triển, mức sống nhân dân ngày càng cao và nhu cầu con người ngày càng đa dạng phong phú, một sản phẩm chỉ tồn tại và phát triển trên thị trường khi nó tốt hơn sản phẩm của đối thủ cạnh tranh và phải được nâng cấp thường xuyên. Khi “nội dung” của nhãn hiệu được “bảo chứng” người tiêu dùng sẽ có ấn tượng tốt về sản phẩm của doanh nghiệp:
Chiến lược nhãn hiệu. Doanh nghiệp cần phải xác định nhãn hiệu cho sản phẩm của mình đồng thời làm tốt công tác ghi nhãn mà hàng hóa đảm bảo thể hiện được đầy đủ các thông tin như tên sản phẩm, thành phần, ngày sản xuất, hạn sử dụng. Trong chiến lược này doanh nghiệp cần phải xem xét chiến lược định vị một hay nhiều nhãn hiệu cho cùng một loại sản phẩm (chiến lược đa nhãn hiệu) dựa trên phân tích xu hướng và nhu cầu của khách hàng.Tôi xin nêu 3 lý do buộc một số doanh nghiệp phải xây dựng từ 2 thương hiệu trở nên:
- Đáp ứng nhu cầu nhiều tầng lớp tiêu dùng. Một số doanh nghiệp đưa ra nhiều dòng sản phẩm dựa vào thu nhập của nhiều tầng lớp dân cư khác nhau, đi theo mỗi dòng sản phẩm là một tên gọi. Ví dụ hãng xe hơi Toyota: loại xe Corolla, Corona dành cho người thu nhập thấp; loại xe Camry dành cho người trung lưu và người giàu thì có loại xe Crown sang trọng. Hãng Honda cũng vậy từ bình dân đến cao cấp có Wave Anpha, Super Dream, Future…Có khi ngay trong một dòng sản phẩm cũng có nhiều nhãn hiệu cũng với mục đích dựa vào mức thu nhập của người tiêu dùng.
- Đánh vào tâm lý tiêu dùng. Nhằm vào đối tượng chủ yếu là thanh niên và người tiêu dùng thu nhập cao các doanh nghiệp đưa ra những sản phẩm nâng cao giá trị bản thân cá tính hoá người sử dụng
- Nhấn mạnh tính năng mới nổi trội của sản phẩm: trong một dòng sản phẩm nhiều doanh nghiệp sử dụng nhiều nhãn hiệu, mỗi nhãn hiệu đặc trưng cho một đặc tính nổi trội của sản phẩm : Hàng LG ở Việt Nam vừa tung ra 3 dòng sản phẩm máy giặt với tên Ecosave (kinh tế, tiết kiệm), Intel Washer (giặt thông minh – lập trương trình giặt) và Turbo Drum (động cơ khoẻ).
Từ 3 lý do trên và còn nhiều lý do khác buộc doanh nghiệp phải xây dựng nhiều thương hiệu cho mỗi dòng sản phẩm, hoặc nhiều thương hiệu con cho một dòng sản phẩm nhưng không có nghĩa là những thương hiệu này sẽ nuốt mất thị phần của thương hiệu gốc. Nhưng ngược lại có nhiều doanh nghiệp sản xuất ra hàng chục thậm chí hàng trăm dòng sản phẩm nhưng chỉ có một thương hiệu như khoá Việt Tiệp, áo sơ mi Việt Tiến, Lioa mà cá doanh nghiệp này vẫn làm ăn rất phát đạt, uy tín thương hiệu khá cao. Việc áp dụng một hay nhiều nhãn hiệu sẽ giúp doanh nghiệp khai thác tối đa cơ hội kinh doanh và cơ hội tạo lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ. Khi đã xây dựng được nhãn hiệu các doanh nghiệp cần tìm cách tự bảo vệ thương hiệu, nhãn hiệu của mình bằng những cách riêng để tránh hàng giả, hàng nhái. Chẳng hạn như có những ký hiệu bí mật của mình trên nhãn hàng, sử dụng chất hoá học để đánh dấu nhãn mác…
3.1.2. Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu - thương hiệu
Việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá là không bắt buộc nên nhiều doanh nghiệp đã coi nhẹ công tác này dẫn đến những tranh chấp làm hao tổn nhiều thời gian và tiền của. Đặc biệt là những doanh nghiệp không đăng ký bảo hộ thương hiệu để doanh nghiệp khác, doanh nghiệp khác mua rồi bằng nhiều cách chiếm đoạt thương hiệu đó. Do vây, khi nhãn hiệu sản phẩm hàng hoá đã có chỗ đứng trên thị trường, doanh nghiệp nhất thiết phải đăng ký bảo hộ nhãn hiệu. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá theo thoả ước Madrid về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá quốc tế có thể giúp thương nhân bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của mình cùng một lúc. Tất cả các nước tham gia vào thoả ước này, đồng thời tiết kiệm hơn cho thương nhân về chi phí và thời gian. Việc đăng ký bảo hộ nên tiến hành trước khi xuất khẩu hàng hoá sang nước đó. Đặc biệt là sang các khu vực thị trường như Hoa Kỳ, BV, Nhật Bản, ASEAN và Trung Quốc. Cần chú ý rằng: Một nhãn hiệu sau khi đăng ký có hiệu lực trong 10 năm và sau đó cứ 10 năm gia hạn lại. Một nhãn hiệu sau 3 năm không sử dụng mà không có lý do chính đáng có thể bị thu hồi giấy đăng ký. Các doanh nghiệp phải kịp thời xin gia hạn bảo hộ nhãn hiệu tránh rơi vào tình trạng hết hiệu lực bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của mình.Mặt khác doanh nghiệp cần chủ động hơn trong bảo vệ thương hiệu bằng cách giao kết với các công ty đại diện SHCN như Công ty Investip , công ty Rang Co Ich, công ty cổ phần phát triển công nghệ (Deteck) để tiến hành theo dõi, phát hiện và tố cáo các hành vi vi phạm quyền SHCN. Đây l
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100114.doc