Đề tài Bất bình đẳng tại Việt Nam từ năm 1993 đến nay

PHỤ LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

Chương I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ BẤT BÌNH ĐẲNG 2

1.1. Bất bình đẳng trong phát triển kinh tế 2

1.2. Bất bình đẳng thu nhập 3

1.2.1. Khái niệm, nội hàm 3

1.2.2. Thước đo bất bình đẳng thu nhập 3

1.3. Bất bình đẳng giới 4

1.3.1. Khái niệm, nội hàm 4

1.3.2. Thước đo bất bình đẳng 4

Chương II : BẤT BÌNH ĐẲNG Ở VIỆT NAM 5

2.1. Bộ số liệu sử dụng và phương pháp đánh giá 5

2.2. Bất bình đẳng thu nhập 5

2.2.1. Thực trạng bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam 5

2.1.2. Nguyên nhân 17

2.2. Bất bình đẳng giới 18

2.2.1.Thực trạng bất bình đẳng giới 18

2.2.2. Nguyên nhân 22

2.4. Đánh giá chung về BBĐ ở VN thời gian qua 23

Chương III: ĐÁNH GIÁ BẤT BÌNH ĐẲNG THEO MỤC TIÊU ĐỀ RA TRONG MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN CỦA VIỆT NAM 24

3.1. Mục tiêu mô hình phát triển toàn diện của Việt Nam 24

3.2. Đánh giá bất bình đẳng theo mô hình phát triển của Việt Nam 25

KẾT LUẬN 28

TÀI LIỆU THAM KHẢO 29

 

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2177 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bất bình đẳng tại Việt Nam từ năm 1993 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấp an sinh xã hội (4)    Thu nhập ròng sau khi trừ đóng góp bảo hiểm xã hội và thuế trực tiếp (5)    Thu nhập ròng sau đóng góp bảo hiểm xã hội, thuế trực tiếp và phí bất buộc về giáo dục - y tế (6)    Thu nhập ròng sau đóng góp bảo hiểm xã hội, thuế trực tiếp và chi phí bắt buộc và tự nguyện  về giáo dục - y tế (7)    Thu nhập ròng sau đóng góp bảo hiểm xã hội, thuế trực tiếp, chi phí bất buộc và tự nguyện về giáo dục - y tế và tiền gửi cho thân nhân Bảng 7: Tái phân phối thu nhập, an sinh xã hội và chuyển khoản khác (Ngàn đồng/người/năm) (1) (2) (3) (4) (5) Nhóm 20% nghèo nhất 1900 2100 2100 1900 1800 Nhóm 20% thứ hai 3200 3400 3300 3100 3000 Nhóm 20% thứ ba 4600 4900 4800 4500 4300 Nhóm 20% thứ tư 6900 7200 7100 6700 6400 Nhóm 20% giàu nhất 15400 15800 15400 14900 14300 (1)   Tổng thu nhập trước an sinh xã hội (2)   Tổng thu nhấp cuối cùng, gồm cả  an sinh xã hội (3)   Thu nhập ròng sau khi trừ đóng góp bảo hiểm xã hội và thuế trực tiếp (4)   Thu nhập ròng sau đóng góp bảo hiểm xã hội, thuế trực tiếp và phí bắt  buộc về giáo duc - y tế (5)   Thu nhập ròng sau đóng góp bảo hiểm xã hội, thuế trực tiếp và các chi phí bắt buộc và tự nguyên về giáo dục - y tế.  Bởi các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội, thuế trực tiếp, chi phí giáo dục - y tế đều mang tính luỹ tiến, cho nên kết quả cuối cùng “ít lũy thoái hơn”. Đối với nhóm 20% người nghèo nhất, phí bắt buộc về giáo dục - y tế vô hiệu quả hoàn toàn trợ cấp an sinh xã hội mà nhóm này nhận được; còn chi phí  giáo dục - y tế gọi là “tự nguyện” - nhưng thật ra hầu như bắt buộc - thì làm cho thu nhập của nhóm này giảm 5% dưới mức thu nhập ban đầu (trước trợ cấp an sinh xã hội). Mức giảm thu nhập của các nhóm khác từ 6 đến 7%: tính “lũy tiến”, nếu có, là ở chênh lệch 1-2% giảm này. Theo kết quả tổng hợp số liệu điều tra, thu nhập của những hộ nghèo và hộ giàu đều tăng, và  tốc độ tăng của hộ giàu nhanh hơn hộ nghèo. Tính chung trong 3 năm (1996 -1999) tốc độ tăng thu nhập hàng năm của hộ nghèo là 7,2%, hộ giàu là 14,5% (chưa loại trừ trượt giá). Bởi vậy khoảng cách chênh lệch giàu nghèo ngày càng có xu hướng doãng ra. Để thấy rõ vấn đề trên, với cách phân chia số hộ điều tra thành 5 nhóm thu nhập từ thấp đến cao với số hộ bằng nhau thì mức độ chênh giữa nhóm giàu (nhóm 5) với nhóm nghèo (nhóm 1) ở từng khu vực, từng vùng cụ thể như sau: Bảng 8: Mức độ chênh giữa nhóm 5 và nhóm 1 ở từng khu vực, từng vùng qua các năm Nguồn: TCTK, Điều tra mức sống dân cư 1999 Đơn vị tính: lần 1994 1995 1996 1999 CẢ NƯỚC 6,5 7,0 7,3 8,9 1. Chia theo khu vực - Thành thị 7,0 7,7 8,0 9,8 - Nông thôn 5,4 5,8 6,1 6,3 2. Chia theo vùng - Tây Bắc và Đông Bắc 5,2 5,7 6,1 6,8 - Đồng bằng sông Hồng 5,6 6,1 6,6 7,0 - Bắc Trung Bộ 5,2 5,7 5,9 6,9 - Duyên hải Nam Trung Bộ 4,9 5,5 5,7 6,3 - Tây Nguyên 10,1 12,7 12,8 12,9 - Đông Nam Bộ 7,4 7,6 7,9 10,3 - Đồng bằng sông Cửu Long 6,1 6,4 6,4 7,9     Như vậy số liệu trên cho thấy hệ số chênh lệch giữa nhóm giàu và nhóm nghèo năm 1999 đều tăng; so với năm 1996, tính chung cả nước tăng 1,6 lần; thành thị tăng 1,8 lần, nông thôn tăng 0,2 lần; các vùng đều tăng trong đó tăng nhanh là vùng Đông Nam Bộ 2,4 lần, Đồng bằng sông Cửu Long 1,5 lần,  tăng thấp nhất là vùng Đồng bằng sông Hồng 0,4 lần. Đáng chú ý là vùng Tây Nguyên từ năm 1995 đến năm 1999 mức chênh lệch giữa nhóm giàu và nhóm nghèo mỗi năm tăng không đáng kể (0,1 lần); nguyên nhân chủ yếu do cà phê sụt giá liên tiếp, kéo theo thu nhập của hộ nông dân bị ảnh hưởng. Để nghiên cứu sâu hơn mức độ chênh lệch thu nhập trong các hộ dân cư có thể tiến hành phân tổ số hộ điều tra theo nhóm hộ bằng nhau với tỷ lệ nhỏ hơn mức nêu trên gồm 10%; 5%; 2% số hộ giàu và số hộ nghèo để so sánh, cụ thể như sau: So sánh 10% số hộ có mức thu nhập cao nhất với 10% số hộ có mức thu nhập thấp nhất thì hệ số chênh lệch cao hơn so với 20% số hộ nêu trên: năm 1996: 10,6 lần; 1999: 12 lần; vùng có mức chênh lệch lớn hơn  vùng khác là Tây Nguyên 1996: 13,2 lần; 1999: 15,1 lần;  Đông Nam Bộ 1996: 11,8 lần; 1999: 13,4 lần, Đồng bằng sông Cửu Long 1996: 9,2 lần; 1999: 10,4 lần. So sánh 5% số hộ có mức thu nhập cao nhất với 5% số hộ có mức thu nhập thấp nhất thì hệ số chênh lệch cao hơn so với 10% số hộ nêu trên năm 1996: 15,1 lần; 1999: 17,1 lần; vùng có mức chênh lệch lớn là Đông Nam Bộ 1996: 18,9 lần; 1999: 21,3 lần; Tây Nguyên 1996: 17,4 lần; 1999: 18,5 lần, Đồng bằng sông Cửu Long 1996: 14,8 lần; 1999: 16,6 lần, Đồng bằng sông Hồng 1996: 10,9 lần; 1999: 13,1 lần. So sánh 2% số hộ có mức thu nhập cao nhất với 2% số hộ có mức thu nhập thấp nhất thì hệ số chênh lệch cao hơn so với 5% số hộ nêu trên: Năm 1996: 27,2 lần; 1999: 29,4lần; vùng có mức chênh lệch lớn là Tây Nguyên 1996: 37,8 lần; 1999: 39,3 lần, Đông Nam Bộ 1996: 34,6 lần; 1999: 37,2 lần, Đồng bằng sông Cửu Long 1996: 29,5 lần; 1999: 32,4 lần; Đồng bằng sông Hồng 1996: 18,8 lần; 1999: 21,1 lần . Căn cứ vào các chỉ số về bất bình đẳng cơ hội (giữa nhóm giàu và nhóm nghèo, giữa nông thôn và đô thị, giữa nam và nữ) trong những lĩnh vực (như thu nhập, tỉ lệ đói nghèo, chi tiêu công cộng cho y tế, tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh) đều cho thấy có sự chênh lệch giữa các nhóm xã hội khác nhau. Đặt trong sự so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới, bất bình đẳng về cơ hội của Việt Nam không ở mức vừa phải, mà thuộc loại cao hơn. Sự khác biệt này được thể hiện rõ trong sự so sánh giữa nông thôn – đô thị, giữa nhóm người Kinh/Hoa và các dân tộc thiểu số. Trong đó, khoảng cách chênh lệch tuyệt đối về mức sống giữa người dân tộc thiểu số với người Kinh/Hoa ngày càng mở rộng hơn so với khoảng cách chênh lệch tuyệt đối về mức sống giữa nông thôn và đô thị. Như vậy, ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra xu hướng dịch chuyển từ sự bất bình đẳng giữa nông thôn và đô thị (1993-1998) sang sự bất bình đẳng giữa người dân tộc thiểu số và người Kinh/Hoa (2004). Tức là vấn đề nghèo đói ở Việt Nam trong tương lai gần là vấn đề nghèo đói ở nông thôn miền núi và là nghèo đói của người dân tộc thiểu số. Có thể thấy, hai cách tiếp cận đã cho chúng ta hai bức tranh tương phản về bất bình đẳng tại Việt Nam. Giữa các vùng: tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực miền núi vẫn còn cao, gấp từ 1,7 đến 2 lần tỷ lệ hộ nghèo bình quân của cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong tổng số hộ nghèo của cả nước có chiều hướng tăng từ 21% năm 1992 lên 36% năm 2005. Tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng thấp kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, sơ khai. Ngoài ra, xuất hiện một số đối tượng nghèo mới ở những vùng đang đô thị hóa và nhóm lao động nhập cư vào đô thị, họ thường gặp nhiều khó khăn hơn và phải chấp nhận mức thu nhập thấp hơn lao động sở tại. Đây là những điều kiện cơ bản làm gia tăng yếu tố tái nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong tốc độ giảm nghèo giữa các vùng. Các vùng Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất, song đây cũng là những vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất. Sự gia tăng khoảng cách giàu - nghèo sẽ làm cho tình trạng nghèo tương đối trở nên gay gắt hơn, việc thực hiện các giải pháp để giảm nghèo sẽ càng khó khăn hơn. Bảng 9: Hệ số GINI theo thành thị nông thôn và vùng, 2002,2004 Nguồn:TCTK, Điều tra mức sống hộ gia đình 2006 2002 2004 Việt Nam 0,42 0,42 Thành thị 0,41 0,41 Nông thôn 0,36 0,37 Vùng Việt Nam ĐB sông Hồng 0,39 0,39 Đông Bắc Bộ 0,36 0,39 Tây Bắc Bộ 0,37 0,38 Bắc Trung Bộ 0,36 0,36 DH Nam Trung Bộ 0,35 0,37 Tây Nguyên 0,37 0,40 Đông Nam Bộ 0,42 0,43 ĐB sông Cửu Long 0,39 0,38 Bất bình đẳng thể hiện trong thu nhập, chi tiêu, tích lũy của hộ gia đình cụ thể như thế nào? Bảng 10: Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng (1999) Nguồn: TCTK, Điều tra mức sống hộ gia đình 1999 Năm 1996 (1000 đồng) Năm 1999 (1000 đồng) Tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1996-1999 (%) CẢ NƯỚC 226,7 295,0  8,78 1. Chia theo khu vực - Thành thị 509,4 832,5 16,37 - Nông thôn 187,9 225,0  6,01 2. Chia theo vùng - Tây Bắc và Đông Bắc 173,8 210,0  6,31 - Đồng bằng sông Hồng 223,3 280,3  7,60 - Bắc Trung Bộ 174,1 212,4  6,63 - Duyên hải Nam Trung Bộ 194,7 252,8  8,70 - Tây Nguyên 265,6 344,7  8,69 - Đông Nam Bộ 378,1 527,8 11,12 - Đồng bằng sông Cửu Long 242,3 342,1 11,50 Năm 1999, tính chung cả nước thu nhập bình quân 1 người 1 tháng theo giá hiện hành là 295 nghìn đồng, năm 1996 là 226,7 nghìn đồng tăng bình quân là 8,78% trong thời kỳ 1996 – 1999. Nhìn chung thu nhập ở khu vực thành thị, nông thôn và các vùng đều tăng. Thu nhập của khu vực thành thị  832,5 nghìn đồng/người/tháng, với tốc độ tăng hàng năm 16,37% trong thời kỳ 1996 - 1999. Thu nhập ở khu vực nông thôn 225 nghìn đồng/người/tháng,  với tốc độ tăng hàng năm 6,01% trong thời kỳ 1996-1999. Trong tổng thu nhập của khu vực này, thu từ sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản là chủ yếu với tỷ lệ 58,5%; thu từ sản xuất công nghiệp, xây dựng 5%;  thu về dịch vụ 9,8%. Sự chuyển dịch cơ cấu thu nhập trong nông thôn còn chậm so với năm trước. Năm 1999, thu nhập của khu vực thành thị so với thu nhập của  nông thôn gấp 3,7 lần và có xu hướng tăng dần qua các năm: Năm 1994: 2,55 lần; 1995: 2,63 lần; 1996: 2,71 lần; 1999: 3,7 lần. Ở các vùng địa lý thu nhập bình quân 1 người 1 tháng đều tăng so với năm 1996. Vùng Tây Bắc và Đông Bắc: 210 nghìn đồng (+6,3%), Đồng bằng sông Hồng: 280,3 nghìn đồng(+7,6%), Bắc Trung Bộ: 212,4 nghìn đồng (+6,6%), Duyên hải Nam Trung Bộ: 252,8 nghìn đồng(+8,7%), Tây Nguyên: 344,7 nghìn đồng (+8,7%), Đông Nam bộ: 527,8 nghìn đồng(+11,1%), Đồng bằng sông Cửu Long: 342,1 nghìn đồng(+11,5%). Bảng 11: Tỷ lệ chi ăn uống trong chi tiêu sinh hoạt của hộ Nguồn: TCTK, Điều tra mức sống dân cư 1999                   Đơn vị tính:% Năm 1996 Năm 1999 CẢ NƯỚC 67,96 63,31 1. Chia theo khu vực  - Thành thị 65,77 58,68  - Nông thôn 69,43 65,70 2. Chia theo vùng  - Đông Bắc và Tây Bắc 72,64 65,57  - Đồng bằng sông Hồng 66,59 60,50  - Bắc Trung Bộ 67,35 62,99  - Duyên hải Nam Trung Bộ 68,87 63,50  - Tây Nguyên 66,39 65,00  - Đông Nam Bộ 64,93 58,69  - Đồng bằng sông Cửu Long 66,79 63,10 3. Chia theo nhóm thu nhập  - Nhóm 1 76,91 72,55  - Nhóm 2 75,27 69,15  - Nhóm 3 72,31 65,70  - Nhóm 4 65,22 60,34  - Nhóm 5 57,65 52,78 Nhờ thu nhập tăng, đời sống dân cư được cải thiện rõ rệt. Năm 1999 tính chung cả nước chi đời sống bình quân đầu người 1 tháng là 221,1 nghìn đồng, tăng bình quân 6,4% trong thời kỳ 1996-1999 và chậm hơn tốc độ tăng thu nhập. Chi đời sống của khu vực thành thị 559,2 nghìn đồng 1 người 1 tháng, tốc độ tăng bình quân 11,6% một năm; Ở nông thôn 175,0 nghìn đồng 1 người 1 tháng, tốc độ tăng bình quân 4,4% một năm. Chi đời sống của các vùng đều tăng, trong đó tăng nhanh là vùng Đông Nam Bộ 9,0%, Đồng bằng sông Cửu Long 8,2%, tăng thấp nhất là vùng Tây Bắc và Đông Bắc. Mức chi tiêu bình quân đầu người năm 1999 của các hộ khu vực thành thị cao gấp 3,1 lần khu vực nông thôn (tỷ số này năm 1996 là 2,5 lần). So sánh chi đời sống bình quân đầu người năm 1999: Khu vực thành thị gấp 3,2 lần khu vực nông thôn; Nhóm hộ giàu (20% số hộ thu nhập cao nhất) gấp 4,2 lần nhóm hộ nghèo (nhóm thấp nhất). - Đáng lưu ý là năm 1999 mặc dù vùng Duyên hải Nam Trung Bộ bị thiên tai lũ lụt, hạn hán ... nhưng mức sống dân cư của cả nước nói chung  cũng như các vùng vẫn ổn định và tiếp tục được cải thiện. Chi ăn uống hút năm 1999 bình quân đầu người 1 tháng là 139,98 nghìn đồng, bình quân mỗi năm tăng 4,0% trong thời kỳ 1996-1999, trong đó khu vực thành thị 328,14 nghìn đồng, tăng bình quân 7,8%, khu vực nông thôn 114,98 nghìn đồng, tăng bình quân 2,5%. Cơ cấu chi dùng lương thực, thực phẩm (ăn uống, hút) trong chi đời sống đã giảm xuống, ngược lại chi dùng cho phi lương thực, thực phẩm tăng lên. Cụ thể như sau: - Khi mức sống ổn định và được cải thiện thì chi tiêu cho nhu cầu ăn uống của dân cư tuy có tăng nhưng chậm hơn chi tiêu về các khoản ngoài ăn uống (như may mặc, ở, thiết bị đồ dùng, Y tế chăm sóc sức khoẻ, Giáo dục, văn hoá...). Bảng 12: Mức chi tiêu một số khoản ngoài ăn uống (bình quân đầu người 1 năm) Nguồn: TCTK, Điều tra mức sống dân cư 1999 Năm 1996 (1000 đ) Năm 1999 (1000 đ) Chi may mặc Thiết bị, đồ dùng Văn hoá, thể thao Chi may mặc Thiết bị, đồ dùng Văn hoá, thể thao CẢ NƯỚC 124,3 87,4 43,0 137,4 102,6 60,7 1. Chia theo khu vực  - Thành thị 251,0 180,5 119,9 325,4 230,9 179,2  - Nông thôn 107,4 74,8 30,5 112,8 86,5 43,9 2. Chia theo vùng  - Đông Bắc và Tây Bắc 109,0 70,0 25,6 119,9 91,8 40,3  - Đồng bằng sông Hồng 102,6 100,1 44,6 120,7 124,0 71,9  - Bắc Trung Bộ 94,7 74,8 24,5 101,0 90,4 33,5  - Duyên hải Nam Trung Bộ 112,6 70,3 30,5 122,0 72,7 42,8  - Tây Nguyên 168,8 111,5 58,6 143,8 96,7 74,8  - Đông Nam Bộ 209,6 136,2 105,1 262,4 160,3 150,6  - Đồng bằng sông Cửu Long 135,7 92,0 47,8 161,4 115,7 67,2 - Khối lượng chi dùng một số mặt hàng ăn uống: Tiêu dùng gạo bình quân đầu người 1 tháng giảm từ 13,4 Kg năm 1996 xuống còn 13,1 Kg năm 1999, khu vực thành thị từ 11,2 Kg giảm còn 9,7 Kg. Lượng gạo của các hộ tại 6 trong 7 vùng (trừ vùng Đông Bắc và Tây Bắc) đều giảm; Các mặt hàng: Thịt, mỡ dầu ăn, trứng, đỗ lạc vừng, đường mật... tăng hơn các năm trước. Riêng lượng tiêu dùng quả chín, rau tươi của dân cư khu vực thành thị và các vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ có xu hướng tăng lên. Nhìn chung, vốn đầu tư tích luỹ nhà ở, tài sản cố định năm 1999 của dân cư giữa các vùng có sự chênh lệch đáng kể. Vùng núi Đông Bắc và Tây Bắc mức thu nhập bình quân đầu người thấp nhất và cũng là vùng có mức tăng trưởng thu nhập bình quân hàng năm thấp hơn các vùng khác, vì vậy mức đầu tư tích luỹ về nhà ở và tài sản cố định cũng thấp nhất trong tất cả các vùng, bình quân 1 hộ 1.212,9 nghìn đồng, chỉ bằng 77,48% mức bình quân chung trong cả nước. Ngược lại, vùng Đông nam Bộ trong vòng 3 năm qua tốc độ tăng thu nhập bình  quân hàng năm đạt 11,12%, do vậy mức đầu tư tích luỹ về nhà ở và tài sản cố định là vùng cao nhất 2.923,2 nghìn đồng/hộ, cao hơn 86,72%  mức đầu tư chung và gấp 2,41 lần mức đầu tư của một hộ ở vùng núi  Đông Bắc và Tây Bắc. Trị giá đầu tư tích luỹ về xây dựng nhà ở và mua sắm tài sản cố định của các hộ giữa các ngành sản xuất kinh doanh chính cũng có sự khác nhau. Các hộ thuộc các ngành sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chủ yếu sống ở khu vực nông thôn, vùng núi hoặc vùng sâu vùng xa thường có mức thu nhập thấp, một bộ phận nhỏ hàng năm vẫn còn có khó khăn trong đời sống, do vậy đây là nhóm hộ có trị giá vốn đầu tư tích luỹ bình quân 1 hộ/năm thấp nhất 1.281,39 nghìn đồng. Ngược lại nhóm hộ thuộc các ngành dịch vụ có số vốn đầu tư tích luỹ cao gấp 3,52 lần trị giá đầu tư tích luỹ của nhóm hộ nông, lâm nghiệp, thuỷ sản (4.514,53/1.261,39 nghìn đồng), cao gấp 2,88 lần mức bình quân chung của cả nước. Trị giá đầu tư tích luỹ về xây dựng nhà ở và mua sắm tài sản cố định cũng phụ thuộc vào các nhóm thu nhập. Nhóm có thu nhập thấp nhất (nhóm 1) 620,02 nghìn đồng chỉ bằng 39,6% mức bình quân chung. Nhóm có mức thu nhập cao nhất (nhóm 5) 6.059,12 nghìn đồng, chênh lệch về mức đầu tư tích luỹ giữa nhóm 5 và nhóm 1 là 9,7 lần. Về cơ cấu đầu tư, trong tổng trị giá đầu tư tích luỹ thì tỷ lệ đầu tư về nhà ở chiếm 68%, còn lại 32% đầu tư cho tài sản cố định, trong đó vùng Đông nam Bộ tỷ lệ đầu tư về nhà ở cao nhất chiếm 79,09%, Tây Nguyên tỷ lệ này chỉ chiếm 64,4%. Trong tổng trị giá vốn đầu tư tích luỹ về tài sản cố định có 15,58% là đất kinh doanh, 33,92% là nhà xưởng, máy móc thiết bị, gia súc gia cầm chỉ có 6,27%. Điều đó khẳng định rằng mặc dù nhiều năm qua chúng ta còn gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng có đường lối đúng, có nhiều biện pháp chỉ đạo hiệu quả nên đời sống, kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục phát triển và ổn định. Tình trạng thu nhập và mức sống của người dân Việt có bốn đặc tính chính sau đây : 1. Sự cách biệt giầu nghèo giữa các thành phần xã hội, các miền và các tỉnh rất cao; 2. Chi tiêu, sức mua và mức sống cao hơn nhiều thu nhập, lợi tức, tiền công, tiền lương của người dân; 3. Nếp sống ở thành thị có khuynh hướng mang tính chất hưởng thụ (consumerism) một cách không lành mạnh; 4. Khoảng cách biệt (bất bình đẳng) giữa nông thôn và thành thị có khuynh hướng gia tăng. 2.1.2. Nguyên nhân Một là, do chênh lệch trình độ học vấn, kĩ năng, nghề nghiệp. Một người tốt nghiệp đại học có thể kiếm được mức thu nhập cao trong khi những người nông dân và công nhân trong các nhà máy thì chỉ có mức thu nhập thấp hơn. Còn nhóm doanh nhân, chủ đầu tư thì lại có thể kiếm được mức thu nhập cao gấp 10, 100 lần con số đó. Hai là, do chuyển dịch kinh tế là từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Quá trình chuyển dịch kinh tế cũng tạo ra sự chênh lệch về mức thu nhập của những nhóm ngưòi có điều kiện khác nhau. Ba là, do tự do hóa thị trường lao động. Bôn là, do toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Năm là, do điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khác nhau của các vùng miền. Ngoài ra, còn phụ thuộc vào các nguyên nhân khác như cơ chế quản lý, chính sách của nhà nước, quá trình phân phối và phân phối lại tài sản hay luật tiền lương tối thiểu cũng tạo ra mức chênh lệch về thu nhập gây nên sự bất bình đẳng về thu nhập. 2.2. Bất bình đẳng giới 2.2.1.Thực trạng bất bình đẳng giới * Bất bình đẳng giới trong Gia đình Ngày nay, mặc dù được sự quan tâm rất nhiều của xã hội nhưng đâu đó vẫn còn tình trạng bất bình đẳng giới trong gia đình mà nguyên nhân chính là hệ quả của tập tục phong kiến lạc hậu, lỗi thời. Các thực trạng chung gồm: người đứng tên giấy sử dụng đất canh tác, nhà ở chủ yếu là nam giới; Cả phụ nữ và nam giới đều đóng góp công sức vào các hoạt động tạo thu nhập của hộ gia đình nhưng nữ đóng góp nhiều hơn nam; Phụ nữ đóng góp công sức vào hoạt động tạo thu nhập nhiều hơn nam giới, nhưng đóng góp bằng tiền mặt thấp hơn; Phụ nữ là người đảm nhiệm chính công việc nội trợ ; Sự chia sẻ của nam giới nổi bật trong việc giáo dục con; Phụ nữ trong các gia đình là người thực hiện chính các biện pháp kế hoạch hóa gia đình; Phụ nữ tham gia các hoạt động cộng đồng, các lớp tập huấn không nhiều; Phụ nữ là người quản lý tiền mặt của gia đình nhưng quyền quyết định những khoản chi tiêu lớn lại thuộc về nam giới; Quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong gia đình vẫn thuộc về nam giới;  Trong các hộ gia đình, phụ nữ có thời gian nghỉ ngơi ít hơn nam giới. * Bất bình đẳng giới trong giáo dục, cơ hội phát triển. Bình đẳng giới trong giáo dục có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng nguồn nhân lực của tương lai. Khi mức độ bất bình đẳng giới trong giáo dục giảm đi, tức là ở mỗi cấp đào tạo, tỷ lệ nữ so với nam tăng lên và khi trình độ và nhận thức của phụ nữ trong gia đình được cải thiện, số lượng và chất lượng đầu tư cho giáo dục đối với con cái sẽ được cải thiện trực tiếp thông qua sự dạy dỗ của người mẹ cũng như khả năng thuyết phục hoặc quyền của người mẹ trong việc đầu tư nhiều hơn cho giáo dục đối với con cái. Ngoài ra, trình độ của người mẹ cao hơn, đóng vai trò quyết định trong việc chăm sóc và dinh dưỡng đối với con cái. Về lâu dài, các tác động này sẽ làm cho chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện và năng suất lao động trung bình của toàn xã hội sẽ được nâng lên. Về ưu điểm: Phụ nữ và trẻ em gái được tạo điều kiện bình đẳng với nam giới trong nâng cao trình độ văn hóa và trình độ học vấn. Tỷ lệ phụ nữ so với nam giới trong số người biết chữ đã tăng lên đáng kể. Chênh lệch về tỷ lệ học sinh nam - nữ trong tất cả các cấp bậc học được thu hẹp (Báo cáo Quốc gia của Việt Nam, tháng 8-2005 đã khẳng định điều này). Về cơ bản, Việt Nam có thể đạt được mục tiêu xóa bỏ cách biệt giới ở các cấp học trước năm 2015. Có 4 loại hình giáo dục không chính quy, chủ yếu dành cho người lớn, trong đó có phụ nữ. Các chương trình này đã tạo nhiều cơ hội học tập đối với phụ nữ hơn rất nhiều so với trước. Về tồn tại: thực chất bình đẳng giới trong GD&ĐT còn nhiều vấn đề cần xem xét. Về khách quan, việc nhìn nhận vai trò của nữ giáo viên chưa đúng, nhiều Hiệu trưởng không muốn nhận giáo viên là nữ vì sợ liên quan đến chế độ nghỉ sinh nở, con đau ốm ảnh hưởng đến việc giảng dạy, hoặc khi đề bạt, cử đi học còn e dè trong việc chọn nữ giáo viên. Trẻ em gái ít cơ hội được đến trường so với nam giới. Nếu tính trung bình cho tất cả các quốc gia đang phát triển, tỷ lệ phụ nữ biết chữ thấp hơn 29% so với nam giới, số năm đến trường trung bình thấp hơn 45% so với nam giới và tỷ lệ nhập học tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông của nữ thấp hơn tương ứng là 9%, 28% và 49% so với nam. (Nguồn: Về chủ quan, nhiều chị em chưa thoát ra khỏi tâm lí tự ti, an phận, không cần phấn đấu, không chịu khó học tập để nâng cao trình độ, chưa nhận thức hết vai trò và chưa thay đổi cách nhìn mới về chính mình. Mặt khác, các chính sách trong GD&ĐT ngoài ảnh hưởng chung đối với xã hội còn có ảnh hưởng trực tiếp đến bình đẳng giới. Ví dụ, việc tăng giảm học phí ảnh hưởng rất nhiều đến quyền lợi của trẻ em gái. Bởi vì trẻ em gái có nguy cơ bị buộc nghỉ học cao hơn bé trai khi điều kiện gia đình khó khăn. * Bất bình đẳng giới trong lao động, việc làm và thu nhập. Phụ nữ vẫn chịu nhiều thiệt thòi, bất bình đẳng thể hiện qua mức lương thấp hơn, ít nắm giữ các vị trí lãnh đạo hơn so với nam giới. Những kết quả nghiên cứu về vấn đề giới trong quảng cáo việc làm trên báo in do Viện Nghiên cứu kinh tế-xã hội và môi trường (iSEE) tổ chức mới đây đã chỉ ra điều đó. TS Nguyễn Hữu Minh - Viện trưởng Viện Gia đình và giới - cho biết, sự bất bình đẳng giới về LĐVL thể hiện ở một số khía cạnh như phân bổ LĐ nữ nhiều hơn ở các ngành nông nghiệp, buôn bán dịch vụ hoặc nhân viên đều là những ngành có thu nhập thấp. Trong khi đó, LĐ nam giới tập trung nhiều hơn ở các ngành kỹ thuật, dịch vụ hoặc ở vị trí lãnh đạo. Mức lương của phụ nữ chỉ bằng 85% so với nam giới, đặc biệt trong các ngành như nông- lâm-ngư nghiệp thì mức lương của phụ nữ chỉ bằng 67% của nam giới. Theo TS Minh, nguyên nhân căn bản là nền tảng giáo dục của phụ nữ nói chung thấp hơn nam giới, khiến khả năng cạnh tranh của phụ nữ trên thị trường LĐ thấp hơn. (Nguồn: Thạc sĩ Phạm Hương Trà - giảng viên khoa Xã hội học (Học viện Báo chí và Tuyên truyền) - đã đi tìm sự bất bình đẳng giới trong các quảng cáo tuyển dụng hiện nay. Kết quả nghiên cứu trên 5 tờ báo in (Thanh Niên, Lao Động, Tiền Phong, Tuổi Trẻ, Vietnam News) cho thấy, phần lớn các quảng cáo tuyển dụng không phân biệt đối xử một cách trực tiếp dựa trên yêu cầu về giới tính, với chỉ khoảng 20,6% số quảng cáo nêu cụ thể công việc đòi hỏi ứng viên nam (12,4%) hoặc nữ (8,2%). (Nguồn: Kết quả thứ hai là vẫn còn định kiến trong thông báo tuyển dụng của các DN đem lại lợi thế cho nam giới. Ví dụ các công việc đòi hỏi kỹ thuật cao thì có đến 50% số quảng cáo yêu cầu ứng viên phải là nam giới, chỉ có 17% yêu cầu ứng viên là nữ. Một phát hiện nữa là sự phân biệt đối xử giới trực tiếp lại không nhiều, nhưng sự bất bình đẳng giới lại được ẩn đi, thông qua các yêu cầu về đào tạo, trình độ học vấn, lứa tuổi hoặc hình thức. (Nguồn: Những yêu cầu này nhiều khi không thực sự cần thiết cho công việc. Theo bà Jonna Naumanen - Tổ chức lao động quốc tế tại Hà Nội ILO - thách thức lớn nhất đối với phụ nữ là các công việc mà họ làm thường không được đánh giá hoặc đánh giá thấp. Thu nhập của LĐ nữ bằng 87% so với nam giới (Nguồn: Hơn 50% phụ nữ Việt Nam hiện đang làm công việc nội trợ nên không có thu nhập trực tiếp - thông tin trên được công bố ngày 9.3.2010 trong Báo cáo phát triển con người khu vực Châu Á-Thái Bình Dương của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP). Cụ thể, ở tất cả các nước trong. khu vực, mức lương của phụ nữ thấp hơn nam giới rất nhiều và mức chênh lệch thu nhập giữa nam-nữ từ 54%-90%. Tại VN, phụ nữ chiếm 46,6% lực lượng LĐ, nhưng chủ yếu làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân, nên không được hưởng chế độ an sinh xã hội. Những người làm việc được hưởng thu nhập chỉ bằng khoảng 87% mức thu nhập bình quân của nam giới. * Bất bình đẳng giới trong lãnh đạo và quản lí. Hiện nay Việt Nam là một trong những nước được Liên hợp quốc đánh giá cao trong việc nỗ lực rút ngắn khoảng khách bình đẳng giới trong giáo dục, việc làm, kinh tế, chăm sóc sức khoẻ sinh sản/ kế hoạch hoá gia đình. Theo Báo cáo của Liên hợp quốc, năm 2002 chỉ số Giới (GDI) ở nước ta xếp thứ 89/173 nước. Một trong những lĩnh vực đáng chú ý hơn đó là vấn đề giới trong lãnh đạo quản lý cũng đã được Đảng và Nhà nước quan tâm kịp thời, số lượng cán bộ nữ được tham gia vào các cấp uỷ Đảng, chính quyền có xu hướng tăng lên qua các nhiệm kỳ. Tuy nhiên, kết quả đó chỉ là bước đầu, nó chưa thực sự mang tính bền vững và đang đặt ra nhiều vấn đề cần lời giải đáp. Bảng 13: Tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp uỷ Đảng qua các nhiệm kỳ (%) TT Các cấp lãnh đạo Khoá 1996- 2000 Khoá 2001-2005 1 Ban chấp hành Trung ương Đảng 10,58 8,6 2 Ban chấp hành tỉnh/thành uỷ 11,30 11,32 3 Ban

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26566.doc
Tài liệu liên quan