Đề tài Bất cân xứng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam

MỤC LỤC

Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt Trang

Danh mục các bảng biểu

Danh mục các hình v ẽ đồ thị

LỜI MỞ ĐẦU

CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT VỀ BẤT CÂN XỨNG THÔNG TIN

1) Khuôn khổ lý thuyết về bất cân xứng thông tin . 1

1.1) Thông tin là gì ? . . . 1

1.2) Lý thuy ết về bất cân xứng thông tin. . 1

1.2.1) Giới thiệu sơ lược thông tin bất cân xứng . . 1

1.2.2) Các khái niệm thông tin bất cân xứng . . 3

1.2.3) Các hình thức thông tin bất cân xứng . . 3

2) Bất cân xứng thông tin trong thị trường chứng khoán . . 10

2.1) Tổng quan về thị trường chứng khoán . . 10

2.2) Tác động của bất cân xứng thông tin . 10

2.2.1) Tác động đến doanh nghiệp . . 11

2.2.2) Tác động đến thị trường chứng khoán . . 15

2.2.3) Tác động đến nền kinh tế . . . 15

3) Bất cân xứng thông tin và thị trường hiệu quả. . 16

3.1) Thế nào là thị trường hiệu quả? . . 16

3.2) Các dạng của thị trường hiệu quả . 16

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 . . 18

CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG BẤT CÂN XỨNG THÔNG TIN

TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM HIỆN NAY

1) Phân tích hiện trạng Thị trường chứng khoán Việt Nam . 19

2) Đánh giá tình trạng bất cân xứng thông tin trên

Thị trường chứng khoán Việt Nam . . . 25

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 . 31

CHƯƠNG 3: KIỂM ĐỊNH BẤT CÂN XỨNG THÔNG TIN TRÊN

THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

1) Thiết lập mô hình kiểm định . . . 32

1.1) Kiểm định thống kê về tính độc lập của tỷ suất sinh lợi. . 32

1.2) Kiểm định quy tắc giao dịch . . . 32

2) Thu thập dữ liệu. . . . 33

3) Kết quả kiểm định. . . 33

3.1) Kết quả kiểm định thống kê về tính độc lập. . . 33

3.2) Kết quả kiểm định quy tắc giao dịch . . 35

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 . . 36

CHƯƠNG 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM KHẮC PHỤC

TÌNH TRẠNG BẤT CÂN XỨNG THÔNG TIN TRÊN

THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

1) Nâng cao chất lượng thông tin được công bố . 37

1.1) Đối với cơ quan quản lý . . . 37

1.2) Đối với các chủ thể khác tham gia trên TTCK . 40

1.2.1) Đối với công ty niêm y ết . . . 40

1.2.2) Đối với công ty chứng khoán . . 41

1.2.3) Đối với các phương tiện truyền thông đại chúng . 42

1.3) Nâng cao chất lượng kiểm toán . . 43

2) Tăng cường và hoàn thiện hệ thống thông tin tại SGDCK. . 44

2.1) Xây dựng hệ thống công bố thông tin tự động . . 44

2.2) Xây dựng hệ thống cung cấp thông tin qua mạng Internet. . 45

2.3) Nâng cấp website của SGDCK, TTGDCK và UBCKNN . 46

3) Một số giải pháp khác hạn chế bất cân xứng thông tin . . 46

3.1) Thành lập tổ chức định mức tín nhiệm. . 46

3.2) Giải quyết vấn đề nội gián trên TTCK Việt Nam. . . 46

3.3) Nhà đầu tư chọn nhà quản lý có năng lực . . 48

3.4) Khuyến khích và chế tài . . . 48

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 . . 49

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

pdf81 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 5974 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bất cân xứng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a chúng. Người ta có thể dùng phân tích cơ bản để biết chứng khoán đang được định giá thấp hay cao.  Thị trường hiệu quả dạng vừa phải Thị trường hiệu quả dạng vừa phải giả định rằng giá cả không chỉ phản ánh giá cả quá khứ mà còn phản ánh tất cả thông tin đã công bố khác. Trong thị trường hiệu quả dạng vừa phải, không có nhà đầu tư nào có thể đạt được lợi nhuận sau khi đã điều chỉnh rủi ro trên mức trung bình từ các giao dịch của họ nếu việc mua bán dựa vào các số liệu đã được công bố và những thông tin dự đoán mà cả thị trường đều biết  Thị trường hiệu quả dạng mạnh: Thị trường hiệu quả dạng mạnh giá định rằng giá cả phản ánh tất cả thông tin có thể có được bằng cách phân tích tỉ mỉ về công ty và về nền kinh tế. Điều này nói lên rằng thị trường phản ứng rất nhanh với bất kỳ thông tin nào, kể cả những thông tin mang tính chất nội bộ hay cá nhân, khả năng đạt được lợi nhuận siêu ngạch là không thể. Tuy nhiên, thực tế có một bộ phận cá nhân có thể có được những thông tin quan trọng trước khi chúng được công bố ra công chúng, do đó sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch. Đây được xem là một trong những biểu hiện của tình trạng bất cân xứng thông tin trên thị trường. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Thông tin bất cân xứng là mức độ thông tin phản án không kịp thời, chính xác, đẩy đủ về thị trường và diễn biến của nó. Thông tin bất cân xứng tạo ra những kỳ vọng về giá khác nhau đối với mỗi chủ thể trên thị trường dẫn đến những hiếu quả về mặt kinh tế khác nhau và thường là thiệt hại cho các nhà đầu tư có thông tin ít hơn hay thông tin thiếu chính xác hơn. Hơn nữa, còn gây ra các hành vi tiêu cực như đầu cơ, giao dịch nội bộ, giao dịch nội gián, tung tin đồn thất thiệt….làm cho thị trường kém hiệu quả, dễ chao đảo, hoạt động đầu tư của nhà đầu tư cũng rủi ro hơn CHƯƠNG 2 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG BẤT CÂN XỨNG THÔNG TIN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM HIỆN NAY 1) Phân tích hiện trạng Thị trường chứng khoán Việt Nam. Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động phiên giao dịch đầu tiên tại TTGDCK TP. HCM vào ngày 28/07/2000. Từ đó đến nay, sau hơn bảy năm hoạt động, thị trường đã trải qua nhiều biến đổi thăng trầm. Để nhìn nhận rõ hơn sự biến đổi này, ta có thể chia thời gian hoạt động của Thị trường chứng khoán Việt Nam thành năm giai đoạn như sau: 1.1) Giai đoạn 1: từ 28/07/2000 đến 25/06/2001 Đây là giai đoạn thị trường mới đi vào hoạt động. Nguồn cung cổ phiếu còn khá hạn hẹp: chỉ có năm doanh nghiệp niêm yết là REE, SAM, HAP, TMS, LAF, giá trị niêm yết chỉ đạt 466.9 tỷ đồng. Lượng cổ phiếu được phép giao dịch thấp, chỉ khoảng 30-40% lượng cổ phiếu phát hành. Trong khi đó, cầu cổ phiếu khá cao (giai đoạn này có khoảng 15.000 tài khoản được mở tại các công ty chứng khoán ). Điều này tạo nên một áp lực cung cầu rất lớn, giá cổ phiếu tăng liên tục và tăng kịch trần qua các phiên giao dịch. Chỉ số VN-Index từ 100 điểm trong ngày giao dịch đầu tiên, đến ngày 25/06/2001 đã tăng lên đỉnh điểm 571.04 điểm với giá trị giao dịch mỗi phiên đạt khoảng 24 tỷ đồng, một con số đáng kể so với thị trường mới và còn rất khan hiếm hàng hoá. Một điểm đáng nói, giá các cổ phiếu biến động hầu như cùng chiều nhau và cùng chiều với chỉ số VN-Index. Để giảm bớt áp lực cung cầu, UBCKNN đã điều chỉnh biên độ giao dịch cổ phiếu. Tuy nhiên, việc mở rộng biên độ lớn trong khi khối lượng hàng hóa đưa vào thị trường không đáp ứng được nhu cầu nhà đầu tư nên giá chứng khoán vẫn còn tăng mạnh. Mặt khác, do giá tăng liên tục nên những người nắm giữ cổ phiếu cũng không muốn bán ra. Điều này càng đẩy giá lên cao hơn nữa ( mỗi phiên tăng 7% ). Đồ thị 1: Chỉ số VN-Index giai đoạn 1 Nguồn: www.vietstock.com.vn 1.2) Giai đoạn 2: từ 25/06/2001 đến 24/10/2003 Giai đoạn này thị trường đã tuột dốc. Giá chứng khoán thường rớt ở mức sàn, một số phiên đứng giá và khối lượng giao dịch giảm hẳn. Mặc dù UBCKNN đã tăng biên độ giao dịch lên + - 5% từ đầu tháng 01/2003 ( sau khi hạ thấp biên độ xuống + - 3% từ 09/10/2001) đồng thời áp dụng các biện pháp kỹ thuật để phát triển thị trường như giảm lô giao dịch, cho phép nhà đầu tư nước ngoài được mở tài khoản giao dịch tại các công ty chứng khoán…nhưng thị trường vẫn không có dấu hiệu phục hồi. Chỉ số VN-Index giảm liên tục và giảm đến mức “đáy” là 130.9 điểm vào ngày 24/10/2003, giảm hơn 440 so với “đỉnh” của nó ở năm 2001. Ước tính mỗi phiên giao dịch, chỉ số VN-Index mất khoảng 0.29%. Cũng giống như giai đoạn trước, sự biến động của các cổ phiếu cũng không có sự tách biệt. Các cổ phiếu cùng giảm theo chỉ số VN-Index. Nguyên nhân là do “ tâm lý bầy đàn” của nhà đầu tư bất chấp những giá trị tính toán thực tế, triển vọng phát triển, tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Họ thường đưa ra quyết định mua, bán chứng khoán rất giống nhau. Hậu quả là gây ra những biến động lớn trên thị trường, khi các cổ phiếu cùng nhau tăng giá, khi thì đồng loạt giảm giá. Thị trường còn biến động như thế là do tính thanh khoản của các cổ phiếu niêm yết rất thấp. Điều này là vì số lần khớp lệnh trên thị trường còn rất thấp. Giai đoạn này thị trường chỉ áp dụng phương thức khớp lệnh định kỳ. Độ thanh khoản thấp như vậy khiến nhà đầu tư rất khó bán cổ phiếu khi giá đang giảm và cũng rất khó mua cổ phiếu khi giá đang tăng. Đồ thị 2: Chỉ số VN-Index giai đoạn 2 Nguồn: www.vietstock.com.vn 1.3) Giai đoạn 3: từ 24/10/2003 đến 03/08/2006 Giai đoạn này thị trường đã có xu hướng phục hồi. Nhưng lại có dấu hiệu hoạt động cầm chứng. Chỉ số VN-Index không có biến động nhiều. Ngoài mức cao nhất đạt được là 632.69 điểm vào ngày 25/04/2006, nhìn chung VN-Index dao động quanh mức 200-350 điểm. Giá giao dịch của từng loại cổ phiếu niêm yết cũng không có sự biến động mạnh. Tuy nhiên, các cổ phiếu vẫn còn cùng tăng, cùng giảm. Đồ thị 3: Chỉ số VN-Index giai đoạn 3 Nguồn: www.vietstock.com.vn 1.4) Giai đoạn 4: từ 03/08/2006 đến 13/03/2007. Đây có thể xem là giai đoạn thị trường chứng khoán hoạt động sôi nổi nhất. Thị trường mở rộng cả về quy mô, chất lượng hàng hóa lẫn số lượng cổ phiếu. Số cổ phiếu niêm yết đã tăng hơn 303% so với năm 2005 ; tổng giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán đạt 16 tỷ USD, chiếm khoảng 22,7% GDP. Bên cạnh đó là sự ra đời của các định chế tài chính: 23 quỹ đầu tư tài chính, hơn 40 công ty chứng khoán, 12 công ty quản lý quỹ, 3 quỹ đầu tư và 6 ngân hàng hoạt động lưu ký chứng khoán. Ngoài ra, số tài khoản của nhà đầu tư tăng gấp 3 lần năm 2005. Chỉ số VN-Index tăng rất nhanh, đạt mức kỷ lục cao nhất từ trước đến nay là 1170,67 điểm vào ngày 13/3/2007. Nguyên nhân của sự gia tăng mạnh mẽ và có vẻ bất hợp lý này chủ yếu là do tính không chuyên nghiệp của các nhà đầu tư dẫn đến thái độ tin tưởng một cách thái quá vào các tin đồn. Điển hình là việc tin tưởng vào đánh giá lạc quan về thị trường chứng khoán Việt Nam của Merrill Lynch, một trong những tổ chức kinh doanh chứng khoán hàng đầu thế giới. Ngoài ra, việc Việt Nam gia nhập WTO và tổ chức thành công Hội nghị APEC vào tháng 11 cộng với dự báo về khả năng có một làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam góp phần tạo nên cơn sốt giá vào những ngày cuối năm 2006 đầu 2007. Đồ thị 4: Chỉ số VN-Index giai đoạn 4 Nguồn: www.vietstock.com.vn 1.5) Giai đoạn 5: Từ 13/03/2007 đến nay ( 01/04/2008 ) Tiếp đà phát triển mạnh mẽ của giai đoạn trước, trong 3 quý còn lại của 2007 mặc dù thị trường có dấu hiệu đi xuống nhưng nhìn chung vẫn tăng trưởng về quy mô và thành phần tham gia ( đến nay có 528 loại chứng khoán được niêm yết trên thị trường với tổng giá trị niêm yết là 101.345.715,88 triệu đồng ) Bảng 1: Quy mô niêm yết tại SGDCK TP.HCM Toàn thị trường Cổ phiếu Chứng chỉ quỹ Trái phiếu Số chứng khoán niêm yết (CK) 528 150 3 375 Tỉ trọng (%) 100 28,41 0.57 71,02 Khối lượng niêm yết ( ngàn CK ) 5.110.319,44 4.477.359,56 71.409,63 561.550,25 Tỉ trọng (%) 100 87,61 1,40 10,99 Giá trị niêm yết ( triệu đồng ) 101.345.715,88 44.773.595,58 714.095,30 55.858.025, 00 Tỉ trọng (%) 100 44,18 0.70 55,12 Nguồn: SGDCK TP.HCM Ghi chú: Số liệu tính đến ngày 01/04/2008 Tuy nhiên, bước sang năm 2008, thị trường đi xuống ngày một nhanh và trầm trọng hơn. VN-Index giảm hơn 40% trong vòng chưa đầy 3 tháng đầu năm 2008 và giảm hơn 50% so với đỉnh điểm của giai đoạn trước. Nguyên nhân lý giải cho sự sụp đổ của thị trường có thể là do thị trường đã trải qua giai đoạn tăng trưởng quá nóng, ảnh hưởng của các biện pháp can thiệp hành chính của Chính phủ như ban hành Chỉ thị 03 hạn chế cho vay đầu tư chứng khoán, luật thuế thu nhập cá nhân có hiệu lực vào đầu năm 2009 ( trong đó đánh thuế 20% thu nhập từ đầu tư chứng khoán ), biện pháp thắt chặt tiền tệ của NHNN như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho các NHTM và điều quan trọng là do tâm lý đầu tư bầy đàn của nhà đầu tư cùng với tâm lý bi quan của họ vào khả năng phục hồi của thị trường đã làm cho thị trường trở nên tồi tệ hơn. Khi các ngân hàng bị hạn chế cầm cố chứng khoán, thị trường lại đi xuống, nhà đầu tư không thể trả tiền vay hay mua lại nên phải bán ra để thu tiền về và điều này làm tăng áp lực cung trên thị trường dẫn đến thị trường càng sụt giảm. Đồ thị 5: Chỉ số VN-Index giai đoạn 5 Nguồn: www.vietstock.com.vn NHẬN XÉT: Qua phân tích các giai đoạn trên, có thể thấy TTCK nước ta biến động khá phức tạp: giai đoạn 1 thị trường tăng, giai đoạn 2 thị trường giảm liên tục, giai đoạn 3 thị trường tăng trở lại nhưng tăng không mạnh mẽ, bước sang giai đoạn 4 thị trường tăng mạnh mẽ và sang giai đoạn năm thị trường giảm đáng kể. Mặc dù mỗi giai đoạn có đặc trưng riêng nhưng điểm chung là những biến động phức tạp đó của chỉ số VN-Index không bị ảnh hưởng bởi kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp niêm yết hay tình hình của nền kinh tế mà do tâm lý của nhà đầu tư. Chỉ số giá chứng khoán leo thang không biết dừng khi nền kinh tế đang có biểu hiện của sự trì trệ và ngược lại nó lại suy giảm nghiêm trọng dù các công ty niêm yết có dấu hiệu hoạt động kinh doanh hiệu quả. Đây là biểu hiện cho thấy TTCK Việt Nam còn khá non yếu. Bên cạnh đó, hơn 90% nhà đầu tư kinh doanh chứng khoán trên thị trường là cá nhân, chiếm hơn 70% lượng cổ phiếu giao dịch. Trong đó, có khá nhiều cá nhân mới tham gia thị trường, kiến thức và kinh nghiệm về đầu tư chứng khoán còn hạn chế. Họ chịu ảnh hưởng rất nặng tâm lý đám đông, bầy đàn. Thêm vào đó, đa số nhà đầu tư không nhằm mục đích đầu tư lâu dài mà chủ yếu kinh doanh chênh lệch giá, đầu cơ gây ra hiện tượng tranh mua, tranh bán giữa các nhà đầu tư làm cho thị trường điều chỉnh không kịp, lúc thì giá bị đẩy lên rất cao, khi thì tụt xuống cực thấp. Tuy nhiên, cần phải lưu ý thị trường thất thường như vậy không chỉ do tâm lý không ổn định của nhà đầu tư, quyết định theo cảm tính và tin đồn, mà một phần không kém phần quan trọng là do thông tin trên thị trường chưa thông suốt, thông tin cung cấp từ các doanh nghiệp chưa đầy đủ và còn chậm trễ tạo nên tình trạng bất cân xứng thông tin giữa doanh nghiệp và nhà đầu tư, giữa các nhà đầu tư với nhau làm cho thị trường dễ bị chao đảo, nhất là trước những tin đồn. 2) Đánh giá tình trạng bất cân xứng thông tin trên Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay. Mặc dù đến nay chưa có những nghiên cứu định lượng nhưng có thể khái quát bức tranh toàn cảnh tình trạng bất cân xứng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam khá hỗn độn. Luồng thông tin không minh bạch bùng phát tới mức có dấu hiệu không kiểm soát được. Hiện tượng thông tin nói tốt về cổ phiếu này, lấp lửng về cổ phiếu kia để nâng hoặc làm rớt giá xuất hiện ngày càng nhiều. Một số quan chức của cơ quan quản lý chức năng còn công khai bình luận, chủ quan nhận định các cổ phiếu và hoàn toàn không chịu trách nhiệm gì về hậu quả từ những phát ngôn ấy… Ngay cả cơ quan quản lý thị trường cũng có những thông tin gây khó khăn cho nhà đầu tư. Như việc Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP. HCM ( mà nay gọi là Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM ) thông báo chính thức trên các phương tiện truyền thông rằng việc khớp lệnh liên tục sẽ được thực hiện vào ngày 7/5. Tuy nhiên, sau đó lại thông báo hoãn việc khớp lệnh liên tục và vẫn sử dụng phương thức khớp lệnh định kỳ. Hay gần đây, Bản tin chứng khoán của Sở Giao dịch chứng khoán TP. HCM đã công bố kết quả hoạt động của SAM nhầm với kết quả hoạt động của VTC, điều này đã khiến cho không ít nhà đầu tư đã đổ vốn vào đầu tư VTC. Thế nhưng ngày hôm sau khi thông tin trên được đính chính lại, giá của VTC đã giảm xuống mức sàn và giảm liên tục trong khi có rất nhiều nhà đầu tư đã mua ở mức giá trần. Thiệt hại nhà đầu tư gánh chịu đã rõ và trách nhiệm về công bố thông tin của Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM cũng đã rõ. Thế nhưng việc này đã được xử lý như thế nào ? Chỉ là những lời xin lỗi do “ sơ suất trong kỹ thuật”. Qua các sự kiện trên có thể thấy được công tác quản lý nhà nước đối với vấn đề công bố thông tin chưa thực hiện được tốt. Nguyên nhân là do các quy định trong việc công bố thông tin vẫn chưa hoàn chỉnh. Hiện tại, Luật chứng khoán đã có hiệu lực nhưng các văn bản hướng dẫn vẫn đang trong quá trình dự thảo, các quy định quản lý về thị trường, giao dịch còn lỏng lẻo, thể hiện nhiều bất cập và cần phải sửa đổi cho phù hợp, do vậy, chưa thể đáp ứng ngay yêu cầu về tính ổn định, rõ ràng, minh bạch. Bên cạnh công tác quản lý nhà nước đối với thị trường còn hạn chế, nhìn chung, ý thức minh bạch của doanh nghiệp còn rất thấp. Có doanh nghiệp đã niêm yết nhưng vẫn chưa có bộ phận chuyên trách về công bố thông tin. Hoạt động công bố thông tin của doanh nghiệp còn nhiều bất cập. Cụ thể: Doanh nghiệp thường trì hoãn việc công bố thông tin, nội dung công bố không đầy đủ, rõ ràng. Theo quy định, doanh nghiệp phải công bố định kỳ báo cáo tài chính quý, sáu tháng, báo cáo tài chính năm và báo cáo thường niên; thời hạn công bố là trong 10 ngày kể từ khi có báo cáo. Tuy nhiên, thực tế số lượng doanh nghiệp tuân thủ quy định này rất ít. Hầu hết các doanh nghiệp đều công bố chậm hơn nhiều so với quy định. Ta có thể thấy đến thời điểm hiện nay ( quý 2/ 2008), trang web của UBCKNN, SGDCK, TTGDCK, các công ty chứng khoán kể cả doanh nghiệp niêm yết chỉ mới cập nhật các báo cáo tài chính đến năm 2006. Nhiều báo cáo chưa được kiểm toán độc lập, một số còn ở dạng tóm lược, thiếu đi nhiều thông tin quan trọng, cần thiết cho việc ra quyết định của nhà đầu tư. Doanh nghiệp còn công bố thông tin theo kiểu” tốt khoe xấu che”, chỉ công bố những thông tin có lợi mà phớt lờ đi hoặc không công bố những thông tin xấu ảnh hưởng đến doanh nghiệp. Điển hình là trường hợp Công ty cổ phần đồ hộp Hạ long đã không công bố sự kiện cơ quan công an tiến hành điều tra hành vi vi phạm Pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng của nhân viên, gây thiệt hại cho nhà nước hàng tỷ đồng. Trong một số trường hợp, doanh nghiệp cố tình công bố sai sự thật, bóp méo báo cáo tài chính. Phổ biến nhất là doanh nghiệp biến lỗ thành lãi, hay còn gọi là tạo ra tình trạng “ lãi giả lỗ thật” nhằm làm “ đẹp” báo cáo tài chính, đánh bóng tên tuổi của doanh nghiệp. Thông qua các thủ thuật kế toán như: giảm tỷ lệ khấu hao, giả mức dự phòng giảm giá hàng tồn kho, tăng cường khuyến mãi… lợi nhuận của doanh nghiệp được thổi phồng lên. Khi đó, giá trị cổ phiếu cũng được nâng lên nhưng đây chỉ là giá trị “ ảo” để qua mặt nhà đầu tư. Như trường hợp Công ty bánh kẹo Biên Hoà cấu kết với công ty kiểm toán đưa ra những thông tin không đúng về tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của công ty trong năm 2002. Cụ thể, Công ty đã công bố kết quả hoạt động kinh doanh 9 tháng đầu năm 2002 lãi 4.1 tỷ đồng nhưng sau 4 lần gia hạn thêm, kết quả kinh doanh được công ty đưa ra lỗ đến 5.422 tỷ đồng. Điều này làm giá chứng khoán của Công ty sụt giảm liên tục, tính từ phiên giao dịch đầu năm 2003 cho đến ngày 19/05/2003 giá cổ phiếu giảm khoảng 30%, còn so với thời điểm cổ phiếu này lên sàn trước đó một năm thì giá giảm tới 60%. Hậu quả là kéo theo sự sụt giảm nghiêm trọng chỉ số VN- Index trong giai đoạn này. Ngoài ra, một quan điểm khá phổ biến của các doanh nghiệp niêm yết hiện nay là việc công bố thông tin chủ yếu nhìn nhận dưới góc độ nghĩa vụ. Ngoài các thông tin bắt buộc theo luật định phải công bố thì thường doanh nghiệp không chủ động cung cấp các thông tin quan trọng khác.  Các thông tin về kế hoạch sản xuất kinh doanh cũng như những dự án mở rộng và phát triển trong tương lai hầu như được doanh nghiệp giữ kín. Nếu có thì chỉ thông báo vào những buổi Đại hội đồng cổ đông thường niên. Chính điều này làm cho nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước chán nản và thờ ơ với việc đầu tư vì họ không có cơ sở cụ thể nào để phân tích, nhận định triển vọng phát triển của doanh nghiệp, từ đó đưa ra quyết định đầu tư của mình.  Giao dịch mua bán cổ phiếu quỹ của chính tổ chức niêm yết là một thông tin quan trọng bởi thông tin này có liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của tổ chức và ảnh hưởng đến giá cổ phiếu trên thị trường. Tuy nhiên, việc công bố những thông tin này thường không đầy đủ và rõ ràng. Chẳng hạn, trường hợp của Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An ( LAFOOCO ), trước đây bản cáo bạch niêm yết ghi rõ cơ cấu sở hữu của công ty không có cổ phiếu quỹ. Tuy vậy, công ty lại đăng ký và đã thực hiện bán lại 30.470 cổ phiếu quỹ ; thông tin này được đăng trên bản tin của Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM ngày 12/12/2000. Không chỉ riêng LAFOOCO mà tại nhiều công ty, số lượng cổ phiếu quỹ tại thời điểm niêm yết thường khác xa so với thông tin công bố trong bản cáo bạch. Điều này đem đến sự hoài nghi cho nhà đầu tư : liệu những gì công bố trong bản cáo bạch đã thực sự tin cậy ? Nếu đúng như vậy thì các công ty này đã mua lại cổ phiếu khi nào và tại sao việc mua bán này lại không được công bố? Doanh nghiệp còn cung cấp thông tin không công bằng đối với nhà đầu tư: ưu tiên cung cấp cho các nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư tổ chức mà không công bố rộng rãi đến các nhà đầu tư cá nhân. Đến nay, một hiện tượng phổ biến là trong các cuộc đấu giá thì người đấu giá thành công chủ yếu là các nhà đầu tư tổ chức. Loại trừ khả năng các nhà đầu tư tổ chức có kinh nghiệm, kỹ năng phân tích và “ trường vốn” hơn thì người ta cũng nghi ngờ các nhà đầu tư này nhận được nhiều thông tin chất lượng hơn so với các nhà đầu tư cá thể. Thật vậy, quy chế đấu giá do UBCKNN ban hành chỉ yêu cầu các Trung tâm giao dịch chứng khoán công bố tổng số nhà đầu tư tham gia đấu giá và tổng lượng cổ phiếu đặt mua, còn các thông tin có ảnh hưởng rất lớn đến việc đặt giá như cơ cấu nhà đầu tư cũng như khối lượng đăng ký cụ thể của từng nhà đầu tư không được công bố. Tuy nhiên, thực tế thông tin này lại không được bảo mật chặt chẽ mà được cung cấp cho những nhà đầu tư lớn có tổ chức. Và nhờ nắm được chi tiết về tổng cầu cổ phiếu của thị trường mà các nhà đầu tư này có thể tính toán được hợp lý mức giá bỏ thầu. Còn các nhà đầu tư khác không có thông tin phải mua cổ phiếu với giá bị đẩy lên cao rất nhiều lần. Kết quả nhiều nhà đầu tư bỏ tiền đặt cọc, không mua cổ phiếu nữa. Vấn đề thiếu minh bạch nữa trong công tác đấu giá cổ phần là Ban giám đốc công ty có xu hướng che giấu thông tin để “ dìm giá”sao cho những người nội bộ công ty có thể mua được cổ phiếu với giá thấp nhất. Theo quy định, thông báo về việc đấu giá phải được đăng trên một tờ báo trung ương và một tờ báo địa phương trong ba số liên tiếp. Tuy nhiên, để giấu thông tin, công ty đăng tải trên những báo/tạp chí không phổ biến hay đăng tải vào thời điểm sát với hai ngày nghỉ cuối tuần làm cho nhà đầu tư có ít thời gian để nghiên cứu. Ngoài ra, các bản cáo bạch cung cấp cho nhà đầu tư thường không có đầy đủ thông tin về tình trạng tài sản, nhất là đất đai của doanh nghiệp. Thực tế này làm cho việc định giá giá trị doanh nghiệp thường không chính xác. Điển hình cho tình trạng thiếu minh bạch này là vụ giấu các quyết định thuê đất trong cuộc đấu giá cổ phần của công ty Intimex ( thuộc Bộ Thương mại ). Thông tin này được giấu kín, chỉ có một số người trong nội bộ công ty biết. Đến khi đấu giá xong, các nhà đầu tư mới biết công ty đang nắm giữ một khối bất động sản khổng lồ vừa được cơ quan có thẩm quyền cho thuê và một dự thảo hợp đồng về việc chuyển nhượng toàn bộ khu cửa hàng siêu thị Intimex cho một nhà đầu tư bất động sản nước ngoài với giá khoảng 28 triệu USD. Trong vấn đề này, ngoài ý thức thiếu minh bạch của doanh nghiệp, ta còn thấy xuất hiện những kẽ hở trong trong quy định của pháp luật về vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp để doanh nghiệp lợi dụng, đó là nhà nước chưa quy định phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp, trong bản cáo bạch không bắt buộc phải công bố những sự kiện sẽ xảy ra đối với doanh nghiệp sau cổ phần hóa trong tương lai gần. Vì vậy, việc Intimex không đưa nội dung dự thảo hợp đồng chuyển nhượng cửa hàng và giá trị quyền sử dụng các khu đất nêu trên vào bản cáo bạch không có gì sai phạm. Điều đáng nói là hành động này làm cho nhiều nhà đầu tư không tin tưởng vào các thông tin công bố trong bản cáo bạch đấu giá cổ phiếu các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa nói riêng và bản cáo bạch của các doanh nghiệp niêm yết nói chung. Một vấn đề đáng lưu ý là hiện nay tình trạng rò rĩ thông tin vẫn còn tồn tại dẫn đến tình trạng tư lợi thông tin mà ta thường gọi là “ giao dịch nội bộ”, “ giao dịch nội gián”. Đây là hành vi của nhà đầu tư cá nhân hoặc nhà đầu tư tổ chức có được thông tin nội bộ có giá trị và sử dụng thông tin đó trước khi thông tin được công bố ra công chúng, để mua, bán cho chính mình hoặc cung cấp cho bên thứ ba để hưởng hoa hồng , với khoản thu trái pháp luật lớn hơn từ thông tin nội bộ có giá trị mà có được. Từ khi thị trường chứng khoán ra đời cho đến nay, có không ít giao dịch bị nghi ngờ là sử dụng “ thông tin nội gián”. Các giao dịch này có thể nhận thấy từ sự điều chỉnh mạnh của giá cổ phiếu, từ hành vi mua bán bất thường của nhà đầu tư trên thị trường. Đơn cử là trường hợp cổ phiếu BBT đã được một số nhà đầu tư bán ra ồ ạt trước cả ngày các công ty chứng khoán nhận được thông tin chính thức về báo cáo hoạt động kinh doanh không mấy khả quan của CTCP Bông Bạch Tuyết. Hay giao dịch liên quan đến cổ phiếu của Công ty bánh kẹo Bibica. Ở thời điểm công ty đang rối ren trong vụ biến lỗ thành lời cho năm tài chính 2002, một thành viên Hội đồng quản trị đã bán ra hơn 40.000 cổ phiếu của công ty. Khi đó, giới đầu tư nghi ngờ rằng do biết được nội tình nên thành viên này tiến hành bán trước cổ phiếu để tránh sự sụt giảm giá sau này. Và quả thật, 6/2003 thành viên này đã rời khỏi công ty. Ngoài ra, những bất bình thường trong việc bán đấu giá cổ phần của Công ty Xuất Nhập Khẩu Intimex ( thuộc Bộ Thương mại ) có thể coi là một sư kiện điển hình về “ thông tin nội gián” trong đấu giá cổ phần. Bởi lẽ, bản cáo bạch cho thấy đến thời điểm tổ chức đấu giá cổ phần, tình trạng tài chính của công ty không có gì sáng sủa nếu không muốn nói là rất xấu. Từ năm 2004 đến tháng 9/2006, tỷ suất lợi nhuận sau thuế/ vốn kinh doanh liên tục giảm: năm 2004 là 1.65%, năm 2005 chỉ còn 0.76% và ba quý đầu năm 2006 rơi xuống số âm ( -18.01%). Số tiền bù lỗ và nợ phải trả gần 105 tỷ đồng. Thế nhưng, giá đấu thành công của cổ phiếu lại cao gấp 16 lần mệnh giá ( mức giá sàn 10.000đ/CP, giá trúng cao nhất là 162.100đ/ CP, mức giá trúng thứ hai là 160.000đ/ CP ). Điều đáng nói nữa là có 10 nhà đầu tư cá nhân đặt mua với giá hoàn toàn giống nhau 160.000đ/CP và số lượng mua của 10 nhà đầu tư này vừa đúng với số cổ phiếu bán ra là 1.682.800 CP. Và ngạc nhiên hơn, 10 nhà đầu tư cá nhân ấy không ai khác, đó là Tổng giám đốc, vợ Tổng giám đốc, Kế toán trưởng, Phó trưởng phòng kế toán, Trưởng phòng Tổ chức cán bộ và vợ… Một thực trạng nữa là hiện nay các tin đồn thất thiệt xuất hiện ngày càng nhiều. Các tin này thường được tung ra trên các diễn đàn chứng khoán, trên các sàn giao dịch chứng khoán hoặc qua truyền miệng. Ví dụ như cách đây không lâu có một mẫu tin đăng vu vơ trên trang web có địa chỉ www.tintuconline.saleoff.com.vn nhưng nội dung rất đáng chú ý: UBCKNN không phản đối việc phát hành cổ phiếu để trả cổ tức cho CTCP SX-TM-DV Phú Phong. Trong diễn biến thị trường lúc đó hết sức sôi động, thông tin này đồng nghĩa với khả năng “ kích cầu” vì xu hướng săn lùng các cổ phiếu có tin chia thưởng hay phát hành thêm rất thịnh hành. Tuy nhiên, điều bất ngờ là chính Công ty Phú Phong ngày 24/05 lại gửi công văn đến TTGDCK Hà Nội để đính chính với nội dung: Công ty chưa nộp bất kỳ một hồ sơ nào để đăng ký phát hành thêm cổ phiếu để trả cổ tức cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sau khi TTGDCK Hà Nội có thông báo chính thức thì trên trang web www.tintuconline.sale

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBai hoan chinh.pdf
Tài liệu liên quan