MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN 3
I. Khái quát về ngân hàng thương mại 3
1. Khái niệm Ngân hàng thương mại 3
2. Ngân hàng ra đời là một tất yếu khách quan 3
3. Các chức năng của NHTM 4
4. Các loại hình Ngân hàng thương mại 6
5. Vai trò cơ bản về hệ thống Ngân hàng Việt Nam 7
6. Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại 8
II. Lý luận cơ bản chức năng huy động vốn của ngân hàng 11
III. Một số hình thức huy động vốn 14
1. Tiền gửi có thể phát séc 14
2. Tiền gửi phi giao dịch 15
3. Trái phiếu ngân hàng 16
IV. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của công tác huy động vố ở ngân hàng thương mại 17
1. Tính ổn định của nguồn vốn 18
2. Chi phí huy động vốn 19
3. Lãi suất huy động 19
4. Các hiệu quả huy động vốn 20
5. Khả năng đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh của Ngân hàng 21
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM VIỆT NAM 22
I. Thực trạng huy động vốn của NHTM Việt Nam hiện nay 22
1. Về các hình thức huy động 22
2. Về khối lượng huy động vốn 23
3. Về các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn 27
II. Đánh giá tình hình huy động vốn của NHTM Việt Nam hiện nay 28
1. Một số kết quả đạt được 28
2. Một số hạn chế 29
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN 31
I. Một số giải pháp trong công việc huy động vốn của ngân hàng thương mại 31
II. Một số kiến nghị đối với việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại 31
KẾT LUẬN 34
38 trang |
Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 9169 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biện pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a thanh toán hộ cho khách hàng của mình về các khoản tiền mua bán, dịch vụ thông qua việc thu hộ, chi hộ khách hàng của mình bằng các hình thức trên.
b. Dịch vụ môi giới: mua, bán chứng khoán cho khách hàng và làm đại lý phát hành chứng khoán cho Công ty.
c. Các nghiệp vụ trung gian khác: dịch vụ ủy thác, bảo quản hộ các chứng từ có giá cho khách hàng thuê két sắt. Ngoài ra Ngân hàng còn thực hiện một số dịch vụ trung gian khác.
Tóm lại, ba nghiệp vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho Ngân hàng tồn tại và phát triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Vì các nghiệp vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ thường xuyên tác động qua lại với nhau. Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn, ngược lại nhu cầu sử dụng vốn ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu của nguồn vốn huy động. Các nghiệp vụ trung gian tạo thêm thu nhập cho Ngân hàng nhưng mục đích chính là thu hút khách hàng qua đó tạo điều kiện cho việc huy động và sử dụng vốn co hiệu quả.
II. LÝ LUẬN CƠ BẢN CHỨC NĂNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG
Ngân hàng là con đẻ, là sản phẩm tất yếu khách quan của nền kinh tế hàng hoá. Khi ra đời Ngân hàng lại thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển. Do đó, đối với hình thái kinh tế nào, đặc biệt là nền kinh tế thị trường, hoạt động ngân hàng là không thể thiếu được nó giử vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế.
Do vậy muốn phát triển nền kinh tế thị trường thì đIều đầu tiên là phát triển hoạt động ngân hàng.
Nếu coi cơ chế thị trường là cơ thể sống thì ngân hàng là huyết mạch của cơ thể sống đó.
Lật lại lịch sử phát triển, chúng ta có thể thấy, sự ra đời và phát triển của hệ thống Ngân hàng gắn với tư bản hoá tiền tệ, mà tiền thân của nó là tư bản cho vay nặng lải đã từng tồn tại trong thời kì phân rả của chế độ nguyên thuỷ. Sự phát triển mạnh của quan hệ hàng hóa-tiền tệ đã đòi hỏi khách quan sự ra đời của các tổ chức và họat động Ngân hàng . Lúc này tư bản tiền tệ nhàn rổi đã bắt đầu xuất hiện phục vụ tư bản công nghiệp với lải suất thấp.
Như vậy, tư bản công nghiệp đã trả một phần lợi thu được cho người cho vay do việc sử dụng vốn vay vào sản xuất dưới hình thức lợi tức. Cơ chế phân chia lợi tức và lợi nhuận lúc đàu kinh doanh là ngẩu nhiên, nhưng khi tư bản hoạt động và tư bản sở hửu được phân định rỏ ràng thì cơ chế phân chia được đIều chỉnh, một nhóm tư bản nhận lợi tức và bên kia nhận lợi nhuận. Sự phát triển trong quan hệ hàng-tiền trong công nghiệp tạo điều kiện cho phát triển Ngân hàng, tư bản trong thương nghiệp. Tư bản trong thương nghiệp là tiền thân của tư bản có khả năng đem lại lải xuất. Tuy buôn bán tiền tệ là chức năng chủ yếu, các chức năng khác của ngân hàng được bổ sung dầnvới sự phát triển của quan hệ hàng-tiền và của nền kinh tế hàng hoá.
Theo Mác, các bộ phận cấu thành tư bản Ngân hàng bao gồm: vàng, giấy bạc và các chứng khoán. Đến lược mình ngân hàng lại phân thành vốn tự có và vốn đi vay. Chính vì lí do đó mà có thể kết luận rằng tiền gửi là yếu tố cấu thành nghiệp vụ tín dụng-ngân hàng. Các thành phần của nền tảng trên bao gồm:
- Vốn nhàn rổi
- Các loại quỉ được huy động
- Thanh toán trung gian cho khách hàng trên tài khoản
- Vốn tự có của ngân hàng
Hoạt động huy động vốn từ tiền của công chúng là đặc trưng cơ bản nhất của hoạt động Ngân hàng, là tiêu thức để đánh giá và phân biệt Ngân hàngvới các tổ chức tài chính khác. Do đặc trưng này mà chức năng cơ bản của Ngân hàng là đi vay và cho vay. Vì thế vốn huy động chiếm tỷ lệ cao trong tổng số vốn hoạt động của Ngân hàng. Như vậy vốn tự có của Ngân hàng sẻ ít hơn rất nhiều so với vốn huy động nhưng nó rất quan trọng.
Ngân hàng ra đời thúc đẩy nền kinh tế phát triển, với chức năng huy động vốn, Ngân hàng thực hiện chức năng phân phối và tái phân phối vốn, tiền tệ xã hội, tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong nền kinh tế hàng hoá nhất là trong nền cơ chế thị trường mọi hàng hoá đều được biểu thị bằng giá cả thông qua tiền tệ. Vốn huy động và vốn cho vay của Ngân hàng cũng là một loại hàng hoá. Nó cũng được biểu hiện bằng tiền và giá cả trong quá trình sử dụng vốn. Giá cả đó chính là lải suát tiền vay mà Ngân hàng phải trả cho người cho vay và đòi lại ở người vay vốn từ Ngân hàng. Chúng ta biết rằng, việc phân chia lợi nhuận thành lợi nhuận thương nghiệp, lợi nhuận công nghiệp và lải xuất là quá trình phân phối lại lợi nhuận xã hội đối với người trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất.
Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, khái niệm " tiền đẻ ra tiền " được xem như là một qui luật. Chính vì vậy, nhờ qui luật này mà nó tác động vào những người có vốn nhàn rổi muốn có khoản thu tiền lớn hơn (thu nhập từ tiền nhàn rổi của mình) sẻ đem đàu tư trực tiếp vào quá trình sản xuất, kinh doanh hoặc gửi tiền tiết kiệm vào Ngân hàng, để sau một khoảng thời gian nhất định thu dược một số lợi tức nào đó. Đây là cơ sở và nguồn gốc để các Ngân hàng thực hiện được các chức năng cơ bản của mình, đó là huy động vốn nhàn rổi từ các lớp dân cư và các tổ chức trong nền kinh tế. Qua đó Ngân hàng đã thực hiện được vai trò rất quan trọng của mình với tư cách là một trung gian tài chính, góp phần vào quá trình chu chuyển vốn nằm rải rác trong dân cư để trở thành khoản vốn lớn mà nhu cầu đầu tư trong nền kinh tế đòi hỏi.
Tính tất yếu của Ngân hàng trong vai trò trung gian tài chính được thể hiện theo chu kì khép kín:
Huy động vốn- Trung gian tài chính-Sử dụng vốn.
Trong đó Ngân hàng đóng vai trò chủ yếu trong mối quan hệ ràng buộc giữa người vay tiền, người gửi tiền và Ngân hàng. Đồng thời, Ngân hàng còn có ý nghĩa quyết định việc kích thích tăng trưởng nguồn vốn huy động vào Ngân hàng thông qua giải quyết tốt mối quan hệ và quyền lợi của cả ba bên
Người gửi tiền
Người vay tiền
Ngân hàng
III. MỘT SỐ HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN
1.Tiền gửi có thể phát séc
Đây là những tài khoản ở một ngân hàng, người sở hữu chúng có quyền được phát séc cho những người thuộc bên thứ 3. Các khoản tiền gửi có thể phát séc gồm tất cả các tài khoản sau : tài khoản séc không có lãi (tiền gửi không kỳ hạn), các tài khoản NOW có lãi (NOW-negotiable order of withdrawal-lệnh thu hồi có thể mua bán ), các tài khoản super-NOW, và các tài khoản tiền gửi thị trường tiền tệ (MMDA). Tiền gửi có thể phát séc là nguồn vốn quan trọng của ngân hàng.
Tiền gửi có thể phát séc là tiền gửi có thể được thanh toán theo yêu cầu; tức là , nếu người gửi tới ngân hàng gửi vừa đòi thanh toán bằng cách viết ra một giấy rút tiền, ngân hàng đó sẽ thanh toán cho khách hàng đó ngay lập tức. Tương tự, nếu một người nhận được một tấm séc phát theo một tài khoản ở một ngân hàng, khi ngân hàng đó nhận được tấm séc này, ngân hàng đó phải chuyển ngay lập tức số tiền ấy vào tài khoản của người đó.
Tiền gửi có thể phát séc là một tài sản có đối với người gửi nó, bởi vì nó là một phần của cải của người gửi nó. Ngược lại, bởi vì người gửi tiền này là có thể rút vốn khỏi tài khoản của ông ta, vốn đó ngân hàng có nghiã vụ thanh toán, do đó các tiền gửi có thể phát séc là một tài sản nợ của ngân hàng.Tiền gửi này thường là nguồn vốn ngân hàng có phí tổn thấp nhất bởi vì những người bỏ tiền sẵn lòng bỏ qua số tiền lãi để có được một tài sản lỏng có thể dùng để mua hàng. Những chi phí của ngân hàng cho việc duy trì tiền gửi có thể phát séc bao gồm tiền thanh toán lãi và những chi phí trong việc phục vụ những tài khoản này . [Xử lý và lưu giữ những séc đã thanh toán, soạn và gửi các thông báo tình hình hàng tháng, cung cấp những thủ quỹ có năng lực hoàn thành công việc (người hoặc máy), duy trì một toà nhà gây dược ấn tượng, và quảng cáo / marketing tới những khách hàng hấp dẫn để họ gửi vốn vào một ngân hàng nhất định nào đó.]
2.Tiền gửi phi giao dịch
Tiền gửi phi giao dịch là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng. Chúng có đặc tính chung là được hưởng tiền lãi và người sở hữu chúng không được quyền phát séc. Mức lãi suất của chúng thường cao hơn tài khoản séc bởi vì những người gửi tiền đó không được hưởng nhiều những dịch vụ như đối với các tài khoản séc. Tiền gửi phi giao dịch gồm hai loại chính: tài khoản tiết kiệm và tiền gửi kỳ hạn hay còn gọi là giấy chứng nhận tiền gửi (certificate of deposits-CD).
2.1.Tài khoản tiết kiệm
Với tài khoản tiết kiệm, vốn có thể được thêm vào hay rút ra bất kỳ lúc nào, những giao dịch và tiền thanh toán lãi được ghi trong một cuốn sổ nhỏ (sổ tiết kiệm do người sở hữu tài khoản giữ) hoặc trong thông báo tình hình hàng tháng. Về mặt kỹ thuật dạng tiền gửi này không được rút ra khi yêu cầu (Ngân hàng có thể đợi đến 30 ngày để thanh toán ); tuy nhiên do sự cạnh tranh các món gửi, các ngân hàng cho phép những người gửi rút tiền khỏi tiền gửi tiết kiệm của họ ngay.
2.2.Tiền gửi kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn là tiền gửi vào hoặc rút ra khỏi Ngân hàng theo định kỳ nhất định.
Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn rất quan trọng, đặc biệt nó đảm bảo cho Ngân hàng ổn định, giúp cho Ngân hàng hoàn toàn chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn.
Tiền gửi kỳ hạn có thời gian đến ngày mãn hạn cố định trước trong khoảng một vài tháng đến hơn 5 năm, và có những khoản phạt đáng kể cho trường hợp rút tiền trước hạn (bị mất tiền lãi của một vài tháng). Tiền gửi tiết kiệm loại nhỏ là loại kém lỏng hơn so với tiền gửi tiết kiệm có sổ tiết kiệm: chúng có lãi suất cao hơn và là nguồn vốn có chi phí lớn hơn đối với các ngân hàng có hình thức gửi này .
Tiền gửi kỳ hạn loại lớn (CD) chủ yếu do các công ty hoặc các ngân hàng khác mua. CD loại lớn là loại có thể mang bán, do đó giống như một trái khoán, chúng có thể được bán lại ở thị trường cấp hai trước khi mãn hạn. Vì lí do này, loại CD có thể bán được này các công ty, các quỹ tương trợ thị trường tiền tệ và các tổ chức tài chính khác nắm giữ như là tài sản thay thế cho các tín phiếu kho bạc và những trái khoán ngắn hạn khác .
3.Trái phiếu ngân hàng
Trái phiếu ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn dưới hình thức giấy nhận nợ của các tổ chức tín dụng, phát hành để huy động vốn trong đó cam kết trả lãi và gốc cho người mua (hoặc người sở hữu sau một thời gian nhất định. Về phía người mua, trái phiếu ngân hàng là giấy chứng nhận việc đầu tư vốn và quyền được hưởng thu nhập của người mua trên số tiền mua trái phiếu .
Trái phiếu ngân hàng được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới các hình thức mua, bán, cho, tặng, thừa kế. Người sở hữu trái phiếu có thể dùng trái phiếu thế chấp tiền vay nếu được người cho vay chấp nhận và được thừa kế theo luật thừa kế .
Trái phiếu ngân hàng có thể phát hành dưới hai hình thức: trái phiếu có ghi tên hoặc trái phiếu không ghi tên.
Thời hạn của trái phiếu ngân hàng từ 01 năm trở lên. Thời hạn cụ thể do các tổ chức tín dụng quyết định tuỳ theo phương án sử dụng vốn huy động từ trái phiếu.
Nguồn vốn huy động huy động từ trái phiếu ngân hàng là nguồn vốn dài hạn của các tổ chức tín dụng, chủ yếu để đầu tư theo các dự án. Các tổ chức tín dụng không phải thực hiện dự trữ bắt buộc trên số vốn huy động từ trái phiếu ngân hàng. Các tổ chức tín dụng vừa có thể trực tiếp phát hành, vừa có thể tổ chức thực hiện các dịch vụ cất trữ, mở tài khoản, thanh toán môi giới mua bán và mua bán trái phiếu.
Lãi suất của trái phiếu do các tổ chức tín dụng ấn định trên cơ sở quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường, sao cho có thể khuyến khích, động viên được người gửi vốn dài hạn, người vay có thể chấp nhận được, tổ chức tín dụng đảm bảo hiệu quả kinh doanh.
Phương thức trả lãi :
+Để đáp ứng các yêu cầu khác của người mua, tổ chức tín dụng có thể lựa chọn 1 trong 3 phương thức sau :
1.Trả lãi trước : tức bán trái phiếu thấp hơn mệnh giá, khi đến hạn người mua sẽ lĩnh số tiền theo mệnh giá và được hưởng lãi số tiền chênh lệch giữa mệnh giá và giá mua.
2.Trả lãi sau : Trái phiếu được bán theo mệnh giá, khi đến hạn người mua sẽ lĩnh số tiền theo mệnh giá và được hưởng lãi là số tiền chênh lệch giữa mệnh giá và giá mua.
3.Trả lãi từng kỳ sáu tháng hoặc một năm căn cứ vào mức lãi ghi trên các phiếu lĩnh lãi kèm theo trái phiếu.
Các tổ chức tín dụng có thể trả lãi theo lãi suất có điều chỉnh định kỳ, căn vào một mức lãi suất làm cơ sở đã được Thống đốc ngân hàng nhà nước quyết định .
IV. MỘT VÀI CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Hiệu quả là cái đích mà mỗi chủ thể, thành phần kinh tế khi tham gai hoạt động kinh doanh đều phải hướng tới vì hiệu quả chính là nhân tố cấu thành lợi nhuận cuối cùng. Ngân hàng muốn thu được lợi nhuận cao, tạo được vị thế, uy tín trên thị trường thì hoạt động của Ngân hàng phải có hiệu quả. Một tring những hoạt động đòi hỏi Ngân hàng phải thực hiện có hiệu quả đó là công tác huy động vốn của Ngân hàng. Như phần trước đã đề cập, huy động vốn và hoạt động cơ bản của Ngân hàng, tạo điều kiện để Ngân hàng thực hiện các hoạt động khác, mặt khác vốn được huy động từ nhiều nguồn khác nhau và Ngân hàng sử dụng số huy động này với trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi, đồng thời phải đảm bảo một tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Cho nên hiệu quả của công tác huy động vốn là vấn đề quan tâm hàng đầu trong hoạt động của Ngân hàng thương mại. Chính tầm quan trọng của công tác huy động vốn nên có rất nhiều các chỉ tiêu đã được các Ngân hàng đưa vào sử dụng để đánh giá về tính hiệu quả. Sau đây là một vài chỉ tiêu mà theo tôi các Ngân hàng không thể bỏ qua trong quá trình đánh giá.
1. Tính ổn định của nguồn vốn.
Tính ổn định ở đây bao gồm ổn định về khối lượng, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu nguồn.
Thật vậy, công tác huy động vốn không thể có hiệu quả khi mà nguồn vốn huy động được lại không đạt được quy mô nhất định theo kế hoạch huy động của Ngân hàng hay không đáp ứng nổi nhu cầu về khối lượng vốn cho kinh doanh, cơ cấu vốn của Ngân hàng lại không có sự hợp lý giữa các nguồn vốn huy động ngắn hạn, trung và dài hạn, giữa vốn ngoại tệ và vốn nội tệ. Đối với Ngân hàng, do mỗi nguồn vốn có những điểm mạnh, điêm yếu riêng trong việc khai thác và huy động nên cơ cấu vốn biến đổi sẽ dẫn tới sự biến đổi trong cơ cấu đầu ra, cho vay, đầu tư, bảo lãnh và kéo theo sự thay đổi trong lợi nhuận, rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Cơ cấu nguồn vốn huy động phụ thuộc không chỉ vào một phần kế hoạch của Ngân hàng mà còn chịu sự tác động của các nhân tố bên ngoài đòi hỏi Ngân hàng phải thường xuyên nghiên cứu tiếp cận thị trường.
Khối lượng vốn huy động phản ánh quy mô vốn. Quy mô vốn lớn sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng thì quy mô vốn huy động là một bộ phận chiếm tỷ trọng cao nhất và có vai trò quan trọng hơn cả. Sau khi đã huy động được khối lượng vốn lớn thì cái mà Ngân hàng cần quan tâm lúc này là tốc độ tăng trưởng ổn định của nó vì có thể lúc này quy mô vốn lớn, nhưng sẽ là khó khăn cho Ngân hàng khi đưa ra quyết định cho vay hay đầu tư nếu Ngân hàng không kiểm soát, không dự đoán được xu hướng biến động của dòng tiền rút ra và dòng tiền gửi vào.
2. Chi phí huy động vốn.
Chi phí huy động vốn là chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiệu quả của công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại. chi phí huy động vốn bao gồm chi phí trả lãi và các chi phí có liên quan khác.
Một Ngân hàng không thê coi là thành công trong việc huy động vốn nếu để có được một khối lượng vốn lớn nó phải bỏ ra chi phí huy động vốn quá lớn. Bởi cũng giống như các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh lợi nhuận của Ngân hàng cũng được tính bằng công thức: doanh thu - chi phí. Đối với Ngân hàng lãi suất trả cho các khoản tiền vay huy động tỷ lệ cao nhất.
3. Lãi suất huy động.
Như chúng ta đã biết Ngân hàng là trung gian tài chính, đóng vai trò là cầu nối, dung hòa lợi ích giữa người gửi tiền và người cho vay, mà vẫn đảm bảo được lợi nhuận cho Ngân hàng. Không phải ngẫu nhiên nguồn vốn chảy vào bể chứa Ngân hàng, do Ngân hàng nhận thức vấn đề quan tâm hàng đầu của các chủ thể kinh tế là lãi suất.Người gửi tiền muốn một lãi suất cao để đồng tiền của mìnhthu về được nhiều lãi, trong khi đó người vay tiền lại muốn có một lãi suất thấp để tiết kiệm chi phí sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận. Lãi suất huy động càng cao thì càng kích thích khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng, tuy nhiên nếu lãi suất đầu vào đã cao thì sẽ tác động không tốt đến lãi suất đầu ra và tất yếu lợi nhuận của Ngân hàng cũng không tránh khỏi bị biến động. Do vậy, trong huy động vốn, mỗi Ngân hàng cũng không tránh sử dụng nhiều biện pháp khác nhau sao cho tìm kiếm được những nguồn vốn có chi phí huy động thấp nhất (đưa ra một tỷ lệ lãi suát hợp lý để huy động được và sử dụng để huy động được và sử dụng để cho vay với lãi suất cao nhất mà vẫn được thị trường chấp nhận) chi phí huy động được đánh giá qua hệ thống các chỉ tiêu lãi suất các nguồn theo khối lượng từng nguồn), lãi suất huy động của từng nguồn và đặc biệt là lãi suất cạnh tranh NEC.
Các Ngân hàng cần có một chính sách lãi suất trong đó cần chú trọng tính đa dạng hóa lãi suất cho phù hợp với mỗi hình thức huy động (căn cứ vào từng loại tiền, kỳ hạn, đối tượng tiền gửi). Một Ngân hàng có chính sách lãi suất đúng đắn nếu Ngân hàng tối thiểu hóa được chi phí trong huy động vốn mà vẫn hoàn thành được kế hoạch về nguồn vốn của Ngân hàng.
Không chỉ có chi phí lãi suất, trong hoạt động huy động vốn của Ngân hàng còn phải một số chi phí nghiệp vụ khác, tiền lương, chi phí in ấn giấy tưò nghiệp vụ... Tuy chi phí này chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ nhưng nếu tiết kiệm được cũng góp phần giảm bớt gánh nặng cho Ngân hàng.
4. Các hiệu quả huy động vốn.
Hình thức huy động vốn là những cách thức Ngân hàng sử dụng để thu hút nguồn vốn. Hình thức huy động càng đa dạng thì vốn chảy vào Ngân hàng càng nhiều. Vì vậy độ đa dạng của các hình thức huy động vốn chính là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của công tác huy động vốn chính là chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả của công tác huy động ở các Ngân hàng thương mại.
Sự đa dạng các công cụ huy động được thể hiện trước hết là ở số lượng các công cụ Ngân hàng sử dụng. Tùy theo đặc điểm, mục tiêu chiến lược kinh doanh, mỗi Ngân hàng đưa ra những loại công cụ huy động. Vì thực tế, số lượng các công cụ huy động càng nhiều thì Ngân hàng càng có nhiều điều kiện thu hút được vốn, tuy nhiên số lượng các công cụ vốn lại bị hạn chế bởi khả năng quản lý của Ngân hàng. Một Ngân hàng sử dụng nhiều công cụ huy động vốn không hoàn toàn đồng nghĩa với việc công tác huy động vốn của Ngân hàng đó có hiệu quả tốt, mà nó chỉ được coi là có hiệu quả khi những công cụ đó thực sự thích hợp với Ngân hàng. Cụ thể đối với các Ngân hàng có hoạt động kinh doanh đa dạng, đội ngũ cán bộ công nhân viên Ngân hàng có trình độ cao thì Ngân hàng nên đa dạng hóa các loại công cụ huy động vốn.
Sẽ là không đủ nếu các Ngân hàng chỉ đa dạng về số lượng các công cụ mà không đa dạng về kỳ hạn huy động, loại tiền sử dụng. Chẳng hạn nếu khách hàng có nhu cầu gửi tiền với kỳ hạn mà Ngân hàng lại không có kỳ hạn đó thì dù có sử dụng nhiều công cụ huy động đến đâu Ngân hàng vẫn không thu hút được nguồn vốn đó. Do vậy, để công tác huy động vốn của Ngân hàng thực sự đạt được hiệu quả cao, Ngân hàng cần phải tính toán, nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu của thị trường, trên cơ sở năng lực bản thân đưa ra các hình thức huy động đa dạng về kỳ hạn, loại tiền. Nếu những Ngân hàng có quan hẹe quốc tế rộng thì nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ phải lớn, hay nếu có chiến lược sử dụng vốn dể cho vay dài hạn thì cần tăng cường huy động vốn trung và dài hạn..
5. Khả năng đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Ngân hàng là trung gian tài chính. Vốn của Ngân hàng trong đó vốn huy động là đầu vào chiếm tỷ trọng cao nhất và có vai trò quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Ngân hàng không thể được coi là có hiệu quả trong công tác huy động vốn nếu nguồn vốn huy động được lại thiếu hoặc thừa so với nhu cầu hoạt động của Ngân hàng. Mặt khác tình trạng không cân đối vốn trong hoạt động của bản thân Ngân hàng cũng như giữa các chi nhánh trong hệ thống, giữa các Ngân hàng lại thường xuyên xảy ra. Do vậy, công tác huy động vốn của Ngân hàng sẽ có hiệu quả nếu Ngân hàng có khả năng linh hoạt trong việc điều chuyển vốn giải quyết tình trạng thừa thiếu vốn tạm thời này, hay có khả năng đưa ra các quyết định, sự lựa chọn đúng đắn có lợi nhất, đảm bảo sự chủ động trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY.
NHTM hoạt động chủ yếu không phải bằng nguồn vốn tự có mà chủ yếu bằng nguồn vốn huy động, vì vậy hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh của mọi NHTM.
1. Về các hình thức huy động.
Nguồn vốn huy động là số vốn chủ yếu trong tổng nguồn vốn của các NHTM, các NHTM Việt Nam đã xây dựng chiến lược huy động vốn bằng nhiều hình thức: Nhận tiền gửi, tiền gửi tiết kiệm, ngoài ra còn có các hình thức huy động khác như phát hành kỳ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi có kì hạn.
- Tiền gửi không kì hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào. Ở nhiều nước thì phần lớn các giao dịch thanh toán được thực hiện bằng séc còn Việt Nam thì tài khoản được thực hiện thường gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán gồm tài khoản thanh toán dùng cho doanh nghiệp và tài khoản thanh toán cho cá nhân. Hiện nay các NHTM trả lãi thanh toán cho loại tiền gửi này (Khoảng 0,1%/tháng)
- Tiền gửi không có kì hạn: là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra sau một thời hạn nhất định ở Việt Nam trong nhưng năm qua thì tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn cũng có xu hướng tăng lên trong tổng số vốn tiền gửi có 2 loại tiền gửi có kỳ hạn đã được áp dụng:
+ Tiền gửi: Có kỳ hạn theo tài khoản:
+ Tiền gửi: Có kỳ hạn dưới hình thức phát hành trái phiếu Ngân hàng trong đó Ngân hàng chủ động phát hành phiếu nợ để huy động vốn thường nhằm mục đích đã định và được huy động theo 2 phương thức.
+ Phát hành theo mệnh giá: người mua trả tiền mua kì phiếu mệnh giá đã được ghi trên kỳ phiếu khi đến hạn Ngân hàng sẽ hoàn trả vốn gốc và thanh toán lãi cho người mua kỳ phiếu.
+ Phát hành dưới hình thức chiết khấu.
- Tiền gửi tiết kiệm: Nước ta đã có các loại tiền gửi tiết kiệm sau:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng có thể gửi, rút nhiều lần vào bất cứ lúc nào.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn là loại tiền gửi được rút ra sau một thời gian nhất định, nếu khách hàng rút trước thì phải có điều kiện là hưởng lãi suất thấp.
+ Tiền gửi tiết kiệm có mục đích là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn nhằm mục đích xây dựng nhà ở. Ngoài số tiền lãi khách hàng còn được Ngân hàng cho vay nhằm mục đích bổ sung vốn cho xây dựng nhà ở.
+ Tiền gửi có kì hạn và tiền gửi tiết kiệm được gọi chung là tiền gửi phi giao dịch.
Khi nguồn vốn huy động và nguồn vốn tự có không đủ cho nhu cầu sử dụng vốn của mình thì các NHTM còn được phép huy động phát hành kì phiếu, trái phiếu và các chứng chỉ tiền gửi có kì hạn để bổ sung nguồn vốn huy động của mình.
2. Về khối lượng huy động vốn :
Bằng các hình thức huy động vốn của mình, các NHTM nước ta đã huy động được một số lượng vốn lớn để đáp ứng cho các nhu cầu hoạt động kinh doanh của mình. Số lượng vốn huy động ngày một tăng lên chiếm 60% tổng nguồn vốn. Đây là một số trong số kết quả huy động vốn là của các NHTM.
Theo báo cáo của chi nhánh Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội đến hết quí I/2001 tổng nguồn vốn huy động của các NHTM là 58.000 tỷ đồng trong đó nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ chiếm 24.000tỷ đồng (đổi ra VNĐ) chiếm tỷ trọng 41,3% tổng nguồn vốn huy động và tăng 3,3% so với cuối năm 1990; Qua đó ta thấy việc huy đông vốn bằng ngoại tệ cũng chiếm phần lớn trong tổng số vốn huy động được.
Ngân hàng công thương việt nam(NHCT VN) với thế mạnh về mạng lưới khắp các tĩnh, thành phố trong vả nước, có quan hệ truyền thống lâu năm với các doanh nghiệp ở mọi ngành, mọi thành phần kinh tế và tầng lớp dân cư, nên NHCT VN luôn duy trì dược tốc độ tăng trưởng vốn huy động ổn định
Nguồn vốn huy động được năm 2000 là 46.768 tỷ so với đầu năm là 10.811tỷ, tốc độ tăng 30%, trong đó vốn huy động VNĐ tăng 24%, ngoại tệ tăng 53% nên kết quả đã vượt chỉ tiêu đề ra là 3%.
Năm 2002 nguồn tiền gửi đạt xấp xỉ 55 tỷ đồng, tăng 20% so với cuối năm 2001, trong đó tiền gửi VNĐ tăng 25%, tiền gửi ngoại tệ tăng 7% .Nguyên nhân cơ bản là lãi suất tiền gửi VNĐ và lãi suất USD có xu hướng trái chiều nhau vì nền kinh tế răng trưởng tương đối ổn định làm cho cầu tín dụng VNĐ tăng lên, nhu cầu vốn tăng dẫn đến các NHTM buộc phải nâng lãi suất huy động VNĐ.
Ngược lại lãi suất của đông USD bị cắt giảm xuống ở mức thấp nhấp trong 40 năm qua, (1,25%/ năm), làm cho lãi suất USD trong nước cũng bị giảm theo trong khi tỷ giá VNĐ/USD chỉ biến động rất ít ( tăng 2,1% cho cả năm).Để đáp ứng đủ vốn cho nhu cầu tín dụng cũng như ổn định thanh toán, ngoài các hình thức huy động tiền gửi thông thường, cuối năm 2002 lần đầu tiên NHCT VN phát hành trái phiếu kỳ hạn 2 năm để thu hút lượng vốn hơn 2000 tỷ đồng.
Hình thức huy động tiện gửi tiết kiệm dự thưởng cũng bắt đầu áp dụng từ năm 2002 đã lôi cuốn được sự quan tâm của đông đảo tầng lớp nhân dân có tiền nhàn rỗi muốn gửi tiền vào ngân hàng. Hiện nay nguồn tiền gửi dân cư chiếm 40% tổng nguồn vốn huy dộ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chuyên Đề Biện Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Huy Động Vốn Của NHTM Việt Nam.doc