LỜI NÓI ĐẦU 1
Chương I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢNVỀ CẠNH TRANH VÀ NÂNG
CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA HÀNG HOÁ VIỆT NAM
TRÊN THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ 3
I. Khái quát về cạnh tranh và các loại hình cạnh tranh 3
II. Những biện pháp chung về nâng cao khả năng cạnh tranh của
hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế 10
III. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá
Việt Nam trên thị trường thế giới 11
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA HÀNG
VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI 16
I. Đặc điểm tình hình kinh tế và hàng hoá Việt Nam trong
xuất - nhập khẩu 16
II. Tình hình xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam những năm vừa qua 18
III. Phân tích khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên
thị trường thế giới 19
IV. Đánh giá chung về hàng hoá việt nam trên thị trường thế giới 28
CHƯƠNG III. BIỆN PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA
HÀNG HOÁ VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI 29
I. Mục tiêu và phương hướng phát triển, xuất nhập khẩu hàng hoá Việt nam 29
II. Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá
Việt Nam trên thị trường thế giới 31
III. Điều kiện, tiền đề để thực hiện các giải pháp về nâng cao khả năng
cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế 33
KẾT LUẬN 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC
39 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ếu, một thành thực đối với các nhà hoạt động thị trường nhằm mục đích tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá khi gia nhập thị trường quốc tế và các nước trong khu vực.
+ Những chính sách hỗ trợ của nhà nước
ở góc độ Công ty, cơ sở sản xuất, chúng ta đều biết rằng vị thế cạnh tranh tuỳ thuộc một phần vào quy mô sản xuất, một phần vào khả năng về vốn dồi dào để vòng quay vốn liên tục. Trong quan hệ quốc tế cạnh tranh gay gắt đặt ra nhiều vấn đề cạnh tranh quốc tế ở những khía cánhau hàng chục Công ty đa quốc gia cạnh tranh với tất cả sứ mệnh của họ các ngành kinh tế mõi nhọn tham gia cạnh tranh khai thác những thành tựu mới nhất về khoa học kỹ thuật để thắng trong cạnh tranh các Ngân hàng quốc tế, thị trường, chứng khoán, thị trường quốc tế trong hàng chục Mỹ Kim vào chiến tranh thương mại, chiến tranh lãi suất, chiến tranh hồi suất (phá giá tiền lôii cuốn tiền tế khai phá giá theo) lập các khối thị trường chung EU,
Nam Mỹ và ASEAN … các biện pháp bảo vệ mậu dịch, phân biệt đối xử, bảo vệ xuất nhập khẩu.
Trong bối cảnh này các quốc gia cần huy động tối đa tài chính để nâng đỡ Công ty, xí nghiệp của mình tập chung thúc đẩy sản xuất lập các khu chế xuất để tạo ra sức mạnh, ký kết các hiệp ước về xuất nhập khẩu để giành chỗ đứng trên thị trường cho các hàng hoá của nước mình.
Thị trường cho hàng hoá của Việt Nam trên thế giới cũng như nhiều nước khác luôn khó khăn. Vấn đề thị trường không phải chỉ là vấn đề của một nước riêng lẻ nào mà trở thành vấn đề trọng yếu của nền kinh tế thị trường. Vì vậy việc hình thành một hệ thống các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá trở thành một công cụ quan trọng nhất để chiếm lĩnh thị trường cũng như việc nhằm mục đích nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá của nước mình so với hàng hoá cùng loại của các nước khác. Nhà nước cần hỗ trợ sản xuất hàng xuất khẩu, nâng cao chất lượng hình thức, mẫu mã, bao bì với chi phí thấp, tạo điều kiện cho những doanh nghiệp sản xuất hàng hoá tự do cạnh tranh trên thị trường nước ngoài.
Ngoài ra, nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách. Nhà nước tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình trong nước và cam kết quốc tế, đơn giản hoá các sắc thuế, thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt theo cung cầu ngoại tê. Tăng cường mở rộng thêm thị trường ở nước ngoài, xác định thời hạn bảo hộ hợp lý và có hiệu quả đối với một số sản phẩm quan trọng, tích cực chuẩn bị, mở rộng, hội nhập thế giới. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.
+ Khoa học – kỹ thuật
Đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, việc áp dụng các tiến độ của khoa học kỹ thuật là một bước đột phá lớn trong lĩnh vực sản xuất hàng hoá phục vụ nhu cầu của thị trường. Việc áp dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật không những làm cho năng suất lao động tăng cao, chất lượng sản phẩm được đảm bảo, sản phẩm mang tính đồng nhất cao.
Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội từ sử dụng sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương
pháp tiên tiến, hiện tại tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp với các hàng nông sản là chính, sản phẩm nông nghiệp mang đặc tính nhiệt đới, thế mạnh của hàng hoá Việt Nam chủ yếu là nông sản. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất làm tăng năng suất lao động xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, chất lượng hàng nông sản được chế biến một cách kỹ càng và đồng nhất thông qua một hệ thống các dây chuyền sản xuất, tinh chế: cafe, chè…khoa học kỹ thuật giúp doanh nghiệp sản xuất hàng hoá tăng năng suất lao động, giảm đáng kể sức lao động của người công nhân dẫn đến chi phí sản xuất giảm, giá cả của hàng hoá từ đó cũng giảm theo tạo ra lợi thế cạnh tranh cho hàng hoá khi gia nhập thị trường quốc tế với những sản phẩm cùng loại.
Đối với những nước đi sau như nước ta, tình hình không giống như các nước tư bản ở thế kỷ 18,19 khi mà mọi công nghệ cần thiết cho công nghiệp hoá đều phải chỗ những phát minh khoa học làm cơ sở cho sự phát triển công nghệ đó hoặc phải có thời gian dài đúc kết và hoàn thiện dần trong thực tiễn sản xuất. Ngày nay, hầu hết các công nghệ cần thiết cho công nghiệp tiền tệ, thậm chí còn thay đổi rất nhanh, buộc họ phải chuyển giao các công nghệ đã lạc hậu của họ cho các nước đi sau vấn đề ngày nay không còn là phải tự mình sáng tạo mà là phải nắm bắt được những công nghệ tiên tiến nhất mà là công nghệ đem lại hiệu quả kinh tế xã hội và có điều kiện tiếp nhận chuyển giao công nghệ.
Điều kiện quốc tế mới đã mở ra cho chúng ta con đường đi tắt tới việc cho phép thực hiện công nghiệp hoá trong một thời gian rất ngắn không phải trải qua tuần tự các bước như của các nước đã đi trước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải động viên các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp tích cực tham gia đầu tư phát triển xử lý tốt mối quan hệ trên thị trường. Việc xây dựng các chiến lược phát triển công nghệ trong lĩnh vực sản xuất phải xuất phát từ những yêu cầu của sản xuất sản phẩm và định hướng phát triển, chiếm lĩnh thị trường thế giới. Giá cả phần lớn hàng hoá, dịch vụ được hình
thành trên thị trường phản ánh nhu cầu xã hội nhu cầu về hàng hoá.
Từ những phân tích trên và thực tế cho thấy yếu tố khoa học kỹ thuật trong sản xuất hàng hoá là rất cần thiết đối với thị trường quốc tế, hàng hoá trên thị trường của các doanh nghiệp, hãng, Công ty sản xuất hàng hoá cung cấp trên thị trường, họ đều áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất, chất lượng sản phẩm cao, mẫu mã đẹp, sản phẩm đồng nhất, tính cạnh tranh cao.
Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất hàng hoá khi tham gia thị trường quốc tế là phải không ngừng đổi mới sản xuất, thiết bị, dây chuyền sản xuất, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm.
Để cạnh tranh thắng lợi, chiếm lĩnh được tỷ phần thị trường thế giới trước hết cần trú trọng đến chất lượng và giá cả của sản phẩm tham gia cạnh tranh. Để sản phẩm có chất lượng tốt cần chú ý đến khâu sản xuất. Cạnh tranh trên thị trường quốc tế luôn diễn ra rất gay gắt quyết liệt chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị doanh nghiệp luôn không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng nghĩa với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Tóm lại: Khi một hàng hoá gia nhập thị trường thế giới phải chịu sự cạnh tranh rất gay gắt của các hãng có sản phẩm cùng loại, chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố. Bên cạnh các yếu tố chính nên trên. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá còn phụ thuộc nhiều vào yếu tố khác liên quan đến người tiêu dùng sản phẩm, vào các yếu tố khác liên quan đến người tiêu dùng sản phẩm, như, tâm lý, thu nhập, sở thích của đối tượng, khách hàng trên thị trường cạnh tranh, đặc biệt là thị trường của các nước tư bản Âu, Mỹ và một số nước trong khu vực có nền kinh tế phát triển. Nhu cầu đòi hỏi về sản phẩm của họ luôn ở mức độ cao và hoàn thiện. Chính vì vậy muốn cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải nghiên cứu vận dụng, kết hợp linh hoạt tất cả các yếu tố làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng loạt hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Chương II
Thực trạng về khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường thế giới
I. Đặc điểm tình hình kinh tế và hàng hoá Việt Nam trong
xuất - nhập khẩu
Nền kinh tế Việt Nam từ khi bước vào thời kỳ đổi mới đã phát triển mạnh. Từ một nền kinh tế bao cấp, trí tuệ bước sang nền kinh tế thị trường năng động với cơ chế thị trường, cơ cấu nền kinh tế đã được chuyển dịch rõ nét, cơ cấu lao động được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Nền kinh tế bước đầu đã có bước tăng trưởng rõ rệt. Đời sống người dân được cải thiện quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.
Nền kinh tế phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá mọi hoạt động kinh tế được đánh giá bằng hiệu quả tổng hợp về kinh tế, tài chính, xã hội, mội trường, quốc phòng và an ninh, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất nước, tăng sức cạnh tranh gắn nhu cầu thị trường trong nước và ngoài nước. Tạo thêm sức mua của thị trường trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước, đầy mạnh xuất khẩu.
Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Tiếp tục đưa nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là công nghệ sinh học, quy hoạch sử dụng đất hợp lý, đổi mới cơ cấu cây trồng vật nuôi tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích. Đẩy mạnh thuỷ lợi hoá cơ giới hoá, điện khí hoá, giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản
hàng hoá. Đầu tư nhiều hơn nữa cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn, phát triển công nghiệp dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ tạo nhiều việc làm mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn.
Công nghiệp vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh vào một số ngành lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao, phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản thuỷ sản, may mặc, một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghiệp phần mềm. Chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng một số tập đoàn lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hoá phát triển mạnh và phát huy vai trò chiến lược của kinh tế biển kết hợp với bảo vệ vùng biển. Mở rộng nuôi trồng đánh bắt, chế biến hải sản.
Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng xoá bao cấp, doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất kinh doanh, nộp đủ thuế và có lãi, thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp.
Nhà nước tạo điều kiện, môi trường pháp lý thuận lợi bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh, bình đẳng và hợp tác phát triển. Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình thuế trong nước và cam kết quốc tế, đơn giản các xác thuế, áp dụng từng bước hệ thống thuế thống nhất. Thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ.
Tóm lại: Với những đặc điểm trên của nền kinh tế Việt Nam đủ điều kiện để các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá trong nước từng bước phát triển nắm vững thị phần trong nước và hướng sản phẩm của mình ra thị trường quốc tế, tham gia cạnh tranh, chiếm lĩnh tỷ phần thị trường quốc tế.
II. Tình hình xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam những năm vừa qua
Trong những năm vừa qua, nhờ chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước, nền kinh tế nước ta đa tăng trưởng mạnh đáp ứng đầy đủ nhu cầu của nhân dân hướng từng bước ra xuất khẩu trên thị trường quốc tế.
Quá trình hội nhập, mở cửa và giao lưu với các nước trên khu vực và trên thế giới đã tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp mạnh dạn xuất khẩu sản phẩm hàng hoá cuả mình ra thị trường quốc tế, đánh dấu sự phát triển và tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp sản xuất hàng hoá nói riêng.
Đến nay, Uỷ ban Châu Âu đã chính thức cho 12 doanh nghiệp ở Việt Nam được phép xuất khẩu thủy sản vào Châu Âu nâng tỷ số doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu thuỷ sản vào Châu Âu là 61 doanh nghiệp. Ngoài ra, cộng đồng Châu Âu cũng công nhận 5 vùng quy hoạch tại Tiền Giang và Bến Tre vào danh sách các nước xuất khẩu miễn thể hai mảnh vỏ. Trong 6 tháng đầu năm 2001 ngành thuỷ sản đã đạt tổng lượng khai thác là 1.079.382 tấn, tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành ước tính đạt 813,030 triệu USD bằng 50,81% so với kế hoạch năm.
Xuất khẩu gạo cũng là những thế mạnh chính về hàng xuất khẩu ở nước ta trong nhiều năm qua, xuất khẩu gạo luôn giữ vị trí cao trong các hàng hoá mà Việt Nam xuất khẩu ra thị trường các nước trên thế giới. Trong năm tháng đầu năm 2001 xuất khẩu gạo đạt trên 1,7 triệu tấn. Với kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng 64,4% kim ngạch tăng 24,4% riêng trong tháng 5/2001 lượng gạo xuất khẩu đạt 800.000 nghìn tấn tăng 190.000 tấn so với tháng 4 năm 2001.
Đối với các ngành công nghiệp (kể cả tiểu thủ công nghiệp) tăng nhanh năm 2000 đạt 10 tỷ USD gấp hơn 3,4 lần năm 1995 chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Tóm lại, trong thời gian qua hoạt động xuất khẩu liên tục phát triển. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt trên 51,6 tỷ USD, tăng bình quân hàng năm trên 21%, gấp 3 lần mức tăng GDP (7%) khối lượng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng khá. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có sự thay đổi một bước. Tỷ trọng kim
gạch xuất khẩu của nhóm hàng nông sản, lâm, thuỷ sản tuy vẫn chiếm vị trí quan trọng nhưng có xu hướng giảm dần từ 42,3% năm 1996 xuống còn 30% năm 2000, tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp tăng tương ứng từ 29% lên 34,3%. Nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản từ 28,7% lên 35,7% năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đạt trên 184USD/người, tuy còn ở mức thấp nhưng đã thuộc loại các nước có nguồn ngoại thương phát triển. Thị trường xuất khẩu được củng cố và mở rộng thêm. thị trường Châu á chiếm gần 58% tổng kim ngạch xuất khẩu và trên 80% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Riêng thị trường các nước ASEAN tương ứng chiếm trên 18% và 29%. Trên một số thị trường khá như EU, Châu Mỹ, Trung Đông hàng xuất khẩu của ta đã có mặt và đang tăng dần.
Khi chưa tính vào cân đối xuất nhập khẩu hàng hoá hàng năm nhưng các dịch vụ thu ngoại tệ như kiều hối, xây dựng các công trình nước ngoài, xuất khẩu lao động, dịch vụ trao đổi chuyên gia đã lên nhanh chóng trong thời gian qua.
Mức chênh lệch xuất nhập khẩu so với kim ngạch xuất khẩu đã từ 49,6% năm 1995 đạt xuống còn 6,3% năm 2000
III. Phân tích khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam
trên thị trường thế giới
Thời gian thực hiện cam kết trong ASEAN, bảo đảm lộ trình tham gia APTA đối với nền kinh tế Việt Nam cũng như từng doanh nghiệp để đi vào hội nhập kinh tế có hiệu quả thực sự là một sức ép, một thách thức gay gắt. Năm 2000, dưới sự chỉ đaọ và điều hành của Chính phủ, đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam tham gia thương trường thế giới ngày càng đông. Bước chập chửng này cho thấy bài học về sự lựa chọn sản phẩm mà ta có lợi thế so sánh như gạo, thuỷ hải sản, dệt may, da giầy, cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu…. Những mặt hàng nhỏ từ những cơ sở nhỏ góp lại cũng đã cho một giá trị không thể xem thường như đồ gốm xứ, thủ công mỹ nghệ kim khí tiêu dùng, ché biến lương thực, thực phẩm… Năm 2000 đạt tổng
kim ngạch xuất khẩu cả nước 20%.
Theo dự báo mới đây của cơ quan tình bảo kinh tế Anh (EIV) giá gạo bình quân trên thị trường thế giới trong năm 2001 sẽ ở mức 190USD/tấn và vào cuối năm 2002 sẽ tăng lên 260USD /tấn. Các chuyên gia trên thị trường EIV cho rằng dự báo này dựa trên ước tính nhu cầu gạo trên thị trường thế giới sẽ tăng từ 407 triệu tấn trong niên vụ 2000-2002 và lên khoảng 417 triệu tấn 2002-2003. Cũng theo dự báo của EIV, lượng gạo trao đỏi ở trên thị trường thế giới cũng tăng dần lên khoảng 26 triệu tấn vào năm 2002 và lên khoảng 28 triệu tấn vào năm 2003.
Việt nam chúng ta là một nước Nông nghiệp với 80% dân số làm Nông nghiệp sản xuất lúa và các cây lương thực, hoa mầu tập trung chủ yếu ở hai khu vực lớn là đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cữu Long. Ưu thế về địa lý và tự nhiên cho phép Việt Nam phát triển nghề chồng lúa. Với diện tích sản xuất lúa phân bổ khắp cả nước hàng năm thu hoạch hàng triệu tấn lúa đưa Việt Nam trở thành nước thứ 3 về xuất khẩu gạo trên thế giới.
Những năm gần đây nhà nước ưu tiên các chính sách phát triển Nông nghiệp, điện khí hoá, cơ giới hoá trong sản xuất Nông nghiệp làm năng suất lúa không ngừng tăng cao. Giá lúa gạo miền trung ở mức độ ổn định. Chất lượng gạo được đảm bảo ở mức độ nhất định đủ đáp ứng được yêu cầu khắc khe về gạo trên thị trường một số nước trên thế giới. Trong 5 tháng đầu năm 2001 xuất khẩu gạo đạt trên 1,7 triệu tấn. Với kim ngạch xuất khẩu gạo tăng 64,4%, kim ngạch tăng 24,4%. Riêng chỉ trong tháng 5/2001 lượng gạo xuất khẩu đạt 500 nghìn tấn tăng 190 nghìn tấn so với tháng 4 năm 2001.
Điều đó chứng tỏ rằng sản phẩm lúa gạo ở Việt Nam đã chiếm lĩnh được tỷ phần lớn với thị trường về lúa gạo trên thế giới. Gia nhập thị trường thế giới một cách tự tin vững vàng và luôn giữ ở mức cao về lượng hàng xuất khẩu. Chất lượng luôn đảm bảo và được người tiêu dùng trên thế giới cũng như được thị trường thế giới chấp nhận. Sản phẩm lúa gạo ở Việt Nam không thua kém các nước khác trên thế giới như Trung Quốc, Thái Lan…. Về chất lượng và giá cả. Điều đó cũng chứng tỏ được ưu thế của sản phẩm lúa gạo ở Việt Nam về nhiều mặt, đủ sức cạnh tranh với sản phẩm lúa gạo của các nước khác khi tham gia chiếm lĩnh thị trường
quốc tế. Có thể nói, xuất khẩu gạo là một thứ mạnh trong xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Tuy vậy với tình hình cạnh tranh gay gắt, quyết liệt như hiện nay. Để giữ được vị trí thứ 3 về xuất khẩu gạo đòi hỏi chúng ta phải liên tục phấn đấu, cải tiến sản xuất, giống lúa cho năng suất cao, đầu tư trong việc chăm bón luôn tạo ra năng suất cao, chất lượng tốt. Đầu tư hơn nữa vào lĩnh vực chế biến xay sát bảo quản sản phẩm lúa gạo đảm bảo giữ được chất lượng cao, giá thành ổn định không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới về sản phẩm lúa gạo.
Sản phẩm chủ lực thứ hai của hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang thị trường quốc tế là Cà phê. Sản phẩm cà phê Việt Nam đã bán được sang thị trường của hơn 40 quốc gia với sản lượng ngày càng lớn hơn. Trong năm 2000 tổng sản lượng Cà phê toàn thế giới là 111,4 triệu bao (60Kg) riêng sản lượng cà phê Việt Nam là 12 triệu bao so với tổng sản lượng cà phê toàn thế giới .
Những năm gần đây, do nguồn cafê với Rebusta của thế giới tăng nhanh ngày càng lớn hơn mức cầu nên giá Cà phê đã giảm mạnh giảm mạnh hơn nhiều so với giá cà phê chè. Trong khi đó, với cơ cấu sản phẩm quá mất cân đối gần như 100% sản lượng cà phê hàng năm 700.000 tấn là cà phê Robusta, cà phê chè chưa chiếm nổi 2% ngành cà phê Việt Nam sẽ thiệt hại lớn nếu chiều hướng này tiếp tục diễn ra.
Để đối phó với tình hình thị trường Cà phê thế giới biến động như hiện nay, cần có sự điều chỉnh thích hợp về diện tích, sản lượng, cơ cấu giữa Cà phê chè và cà phê vối những vườn cà phê mới trồng ngoài vùng, quy hoạch, không phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu, năng xuất thấp cần phải loại bỏ để giữ được chất lượng cà phê và năng suất ổn định.
Để đảm bảo cho xuất khẩu sản phẩm cà phê của Việt Nam sang các nước khác trên thế giới, cần nhanh chóng nâng cao chất lượng sản phẩm cà phê và cũng là vấn đề chính mà VICOFA liên tục nhắc tới trong những năm gần đây. Vấn đề chất lượng cà phê nâng cao là rất cấp thiết, đặc biệt trong thời điểm thị trường cà phê trên thế giới đang có nhiều biến động, giá bán cà phê Việt Nam mặc dù luôn
thấp hơn thường từ 50-100 USD/tấn so với giá bán Brazin và Indonexia, Colombia, Mexico…Là những nước nổi tiếng về sản phẩm cà phê và được toàn thế giới ưu chuộng.
Giá cà phê Việt Nam luôn ở mức thấp hơn giá bán sản phẩm cà phê cả các nước trên là do một phần chất lượng sản phẩm cà phê của Việt Nam chưa cao, chưa chú ý nhiều đến chất lượng..
Trong khi đó các nhà sản xuất cà phê Việt Nam và người trồng cà phê mãi chạy theo năng suất, theo sản lượng. Muốn bán được giá cao, muốn không thua lỗ và có lãi, ngưòi trồng cà phê Việt Nam càng cần phải đầu tư hơn nữa vào thu hút, phơi sấy, chế biến và bảo quản sản phẩm.
Các nhà, hãng sản xuất cà phê Việt Nam cần xây dựng chương trình sản xuất những sản phẩm cà phê có chất lượng cao, rất cao như cà phê hữu cơ, cà phê đặc biệt, cà phê hão hạng để đáp ứng thị hiếu của khách hàng cao cấp, với giá bán cũng cao hơn so với giá cà phê thưòng đảm bảo sự đa dạng về chất lượng của sản phẩm cà phê Việt Nam.
Như vậy, với một loại sản phẩm hàng hoá thứ cấp như cà phê khi xuất khẩu ra thị trường quốc tế, được người tiêu dùng trên thế giới chấp nhận đòi hỏi phải đảm bảo được nhu cầu cũng như thị hiếu khắc khe của người tiêu dùng trên khắp thế giới. Trong khi đó sản phẩm cà phê nổi tiếng gắn liền với tên tuổi của các nước như: Brazin, Mexico, Colombia, Indonexia luôn được ngươì tiêu dùng khắp năm châu ưu chuộng thậm chí ngay cả ở Việt Nam.
Vấn đề đặt ra ở đây, đối với các hãng sản xuất cà phê Việt Nam là phải nhanh chóng nắm giữ được thị phần trong nước và giữ cho nó ổn định, nhanh chóng nâng cao chất lượng sản phẩm cà phê Việt Nam giữ vững được thị trường xuất khẩu trên thế giới. Giá cả của sản phẩm cà phê Việt Nam thấp hơn giá cà phê của các nước khác nhưng chất lượng cà phê Việt Nam còn kém hơn chất lượng cà phê của các nước đó vì vậy, muốn sản phẩm cà phê Việt Nam giữ vững được thị hiếu xuất khẩu và không ngừng phát triển, cần nhanh chóng nâng cao chất lượng sản phẩm cà phê Việt Nam sánh kịp với chất lượng của các nước trên thị trường quốc tế. Để sản phẩm cà phê Việt Nam đủ sức và nâng cao hơn nữa về khả năng cạnh tranh cần làm
ngay những việc làm có thể được này thể hiện bằng việc chọn các chủng loại cà phê có năng xuất cao, chất lượng sản phẩm tốt, chống chịu được sâu bệnh và các điều kiện ngoại cảnh khác bất thuận, tiết kiệm sử dụng phân hoá học, thuốc trừ sâu và nước tưới.
Điều cần chú ý là nên làm ngay việc thay đổi cách nghĩ trước đây là cố gắng có được năng suất cao nhất sang cách nghĩ làm sao để có năng suất thích hợp, có hiệu quả kinh tế cao nhất, chất lượng và giá cả luôn là 2 yếu tố quan trọng trong việc cạnh tranh trên thị trường với các sản phẩm cùng loại.
Đối với hãng sản xuất sản phẩm cà phê Việt Nam muốn sản phẩm của mình có sức mạnh về cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh, việc chọn các chủng loại, giống cà phê có năng suất chất lượng cao, cho sản phẩm tốt, cần chú trọng vào khâu chế biến và bảo quản.
Quá trình chế biến và bảo quản sản phẩm cà phê là một công đoạn vô cùng quan trọng của sản phẩm cà phê. Nó quyết định đến chất lượng của sản phẩm. Các hãng sản xuất cần chú trọng hơn nữa vào đầu tư mua sắm trang thiết bị máy móc, dây chuyền chế biến hiện đại đảm bảo cho sản phẩm đạt chất lượng cao, đồng nhất. Việt Nam là nước đi sâu về công nghệ kỹ thuật. Trong khi đó các nước khác trên thế giới luôn áp dụng những công nghệ, kỹ thuật hiện đại vào sản xuất chế biến sản phẩm. Sản phẩm cà phê Việt Nam muốn có chất lượng cao đòi hỏi phải có dây chuyền sản xuất hiện đại, kỹ thuật bảo quản sản phẩm tốt, mới đủ khả năng để cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của các hãng khác trên thế giới. Điều mấu chốt quyết định nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm là chất lượng. Chất lượng càng cao, sản phẩm càng có sức cạnh tranh lớn.
Sản phẩm xuất khẩu được coi là lợi thế của Việt Nam là ngành sản xuất hàng da giầy, thị trường xuất khẩu chủ yếu của hàng da giầy Việt Nam là thị trường Châu Âu (EU) theo số liệu thống kê của Bộ thương mại cho thấy, kim ngạch xuất khẩu hàng da trong quý I năm nay chỉ bằng 68% so với cùng kỳ năm ngoái. Hiện nay “hai con chim đầu đàn” của tổng Công ty Da giầy Việt Nam là Công ty giầy Hiệp Hưng, Công ty da sài gòn (hai doanh nghiệp này chiếm khoảng 30% tổng sản
lượng của tổng Công ty )
Hiện nay, mức tiêu thụ đồ da của thị trường EU vào khoảng 8 tỷ USD/năm trong đó Đức chiếm khoảng 20%, Pháp và Italia mỗi nước chiếm khoảng 16% Anh chiếm 10%.
Đối với ngành sản xuất da giầy Việt Nam, theo đánh giá của Bộ thương mại tình hình sản xuất của ngành da giầy Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức, chủ yếu do tình hình xuất khẩu của các mặt hàng hoá này sang thị trường liên minh Châu Âu (EU) thị trường này chiếm 75% tổng kim ngạch xuất khẩu đồ da của Việt Nam trong 5 năm gần đây đang có xu hướng giảm mạnh. Về phía các doanh nghiệp sản xuất còn dư thừa nhiều công suất sản xuất do nhận được rất ít các hợp đồng.
Đứng trước những thách thức như hiện nay, ngành sản xuất da giầy Việt Nam cần nhanh chóng tìm lại vị trí của mình trên thị trường quốc tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm da giầy Việt Nam với sản phẩm của các nước khác trên thị trường EU.
Thực tế cho thầy, lý do làm suy giảm kim ngạch xuất khẩu cũng như giảm sức cạnh tranh của sản phẩm da giầy Việt Nam trong thời gian qua là do nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đồ da chỉ hoạt động theo kiểu “ăn xổi” trong khi vẫn tồn tại tình trạng khách hàng tìm đến doanh nghiệp mà doanh nghiệp chưa tự tìm được khách hàng. Thậm chí ngay cả đến công đoạnh rất quan trọng là nghiên cứu thị hiếu của người tiêu dùng đồ da giầy ở các thị trường cụ thể để đưa ra những mẫu thiết kế phù hợp thì cho đến nay, hầu hết các nhà sản xuất trong nước gần như vẫn “khoán trắng” cho các trung gian là doanh nghiệp nước ngoài.
Tình trạng không nắm bắt kỹ thuật thông tin về các thị trường nhập khẩu cũng khá phổ biến trong số các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu da giầy ở
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- J0099.doc