Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta bắt đầu từ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1960 đến 1964 do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đề ra. Quá trình này có thể được chia thành 2 thời kỳ: Thời kỳ 1960- 1985, CNH được tiến hành trong điều kiện cơ chế kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, từ 1986 đến nay, CNH gắn liền với quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
Từ năm 1986 đến nay, cùng với công cuộc đổi mới, mở cửa, các kênh huy động vốn cho CNH, HĐH cũng bắt đầu phong phú, linh hoạt hơn. Đối với nguồn vốn nước ngoài, ngoài hình thức cũ là vay nợ và viện trợ, đã có thêm hình thức đầu tư trực tiếp. Nguồn vốn trong nước cũng được bổ xung một số kênh mới, đặc biệt là từ khi có pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, HTX tín dụng và công ty Tài chính (từ 1 -10 -1998). Theo 2 pháp lệnh này, hệ thống ngân hàng một cấp ở nước ta đã chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Các NHTM có thể được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần và được phép thực hiện đa dạng hoá các nghiệp vụ. Đây là tiền đề pháp lý đầu tiên cho phép các NHTM Việt Nam có thêm nhiều khả năng thực hiện các nghiệp vụ tài chính, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn.
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3127 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biện pháp tăng cường tích luỹ vốn ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t định, nên mỗi vật phẩm đều được dùng hoặc để tiêu dùng cho cá nhân hoặc để tiêu dùng cho sản xuất; có những vật phẩm vừa có thể tiêu dùng cho sản xuất, vừa có thể tiêu dùng cho cá nhân, nhưng nhất định chỉ có thể dùng vào một trong hai mục đích đó.
Do đó, sản xuất xã hội được phân thành hai khu vực lớn: khu vực I là khu vực sản xuất tư liệu sản xuất, khu vực II là khu vực sản xuất tư liệu tiêu dùng. Trong tái sản xuất giản đơn, điều kiện thực hiện tổng sản phẩm xã hội là nhà tư bản dùng toàn bộ giá trị thặng dư cho tiêu dùng cá nhân. Còn muốn tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản phải thuê thêm công nhân, mua thêm tư liệu sản xuất, do đó, số giá trị thặng dư tích luỹ được phải chia làm hai phần: một phần để mua thêm tư liệu sản xuất, một phần để thuê thêm công nhân. Muốn có thêm tư liệu sản xuất để mở rộng sản xuất, khu vực I phải sản xuất nhiều tư liệu sản xuất hơn số lượng cần thiết trong tái sản xuất giản đơn.
Sau khi nghiên cứu lý luận về tái sản xuất của Mac và Lê-nin, chúng ta có thể thấy rằng một trong những điều kiện để thực hiện tái sản xuất mở rộng thì phải tích luỹ ở cả hai khu vực, tích luỹ ở khu vực I quyết định tích luỹ ở khu vực II, vì không có tư liệu sản xuất của khu vực I sản xuất ra, thì khu vực II không thể mở rộng sản xuất được. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, khu vực I cũng không thể sản xuất được, nếu quy mô của khu vực II không được mở rộng.
Paul A.Samuelson cho rằng thực chất của tích luỹ : “chúng ta thường chịu bỏ tiêu dùng hiện nay để tăng tiêu dùng trong tương lai.Bắt ít cá đi hôm nay dành cho lao động làm lưới để bắt được nhiều cá hơn ngày mai. Như vậy xã hội đầu tư, hay nhịn tiêu dùng hiện tại, mà chờ để thu được kết quả hoặc lợi tức do đầu tư đó tạo ra. Với nghĩa chung nhất, thu hoạch này-nhịn tiêu dùng hiên tại để có tiêu dùng tương lai nhiều hơn-là lợi tức của tư bản”.
2./ Động cơ:
Động lực thúc đẩy tích luỹ tích luỹ tư bản là quy luật kinh tế tư bản của chủ nghĩa tư bản. Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa,để đạt được mục đích đó các nhà tư bản phải không ngừng tích luỹ để mở rộng sản xuất. Mặt khác, do cạnh tranh, các nhà tư bản buộc phải không ngừng làm cho tư bản của mình tăng lên, bằng cách tăng nhanh tư bản tích luỹ. Nói như vậy hình như có mâu thuẫn giữa phần tiêu dùng của nhà tư bản và phần tích luỹ. Thật ra, trong buổi đầu của sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự ham muốn làm giàu của các nhà tư bản thường chi phối tuyệt đối, nhưng đến một trình độ phát triển nhất định, sự tiêu dùng xa phí của các nhà tư bản ngày càng tăng lên theo sự tích luỹ tư bản.
Yêu cầu khách quan của tích luỹ vốn đã được Mac khẳng định do những nguyên nhân sau: “Cùng với sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì quy mô tối thiểu mà một tư bản cá biệt phải có để có thể kinh doanh, trong điều kiện bình thường, cũng tăng lên .”(4). Từ đó, Mac đã khẳng định : “ Sự cạnh tranh bắt buộc nhà tư bản, nếu muốn duy trì tư bản của mình thì phải làm cho tư bản ngày càng tăng lên mãi và hắn không thể nào tiếp tục làm cho tư bản đó ngày một tăng lên được, nếu không có một sự tích luỹ ngày càng nhiều thêm.”(5).
II./ Các nhân tố quyết định đến quy mô tích luỹ:
1./ Tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng:
Thật ra giá trị thặng dư không phải chỉ là quỹ tích luỹ, mà là cả hai. Một phần giá trị thặng dư được nhà tư bản tiêu xài với tư cách là thu nhập, còn phần khác thì được nhà tư bản dùng làm tư bản, hay được tích luỹ lại. Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định, một trong hai phần đó càng lớn thì phần kia càng nhỏ. Nếu những điều kiện khác không thay đổi, thì tỷ lệ phân chia đó quyết định đại lượng tích luỹ. Nhưng người thực hiện sự phân chia đó là người sở hữu giá trị thặng dư, tức nhà tư bản, vì vậy nó là một hành vi tuỳ thuộc vào ý chí của nhà tư bản. Mà động cơ của nhà tư bản không phải là giá trị sử dụng và sự hưởng thụ, mà là giá trị trao đổi và việc làm tăng thêm giá trị trao đổi. Và như ta đã biết cạnh tranh buộc nhà tư bản phải không ngừng mở rộng tư bản để giữ được tư bản và nhà tư bản chỉ còn cách tích luỹ tư bản ngày càng nhiều hơn mà thôi.
2./ Khối lượng giá trị thặng dư:
Nếu tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tư bản và thu nhập không thay đổi thì rõ ràng trong đại lượng của tư bản tích luỹ sẽ do đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư quyết định. Do vậy, tất cả các trường hợp quyết định giá trị thặng dư đều có tác dụng quyết định đại lượng tích luỹ. Trong thực tế Chủ nghĩa Tư bản có rất nhiều biện pháp làm tăng khối lượng giá trị thặng dư như: tăng cường độ lao động, tăng năng suất lao động,... Ngoài ra quy mô tích luỹ còn phụ thuộc vào sự chênh lệch ngày càng lớn giữa tư bản cố định sử dụng và tư bản cố định tiêu dùng, quy mô của tư bản ứng trước.
(4).Các Mác: TB Q’I . Tập III – NSB Sự thật, HN, 1964, tr43
(5). Các Mác: TB Q’I . Tập III – NSB Sự thật, HN, 1975, tr116,117
Ta nhớ rằng, tỷ suất giá trị giá trị thặng dư được quyết định, trước hết là do mức độ bóc lột sức lao động. Khoa Kinh tế Chính trị đánh giá rất cao vai trò đó đến nỗi lắm khi nó đồng nhất hoá việc đẩy nhanh tích luỹ nhờ nâng cao sức sản xuất của lao động, với việc đẩy nhanh tích luỹ nhờ bóc lột công nhân. Việc ép giá hạ tiền công xuống thấp hơn giá trị lao động thực tế đã đem biến quỹ tiêu dùng cần thiết của công nhân thành quỹ tích luỹ của tư bản. Các nhà tư bản tìm mọi cách để nâng cao trình độ bóc lột sức lao động như tăng cường độ lao động. Nhờ tính co giãn của sức lao động nên lĩnh vực tích luỹ được mở rộng mà trước đó không cần phải tăng thêm tư bản bất biến
Một nhân tố quan trọng khác nữa cuả tích luỹ tư bản là mức năng suất lao động xã hội. Sức sản xuất của lao động mà tăng lên thì khối lượng sản phẩm, biểu hiện giá trị nhất định và đó là biểu hiện một giá trị thặng dư nhất định, cũng tăng lên. Với một tỷ suất giá trị thặng dư không thay đổi hay thậm chí đang giảm xuống thì khối lượng thặng dư vẫn tăng lên, miễn là tỷ xuất giá trị thặng dư giảm xuống chậm hơn mức tăng sức sản xuất của lao động. Vì vậy, với một tỷ lệ phân chia sản phẩm thặng dư thành thu nhập và tư bản phụ thêm không thay đổi, sự tiêu dùng của nhà tư bản vẫn có thể tăng lên mà không cần giảm quỹ tích luỹ. Trình độ, năng suất lao động xã hội tăng thì giá cả, tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt sẽ giảm. Vì vậy với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích luỹ sẽ tăng, đồng thời năng suất lao động tăng lên sẽ có thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới.
Sự phát triển sức sản xuất của lao động cũng làm ảnh hưởng đến số tư bản hiện đã nằm trong quá trình sản xuất. Lao động đem giá trị của những tư liệu sản xuất mà nó đã tiêu dùng chuyển vào sản phẩm. Mặt khác, giá trị và khối lượng tư liệu sản xuất do một khối lượng lao động nhất định sử dụng, lại tăng lên tỷ lệ với việc tăng năng suất lao động.
Khi tư bản tăng lên thì kéo theo sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng cũng tăng lên. Các tư liệu lao động như nhà xưởng, máy móc tham gia vào quá trình sản xuất bị hao mòn dần và do đó chỉ mất giá trị từng phần một, nghĩa là chỉ chuyển giá trị ấy từng phần một vào sản phẩm. Điều này cho thấy sự phục vụ không của các tư liệu lao động
giống như các lực lượng thiên nhiên( nước, không khí,…) đã được lao động sống nắm lấy và làm sống lại, đang được tích luỹ lại cùng với việc tăng quy mô tích luỹ.
Tư bản tăng lên bao nhiêu nhờ những sự tích luỹ liên tiếp, thì tổng số giá trị được chia thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng cũng tăng lên bấy nhiêu. Và cuối cùng quy mô sản xuất càng mở rộng hơn cùng với khối lượng tư bản ứng trước, thì tất cả các động lực thúc đẩy sản xuất lại càng tác động mạnh mẽ hơn.
III./ Quy luật chung của tích luỹ tư bản:
1./ Quy luật tích luỹ tư bản:
Đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế sản xuất lớn là tái sản xuất mở rộng. Một trong các quy luật kinh tế của tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế sản xuất lớn là quy luật tích luỹ. Muốn tái sản xuất mở rộng thì phải có vốn lớn, tích luỹ là nguồn gốc cơ bản tạo ra vốn lớn đó. Tích luỹ vốn gắn chặt với quá trình tái sản xuất mở rộng. Vì vậy trong tất cả các hình thái kinh tế- xã hội có tái sản xuất mở rộng thì tích luỹ là một quy luật kinh tế chung.
“Của cải xã hội càng nhiều, tư bản hoạt động càng lớn, quy mô và cường độ của sự tăng thêm tư bản càng lớn và do đó đại lượng tuyệt đối của giai cấp vô sản và sức sản xuất của họ càng lớn, thì đội quân công nghiệp trù bị càng đông. Sức lao động nhàn rỗi phát triển cũng do chính nguyên nhân đã làm phát triển sức bành trướng của tư bản . Do đó, đại lượng tương đối của đội quân công nghiệp trù bị tăng lên cùng với sự tăng lên của sức mạnh của cải. Nhưng đội quân công nghiệp trù bị càng đông so với đội quân lao động tại ngũ, thì số nhân khẩu thừa cố định lại càng thêm đông đảo và sự nghèo khổ của họ tỷ lệ thuận với sự giày vò của lao động của đội quân lao động tại ngũ. Sau những tầng lớp cùng khổ trong giai cấp công nhân càng đông và đội quân công nghiệp trù bị càng lớn thì bần cùng chính thức càng lớn. Đó là quy luật tuyệt đối, phổ biến của tích luỹ tư bản chủ nghĩa.”(6)
Quá trình tích luỹ tư bản dần dần làm thay đổi cơ cấu tư bản, các bộ phận của tư bản có sự thay đổi không giống nhau. Cấu tạo của tư bản gồm 2 mặt : mặt vật chất và mặt giá trị.
-Về mặt vật chất gồm có tư liệu sản xuất và sức lao động. Tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức lao động sử dụng tư liệu sản xuất đó là cấu tạo kỹ thuật của tư bản.
-Về mặt giá trị gồm tư bản bất biến và tư bản khả biến. Tỷ lệ giữa tư bản bất biến(c) và tư bản khả biến (v ) gọi là cấu tạo giá trị của tư bản.
Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị có quan hệ chặt chẽ với nhau và được gọi là cấu tạo hữu cơ cuả tư bản. Cấu tạo hữu cơ của tư bản thay đổi theo mức độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi nghiên cứu quá trình tích luỹ tư bản ta không thể không đề cập tới các kết quả của tích luỹ tư bản, đó là tích tụ và tập trung tư bản, ảnh hưởng qua lại của tích tụ và tập trung tư bản sẽ làm cho tích luỹ tư bản ngày càng tăng .
Tích tụ tư bản là sự tăng thêm qui mô tư bản cá biệt bằng cách tư bản hoá một phần giá trị thặng dư. Nó là kết quả trực tiếp của tích luỹ tư bản.
(6). Trích dẫn TB, Q’I Tập III – Phần VII.tr149, 150
Tập trung tư bản là sự tăng qui mô tư bản cá biệt bằng cách kết hợp nhiều tư bản nhỏ thành một tư bản lớn hơn. Tập trung tư bản diễn ra bằng hai phương pháp là cưỡng bức và tự nguyện.
Tích tụ tư bản làm tăng qui mô tư bản xã hội, nó phản ánh quan hệ trực tiếp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Còn tập trung tư bản chỉ phân phối lại và tổ chức lại tư bản xã hội, nó phản ánh quan hệ trực tiếp giữa các nhà tư bản. Tích tụ và tập trung tư bản có quan hệ với nhau và tác động thúc đẩy nhau. Nếu gạt bỏ tính chất tư bản chủ nghĩa, tích tụ và tập trung là hình thức làm tăng thu nhập quốc dân và sử dụng hợp lý, có hiệu quả các nguồn vốn của xã hội trong quá trình sản xuất.
2./ Xu hướng lịch sử của tích luỹ tư bản:
Chủ nghĩa tư bản ra đời trên cơ sở dùng bạo lực để tước đoạt của những người sản xuất nhỏ, đặc biệt là nông dân. Quá trình đó đã biến chế độ tư hữu nhỏ dựa trên lao động cá nhân thành chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ sự bóc lột lao động làm thuê, biến sản xuất nhỏ lạc hậu, phân tán thành sản xuất lớn, tập trung. Đó là sự phủ định chế độ tư hữu của những người sản xuất nhỏ.
Nhưng khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình thành thì quá trình tích luỹ và cạnh tranh dẫn đến tư bản sản xuất được tập trung ngày càng lớn, do đó sản xuất được xã hội hoácao hơn, lực lượng sản xuất được phát triển mạnh hơn. Điều đó làm cho mâu thuãn giữa tính xã hội của sản xuất với chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa phát triển. Sự phát triển của mâu thuẫn này tất yếu dẫn đến sự thay thế xã hội tư bản bằng xã hội khác cao hơn, tiến bộ hơn. Đó là xu hướng lịch sử của tích luỹ tư bản, xu hướng tạo ra những tiền đề vật chất và tiền đề xã hội cao cho sự phủ định đối với chủ nghĩa tư bản.
Chương II:
Thực trạng của quá trình tích luỹ tư bản ở Việt Nam
I./Vai trò của tích luỹ với tăng trưởng và phát triển kinh tế:
Việt Nam sau 10 năm đổi mới (1991- 2001) nền kinh tế đã có nhiều chuyển biến quan trọng và đạt được những thành tựu lớn lao, nhưng so với nhịp độ phát triển chung của khu vực và thế giới thì mức sống của ta vẫn còn thấp, tích tụ và tập trugn vốn trong nội bộ nền kinh tế còn quá thấp. Trong khi đó nhu cầu vốn đầu tư cho cả nền kinh tế nói chung và cho việc phát triển công nghiệp nói riêng rất lớn và cấp bách.
Để tăng trưởng và phát triển kinh tế, hiện nay Việt Nam đang tiến hành CNH, HĐH đất nước. Trong quá trình tạo các tiền đề cho CNH,HĐH cũng như để triển khai quá trình CNH,HĐH không thể thiếu vai trò của vốn. Mặt khác, muốn phát huy nguồn nhân lực nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài để phát huy tối đa công cuộc CNH,HĐH cũng như cần phải có vốn đầu tư cao cho sự nghiệp giáo dục, đẩy nhanh ứng dụng KHKT, công nghệ vào sản xuất, cũng như việc xây dựng CSHT càng không thể thiếu vai trò của vốn. Chính những điều đó có thể rút ra kết luận rằng: tích tụ và tập trung vốn là điều kiện tiên quyết cho quá trình CNH, HĐH, nhịp độ công nghiệp hoá nhanh hay chậm chính là do nguồn vốn quyết định.
Từ đó khẳng định một điều quan trọng rằng trong hiện tại và tương lai, việc tích tụ và tập trung nguồn vốn trong nước và nước ngoài đã, đang và sẽ giữ vai trò quyết định đối với sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Điều đó thể hiện một cách rõ nét ở vai trò của nó trong việc thúc đẩy các nghành kinh tế chủ đạo phát triển, đặc biệt là những nghành công nghiệp mũi nhọn hướng về xuất khẩu, cũng như ở vai trò của nó trong việc đầu tư vào các vùng sâu, vùng xa, vùng cao để tạo ra sự phát triển cân đối, hài hoà giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với chính sách XH theo định hướng XHCN, xây dựng nước Việt Nam dân giàu nước mạnh xã hội công bằng và văn minh.
II./ Thực trạng quá trình tích luỹ vốn cho đầu tư và phát triển kinh tế ở
Việt Nam hiện nay.
1./ Thực trạng:
Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta bắt đầu từ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1960 đến 1964 do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đề ra. Quá trình này có thể được chia thành 2 thời kỳ: Thời kỳ 1960- 1985, CNH được tiến hành trong điều kiện cơ chế kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, từ 1986 đến nay, CNH gắn liền với quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
Từ năm 1986 đến nay, cùng với công cuộc đổi mới, mở cửa, các kênh huy động vốn cho CNH, HĐH cũng bắt đầu phong phú, linh hoạt hơn. Đối với nguồn vốn nước ngoài, ngoài hình thức cũ là vay nợ và viện trợ, đã có thêm hình thức đầu tư trực tiếp. Nguồn vốn trong nước cũng được bổ xung một số kênh mới, đặc biệt là từ khi có pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, HTX tín dụng và công ty Tài chính (từ 1 -10 -1998). Theo 2 pháp lệnh này, hệ thống ngân hàng một cấp ở nước ta đã chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Các NHTM có thể được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần và được phép thực hiện đa dạng hoá các nghiệp vụ. Đây là tiền đề pháp lý đầu tiên cho phép các NHTM Việt Nam có thêm nhiều khả năng thực hiện các nghiệp vụ tài chính, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn.
Thực trạng huy động vốn cho CHN,HĐH được thể hiện qua bảng thống kê dưới đây (đơn vị tính: tỷ đồng):
Năm
1991- 1995
1996
1997
1998
Tổng số vốn đầu tư toàn xã hội
38.707,5
77.813,6
90.000
87.700
1.Vốn đầu tư XDCB của nhà nước
14.563,6
30.640
38.000
31.160
2. FDI
Tổng vốn đăng ký
39.432,5
101.700
62.692,4
50.042,3
Thực hiện
14.375
26.157,8
33.335
22.096
3. ODA
Tổng vốn cam kết
13.764,6
26.496
28.250
32.495
Thực hiện
5.049
7.617
11.469,5
18.857,1
4. Các nguồn khác
4.719,2
13.300,2
7.195,5
15.586,9
Nếu đem so sánh kết quả thực hiện huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, giai đoạn 1996 – 2000 với năm 1995 thì năm 1996 tăng 11,1%, 1997 tăng 30,4%, 1998 tăng 24,4%, 1999 tăng 31,8% và năm 2000 ước tính tăng 48,1%. Tính chung tổng vốn đầu tư phát triển toànxã hội thực hiện cả giai đoạn 1996 - 2000 thì cả nước đạt 394,1 ngàn tỷ đồng, tăng 66,7% so với giai đoạn 1991 - 1995. Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 1996-2000 chiếm trong GDP bình quân là 28,6% năm. Tích luỹ nội bộ của nền kinh tế từ mức không đáng kể đã tăng lên 25%GDP. Trong các nguồn vốn cấu thành nên tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, nguồn vốn Nhà nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất. Trong khi đó thì nguồn vốn ngoài Quốc doanh qua các năm 1996-2000 lại có chiều hướng ngày càng giảm sút, mặc dù năm 2000 có tăng hơn 1999 nhưng vẫn ở mức thấp so với năm 1995. Trong tổng số vốn đầu tư ngoài quốc doanh thì vốn trong nước khu vực dân cư chiếm tỷ trọng lớn, trên 80%, còn vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ chiếm dưới 20%. Về cơ cấu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân theo ngành kinh tế cũng đã có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề huy động và sử dụng vốn trong nước hiện nay đang bộc lộ những yếu kém cần khắc phục. Ngân sách nhà nước luôn ở trong tình trạng căng thẳng, không thể đáp ứng đủ các yêu cầu cho đầu tư phát triển và các yêu cầu cấp bách về xã hội. Đầu tư của nhà nước bị phân tán do phải đáp ứng quá nhiều nhiệm vụ. Các nguồn thu từ đất đai, nhà ở, các loại dịch vụ công ích như: viện phí, phí cung cấp điện, nước,... còn để thất thoát và lãng phí lớn. Đóng góp của nhân dân để xây dựng mới và cải tạo trường học, trạm xá, giao thông địa phương,...vào sự nghiệp Văn hoá - Giáo dục - Y tế,... chưa được thể chế hoá, sử dụng và quản lý kém hiệu quả, bất hợp lý, bị lạm dụng và thất thoát. Số vốn huy động được thông qua hệ thống tín dụng chủ yếu là ngắn hạn, không đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển và chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Vốn đầu tư trực tiếp của khu vực kinh tế tư nhân trong nước vẫn ở quy mô nhỏ, tập trung chủ yếu (80%) vào các lĩnh vực: thương mại, dịch vụ phục vụ tiêu dùng. Một bộ phận không nhỏ vốn trong nước đã huy động vào hệ thống NHTM đang bị ứ đọng, không chuyển thành đầu tư được. Theo ý kiến dự báo khác nhau, khoảng 50 - 70 nghìn tỷ đồng tiền tiết kiệm của nhân dân đang được cất trữ dưới dạng vàng, bạc, tiền mặt, ngoại tệ, tài sản có giá trị cao... chưa chuyển thành vốn đầu tư và kinh doanh. Khoản tiền kiều hối chuyển về nước hàng năm chừng 0,6 - 1 tỷ USD chưa được khai thác và sử dụng hợp lý. Từ mục tiêu của sự nghiệp CNH, HĐH mà nghị quyết Đại hội VIII ghi rõ: “mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh... Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”, GDP tăng từ 8-10 lần so với năm 1990.
Để thực hiện được các mục tiêu này, đòi hỏi một lượng vốn đầu tư rất lớn. Thử làm một phép tính sơ bộ cho giai đoạn 2000-2020: GDP tăng bình quân 8%/năm, từ 30 tỷ USD năm 2000 lên 201,8 tỷ USD vào năm 2020; mức tăng trưởng GDP của cả thời kỳ 2001-2020 là 171,8 tỷ USD. Với hệ số ICOR là 3 thì trong thời kỳ này nền kinh tế cần đầu tư khoảng 515 tỷ USD. Để huy động được khối lượng vốn trên cho CNH,HĐH thì phải sử dụng tất cả các kênh huy động có thể, như vốn từ ngành sản xuất nhà nước, vốn đầu tư của các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế, xã hội,vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài và vốn vay (vay trong nước và nước ngoài), trong đó nguồn vốn vay chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Đồng thời, phải có một cơ chế huy động, phân phối, sử dụng vốn có hiệu quả. Bởi vì, chỉ có cơ chế huy động, phân phối, sử dụng vốn có hiệu quả mới bảo toàn được vốn và làm cho đồng vốn sinh sôi nảy nở, để quy mô đầu tư không ngừng mở rộng qua các chu kỳ sản xuất.
2. Nguyên nhân:
Nguyên nhân của những yếu kém kể trên có nhiều, trong đó trước hết phải kể đến:
- Trình độ phát triển kinh tế nước ta còn thấp, mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế và các quan hệ tài chính... tiền tệ mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển, mức độ tiết kiệm trong nước vừa thấp vừa phân tán và ở quy mô nhỏ.
- Chính sách quản lý tài chính vĩ mô chưa đồng bộ, chưa đủ khuyến khích mọi người bỏ vốn đầu tư mở rộng sản xuất, môi trường đầu tư chưa ổn định, còn nhiều rủi ro cho người bỏ vốn.
- Khả năng kinh doanh sinh lợi cao hơn lãi trả ngân hàng của nhiều doanh nghiệp còn hạn chế. Điều đó kéo theo các ngân hàng cũng gặp rủi ro khi cho vay, khó thu hồi vốn, phải sử dụng thế chấp như một công cụ phổ biến. Đây là yếu tố hạn chế sự vận động và phân bố có hiệu quả các nguồn vốn.
- Khuyến khích đầu tư trong nước đã ban hành nhưng còn thiếu một số văn bản hướng dẫn cụ thể, một số điều trong luật cần được sửa đổi cho phù hợp.
- Thiếu những biện pháp hữu hiệu trong việc huy động nội lực tiềm tàng trong dân, hầu như mới chỉ dựa vào nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài và vốn đối ứng rút ra từ ngân sách Chính phủ.
- Điều phối, quản lý và thi hành các nguồn vốn còn hạn chế, gây ra ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư và ảnh hưởng đến quỹ tích luỹ vốn.
- Với một khối lượng vốn khổng lồ, vấn đề đặt ra là phải đa dạng hoá các kênh huy động vốn, trong các kênh thì huy động vốn qua thị trường vốn có một vai trò quan trọng về khối lượng vốn huy động và đặc biệt là về tính hiệu quả của việc huy động, phân phối sử dụng vốn. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, thị trường vốn còn sơ khai, mới đang trong quá trình hình thành và chưa hoàn thiện, thể hiện: các nguồn vốn giao lưu có tính chất thị trường chủ yếu là vốn ngắn hạn; hoạt động giao lưu vốn được thực hiện giữa các pháp nhân kinh tế, chưa có sự tham gia rộng rãi của các hộ gia đình và dân chúng; giá cả của vốn(lãi suất), tuy phản ánh phần nào giá cả trên thị trường, nhưng vẫn là cơ chế giá cứng, mang tính áp đặt nhiều hơn là do sự quyết định của quan hệ cung- cầu về vốn; thị trường vốn mới “đi bằng một chân”, tức là mới sử dụng công cụ ngân hàng, thiếu hẳn một công cụ quan trọng là thị trường chứng khoán.
- Để huy động vốn đầu tư nhằm phục hồi và duy trì tính bền vững của luồng vốn đầu tư phát triển ở Việt Nam trong thời gian tới, rút kinh nghiệm trong 10 năm qua, ta phải tiến hành khắc phục và đề ra giải pháp hạn chế các nguyên nhân nói trên.
Chương III: Biện pháp tăng cường tích luỹ vốn ở
Việt Nam hiện nay
I./ Huy động vốn từ trong nước
Nhiều chuyên gia quốc tế đã cho rằng Việt Nam muốn phát triển được tốc độ theo hướng Rồng bay thì phải nỗ lực huy động tích luỹ trong nước, tăng cường nó có hiệu quả với vốn nước ngoài và đầu tư phải có hiệu quả cao.
Đối với nguồn vốn từ ngân sách.
Nhanh chóng triển khai thực hiện khối lượng đầu tư bằng nguồn vốn bổ xung đợt cuối năm 2000. Đối với kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản năm 2001, các bộ, ngành, các địa phương ngay trong 2 tháng đầu của quý 1 năm 2001 phải triển khai xong việc phân giao kế hoạch đến tận cơ sơ theo đúng mục tiêu và cơ cấu đầu tư, chấm dứt tình trạng vượt khối lượng được giao và xây dựng ngoài kế hoạch, tránh nợ xây dựng cơ bản quá lớn như hiện nay. Đồng thời đảm bảo các nguồn thu của ngân sách ổn định, có thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu cho đầu tư, phát triển và các yêu cầu cấp bách về xã hội.
2. Đối với nguồn vốn tín dụng nhà nước.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư nhà nước được huy động từ các khoản vay trong nước và vay ODA nước ngoaì về cho vay lại.
Đối với quỹ tiết kiệm bưu điện và hệ thống bảo hiểm xã hội, cần các biện pháp tích cực, cân đối chặt chẽ chi để có nguồn vốn cho nhà nướcvay cao hơn năm 2000, góp phần thực hiện tốt kế hoạch huy động vốn tín dụng đề ra.
Đối với nguồn vốn huy động từ các doanh nghiệp nhà nước.
Nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước được huy động từ khấu hao cơ bản để lại, từ một phần lợi nhuận sang thuế, từ liên kết, liên doanh và từ các khoản vay khác của doanh nghiệp. Muốn huy động tốt nguồn vốn này, trước hết cần phải tổ chức, sắp xếp lại sản xuất, tạo cho khu vực này làm ăn có hiệu quả. Nhanh chóng triển khai thực hiện các giải pháp sau đây:
Các bộ các nghành và các địa phương khẩn trương rà soát, phan định loại doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích và hoạt động kinh doanh để sắp xếp lại và định hướng phát triển.
Trong quý 1 năm 2001, các bộ, các nghành, địa phương lên danh mục các doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không cần giữ 100% vốntheo tinh thàan nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ tư khoá VIII để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá, lên phương án sát nhập, khoán kinh doanh, cho thuê hoặc giao bán, giải thể, phá sản các doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ thua lỗ kéo dài không cổ phần hoá được và nhà nước không cần nắm giữ để sử dụng có hiệu quả tài sản của nhà nước.
Vốn huy động từ khu vực dân cư
Để có thể huy động tốt nguồn vốn từ khu vực dân cư, phải nhanh chóng triển khai các giải pháp:
Tiếp tục thực hiện nhất quán và đầy đủ luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành luật.
Chấn chỉnh công tác thanh tra kiểm tra. Xây dựng và vận hành hệ thống thông tin về doanh nghiệp trên phạm vi toàn quốc, tạo môi trường thông tin đầy đủ, tiếp cận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28269.doc