Bản tin của các hội dựa vào 3 nguồn thu chính: ngân sách của hội, quảng cáo và bán bản tin. Thường thì ngân sách của các hội dùng để trả lương cho nhân viên thực hiện bản tin, đây là nguồn thu ổn định. Còn nếu dựa vào việc bán bản tin hoặc dịch vụ đăng quảng cáo các hội đều cố gắng định giá để bù đắp được chi phí phát hành bản tin, tức giá thành của bản tin (chặn dưới), chưa định giá dựa trên nhận thức của khách hàng về giá trị của bản tin hoặc dịch vụ đăng quảng cáo (chặn trên) (Xem bảng 4)
Nhân viên phụ trách nguồn thu thường kiêm nhiệm luôn vai trò phát hành bản tin, không có hội nào có vai trò này một cách độc lập. Điều này càng chứng tỏ rằng nguồn thu bản tin chưa được các hội quan tâm đúng mức. (Xem bảng 5)
Từ thực tế bản tin của VPA có thể tồn tại qua việc bán bản tin cho những đối tượng không phải là hội viên, chúng ta có thể thấy chất lượng bản tin của VPA tương đối tốt, được độc giả chấp nhận. Tuy rằng VPA còn có Tạp chí chất dẻo Việt Nam 2 tháng xuất bản một kỳ nhưng bản tin của hội vẫn duy trì được dựa vào nguồn thu này cho thấy hội rất chú trọng tìm kiếm và chọn lọc thông tin nhằm đáp ứng nhu cầu độc giả, sao cho không trùng với những thông tin trên tạp chí. Ngược lại, không có một tạp chí chuyên ngành nào về LT-TP trên tồn quốc nhưng FFA cũng không thể làm cho bản tin của mình phong phú và chất lượng hơn do chưa chú trọng đến nhu cầu của hội viên.
87 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1534 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biện pháp tạo nguồn thu cho bản tin của Hội Lương thực-Thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tin tháng 10-2004 có bài “Sữa ít béo có thể ngừa bệnh "Gút"”viết về nguyên nhân, triệu chứng và cách ngăn ngừa một căn bệnh nguy hiểm; bản tin tháng 11-2004 lại đưa tin về cây nem dài 3m nặng 150kg và cây chả dài 1,5m nặng 240kg của công ty Việt Hương sẽ được cắt và mời quý khách dùng thử tại Hội chợ Thực phẩm và Đồ uống 2004 trong hai ngày 24 và 25/12/2004;…: các thông tin này nếu được đăng trên báo Tuổi trẻ, hoặc Sài Gòn Tiếp thị, nói chung là các báo hướng đến độc giả là người tiêu dùng thì thích hợp hơn.
Không tập trung đưa các tin có liên quan đến đa số độc giả, tức độc giả mục tiêu. Hầu hết hội viên FFA là các doanh nghiệp chuyên ngành thực phẩm, số lượng các công ty về lương thực rất ít mà bản tin thường xuyên đăng các tin về thị trường lúa, gạo; thậm chí nhiều tin về lương thực trên cùng một bản tin.
Các thông tin khác tuy có liên quan đến những điều doanh nghiệp quan tâm nhưng chưa là những thông tin sâu, tức là những thông tin đã qua phân tích, tổng hợp: phần lớn trích tồn bộ tin từ các báo, hoặc trên Internet không giúp độc giả có cái nhìn tồn cảnh để vượt qua những khó khăn hiện tại và dự đốn được tình hình biến động trong tương lai, từ đó có kế hoạch chuẩn bị và đối phó.
Kịp thời: một trong những tính chất đặc trưng của thông tin là đáp ứng kịp thời khi người ta cần đến, còn để sau đó sẽ không còn giá trị nữa. Điều này nhìn chung Hội đáp ứng khá tốt, các tin về Thị trường, Cơ hội kinh doanh,… đều được đăng trên bản tin trước thời điểm diễn ra để doanh nghiệp có thời gian chuẩn bị sẵn sàng.
Chính xác: thông tin không được sai lệch đến mức cao nhất so với tin gốc, nhất là những từ khóa. Nếu thông tin qua tổng hợp, đánh giá (tức mang tính chủ quan của người viết) thì cũng phải dựa trên cơ sở chính xác, thậm chí cần tham khảo ý kiến của các chuyên gia. Bản tin hiện nay chỉ dừng lại ở mức mô tả, và các nguồn tin thường là từ:
Doanh nghiệp hội viên: cung cấp tin Hoạt động hội viên qua fax, email
Các mảng dịch vụ khác trong Hội, cơ quan chủ quản (Hiệp hội Doanh nghiệp): cung cấp Tin nội bộ, Hội chợ - Triển lãm, Hội thảo - Đào tạo, Văn bản pháp luật mới qua báo cáo
VCCI, Thông tấn xã Việt Nam, báo Người lao động, … cung cấp Tin Thị trường, qua các báo, tạp chí do đó tính chính xác của thông tin có thể được đảm bảo. Duy chỉ có các mục tin về kỹ thuật, công nghệ lấy từ các trang web tiếng Anh thì chất lượng dịch có khi không đảm bảo.
Giảm điều chưa rõ (yếu tố gây bất ngờ): Bản tin chỉ dừng lại ở mức độ ghi chép lại từ một nguồn thông tin nào đó, không có sự đối chiếu so sánh hoặc tổng hợp từ nhiều nguồn tin. Vì vậy, thông tin nhiều lúc bị lỗi thời do doanh nghiệp đã có thể đọc báo hàng ngày để có được những tin tức trên. Vì bản tin mỗi tháng chỉ được phát hành một kỳ nên kỳ vọng của hội viên đối là sự tổng hợp, phân tích, đánh giá các thông tin để họ có một cái nhìn tổng quát. Đó mới chính là thế mạnh của bản tin.
Do bản tin một tháng ra một kỳ nên Hội có nhiều thông tin, cần chọn ra những thông tin đặc trưng, hấp dẫn nhất. Tuy nhiên, việc lựa chọn thông tin do nhân viên phụ trách tự đánh giá. Nếu cảm nhận thông tin nào hay và thu hút độc giả thì đăng. Thực tế các vị tổng biên tập ở những tờ báo lớn cũng chọn lọc tin của phóng viên hay bạn đọc theo cách này. Tuy nhiên họ là những người có kiến thức chuyên môn cũng như kiến thức xã hội và kinh nghiệm đủ để ra quyết định đúng đắn. Trong khi đó, điều này thật sự không nên khi nhân viên phụ trách bản tin thiếu tất cả những thứ trên.
Hơn nữa, câu văn chưa hay, cách viết chưa thu hút độc giả như mục đào tạo không nêu tên giảng viên hoặc tổ chức đào tạo, nhấn mạnh học viên sẽ học được những gì sau khóa học cũng như có đánh giá kết quả sau khóa học dành cho người dạy lẫn người học hay không, ngồi thời gian, địa điểm, đối tượng tham dự,….
Điều này có lẽ do nhân viên phụ trách bản tin (chỉ có 1 người) kiến thức còn hạn chế (chỉ mới học qua trung cấp, đang học Đại học tại chức nhưng lại chuyên ngành Kế tốn), không được đào tạo bài bản qua trường lớp, chỉ do người tổng thư ký tự học rồi truyền lại. Hoặc nguyên nhân sâu xa hơn là do FFA chưa nhận thức được tầm quan trọng của thông tin mà mình cung cấp nên không có những chiến lược phù hợp.
Khó khăn trong việc xử lý thông tin
Nhân viên phụ trách bản tin khi chuyển tải những dữ liệu thô thành thông tin thì chỉ viết theo những suy nghĩ, cảm nhận của mình, như chị nhận xét thì như “viết văn chứ chưa phải viết báo”, không biết phải viết phần đầu như thế nào, phần giữa ra sao, còn kết luận thì viết gì cho hay vì chưa được học qua lớp báo chí.
Hiện nay khó khăn nhất là việc dịch các trang web tiếng Anh để lấy thông tin về ngành LT-TP, có các từ ngữ về kỹ thuật, công nghệ rất khó hiểu, hoặc không biết dịch như thế nào cho độc giả hiểu. Tuy nhiên lại chưa tìm được người hỗ trợ trong khi mướn người ngồi dịch thì phải tốn chi phí, mà điều này thì Hội chưa đáp ứng được.
Nguồn thu
Trước đây FFA kêu gọi các doanh nghiệp tài trợ luân phiên cho bản tin – chi phí mua báo, in ấn, gởi qua bưu điện,… (300.000đ/kỳ). Nhưng kể từ năm 2004 khi Hội dự định sẽ tăng số trang và in màu nhiều hơn, in giấy đẹp hơn đã kêu gọi các doanh nghiệp tài trợ 2.000.000đ/kỳ. Điều đáng mừng là kỳ này các doanh nghiệp đã nhận ra lợi ích của bản tin và tự nguyện đăng ký để bản tin có kinh phí tồn tại lâu dài. Đáp lại, FFA sẽ quảng cáo in màu cho hội viên đăng ký tài trợ kỳ bản tin đó ở trang cuối của bản tin. Nếu một doanh nghiệp đăng ký tài trợ cho một kỳ thì doanh nghiệp đó tốn chi phí là 2.000.000đ (được quảng cáo 1 trang cuối), nếu 2 doanh nghiệp cùng đăng ký một kỳ thì sẽ chia nhau mỗi bên 1.000.000đ (mỗi doanh nghiệp quảng cáo trong vòng nửa trang). Đây chính là nguồn thu duy nhất hiện nay của bản tin.
Đánh giá
Hội đánh giá bản tin một cách rất chủ quan, chung chung, không có tiêu chí đánh giá cụ thể, nhất là chưa thực hiện lần nào bản câu hỏi khảo sát nhu cầu thông tin của doanh nghiệp để có thể cung cấp thông tin phù hợp và xác thực nhất (chỉ gọi điện trao đổi với một số hội viên).
Bản tin hiện nay theo đánh giá của FFA là khá, nhưng thực tế (theo những phân tích ở trên) theo tác giả thì chưa hay: Hội không có chiến lược tìm kiếm, thu thập thông tin, dẫn đến thông tin không đủ nhiều để chọn lọc và phân tích-tổng hợp, ai có thì cho (không có hệ thống quản lý mối quan hệ khách hàng tốt). So với AGTEK cũng chỉ có một nhân viên phụ trách bản tin nhưng nhân viên chịu khó đọc báo nhiều hơn, năng động gọi điện thoại hỏi những doanh nghiệp hội viên và đến gặp họ thu thập thông tin nhiều hơn.
THỰC TRẠNG NGUỒN THU CỦA BẢN TIN Ở MỘT SỐ HỘI
Mục tiêu
Tìm hiểu sơ lược bản tin của các hội khác, họ đã tạo nguồn thu cho bản tin bằng cách nào, đối tượng là ai, trên cơ sở gì định giá những nguồn thu đó, từ đó phân tích tại sao họ lại chọn nguồn thu như vậy và đánh giá tính khả thi trong việc tạo nguồn thu cho bản tin của FFA.
Phương pháp thực hiện
Theo báo Doanh Nhân Sài Gòn (ngày 27/10/2004), các hội và hiệp hội hoạt động hiệu quả ở Việt Nam có thể kể đến như : Hiệp hội Thủy sản Việt Nam (VASEP); Hiệp hội Dệt May Việt Nam (VITAS); Hiệp hội Nhựa Việt Nam (VPA); Hội Lương thực - Thực phẩm TP.HCM (FFA); Hội Dệt May Thêu Đan TP.HCM (AGTEK); và Hội Doanh nghiệp trẻ TP. HCM (YBA) ; …
Vì lý do thuận tiện nên tác giả chỉ chọn 3 hội để khảo sát là AGTEK, YBA và VPA. Sau đó, tác giả lập bản câu hỏi, gọi điện cho nhân viên phụ trách bản tin để họ xem xét việc trả lời qua email hay gặp mặt, sao cho thuận tiện đối với họ, rồi tiến hành thu thập thông tin.
Bản câu hỏi phỏng vấn các hội
Mục đích: tìm hiểu các thông tin về:
Bản tin như thế nào? Mục đích?
Thu chi ra sao? Gồm những khoản nào?
Khách hàng mục tiêu ứng với mỗi nguồn thu?
Do ai phụ trách?
Cơ sở định giá nguồn thu?
Bản câu hỏi: gồm 5 câu hỏi
Chi phí thực hiện bản tin của hội gồm những chi phí gì?
Hiện nay hội có những nguồn thu nào cho bản tin?
Khách hàng tương ứng đối với mỗi nguồn thu?
Giá và cơ sở định giá nguồn thu? (Nếu nguồn thu là bán bản tin và đăng quảng cáo)
Có nhân viên phụ trách về nguồn thu của bản tin không? Nếu có, người này có cần phối hợp với các bộ phận khác như bộ phận thiết kế bản tin, quan hệ khách hàng,… không? Về những mặt nào?
Kết quả khảo sát
Hội Dệt May Thêu Đan TP.HCM (AGTEK)
Hội phát hành bản tin một tháng 3 kỳ (có tháng 4 kỳ, tùy theo thông tin có được), gồm 3 trang, in trắng đen, được gởi đến hội viên và những độc giả quan tâm qua 3 phương tiện: bưu điện, fax, email.
Mục đích của bản tin là cung cấp những thông tin mang tính cập nhật cho hội viên. Bản tin gồm 3 nội dung: Tin hội, Doanh nghiệp cần biết, và Tin ngành. Thông tin rất thích hợp và luôn được cập nhật kịp thời, đúng với mục đích mà AGTEK đề ra.
Nguồn thu của bản tin lấy từ ngân sách hoạt động của hội.
Hiệp hội Nhựa Việt Nam (VPA)
Bản tin ra 2 kỳ 1 tháng, mỗi kỳ gồm 8 trang in trắng đen, không có quảng cáo; có nhiều thông tin giá trị, không thể tìm thấy ở những tài liệu khác. Do đó, bản tin có thể tự mình tồn tại và phát triển bằng chính nguồn thu của mình là bán bản tin (10.000đ/bản in, tức 240.000đ/bản in/năm), không cần đến ngân sách của hội. Đối tượng bán bản tin là những tổ chức không phải là hội viên nhưng quan tâm đến hoạt động của hội và ngành. Hiện nay VPA có khoảng 100 khách hàng đặt mua bản tin hàng năm.
Cơ sở để định ra mức giá bán này là dựa trên chi phí thực hiện bản tin và giá trị thông tin. Trước mắt, nguồn thu này vẫn là nguồn thu duy nhất.
Ngồi hội viên, VPA còn gởi bản tin miễn phí cho một số cơ quan ban ngành và các hội khác nhằm giao lưu, trao đổi thông tin hai chiều như VCCI, Sở Khoa học Tài nguyên và Môi trường, ITPC, Bộ Tài chính, Bộ Công nghiệp, Sở Thương mại,… Hội thì có Hội Doanh nghiệp Trẻ, Hội Tin học, Hội Da giày, Hội Thủy sản,…
Nhân viên thực hiện bản tin còn đảm nhận những hoạt động khác của Hội, nên lương của nhân viên do Hội trả.
Mục đích chính của bản tin là để doanh nghiệp trong ngành biết rõ hơn về họat động của hội cũng như những gì liên quan đến ngành để doanh nghiệp họat động tốt hơn, chủ động hơn.
Hội Doanh nghiệp Trẻ TP.HCM (YBA)
Bản tin phát hành hàng tháng, gồm 8 trang, in màu ở 2 trang bìa.
Bản tin có 2 mục đích chính là giới thiệu hoạt động của hội và quảng bá hoạt động của các hội viên.
Tuy nhiên, do YBA có chiến lược vừa hướng đến cá nhân (doanh nhân) vừa hướng đến tổ chức (doanh nghiệp) nên bản tin của hội tương đối nhẹ nhàng và dễ đọc hơn (nhiều bài viết mang tính cá nhân) những bản tin khác.
Hiện nay bản tin dựa vào 3 nguồn thu chính là Quỹ hoạt động của hội, sự tài trợ ở giai đoạn đầu của Hội Công nghiệp Đan Mạch - một tổ chức phi chính phủ, và quảng cáo (tờ rời được kèm theo bản tin). Khách hàng của nguồn thu quảng cáo là hội viên và hội viên tiềm năng của hội, với phí thu tương đối rẻ (1,5 triệu/trang A4) do tự YBA định giá nhằm bù đắp chi phí tạo ra bản tin. Phụ trách nguồn thu và thực hiện bản tin do 1 nhân viên đảm nhiệm.
Phân tích và đánh giá
Các hội đều gởi bản tin miễn phí cho hội viên vì dịch vụ cung cấp thông tin qua bản tin cho hội viên là một trong những hoạt động các hội nên làm cho hội viên của mình (thực chất thì nguồn thu này nằm trong hội phí). Ngồi ra, các hội cũng gởi bản tin miễn phí cho các cơ quan ban ngành cũng như các hội khác nhằm trao đổi thông tin hai chiều. Đây là một trong những nguồn thông tin của bản tin.
Bản tin của các hội dựa vào 3 nguồn thu chính: ngân sách của hội, quảng cáo và bán bản tin. Thường thì ngân sách của các hội dùng để trả lương cho nhân viên thực hiện bản tin, đây là nguồn thu ổn định. Còn nếu dựa vào việc bán bản tin hoặc dịch vụ đăng quảng cáo các hội đều cố gắng định giá để bù đắp được chi phí phát hành bản tin, tức giá thành của bản tin (chặn dưới), chưa định giá dựa trên nhận thức của khách hàng về giá trị của bản tin hoặc dịch vụ đăng quảng cáo (chặn trên) (Xem bảng 4)
Nhân viên phụ trách nguồn thu thường kiêm nhiệm luôn vai trò phát hành bản tin, không có hội nào có vai trò này một cách độc lập. Điều này càng chứng tỏ rằng nguồn thu bản tin chưa được các hội quan tâm đúng mức. (Xem bảng 5)
Từ thực tế bản tin của VPA có thể tồn tại qua việc bán bản tin cho những đối tượng không phải là hội viên, chúng ta có thể thấy chất lượng bản tin của VPA tương đối tốt, được độc giả chấp nhận. Tuy rằng VPA còn có Tạp chí chất dẻo Việt Nam 2 tháng xuất bản một kỳ nhưng bản tin của hội vẫn duy trì được dựa vào nguồn thu này cho thấy hội rất chú trọng tìm kiếm và chọn lọc thông tin nhằm đáp ứng nhu cầu độc giả, sao cho không trùng với những thông tin trên tạp chí. Ngược lại, không có một tạp chí chuyên ngành nào về LT-TP trên tồn quốc nhưng FFA cũng không thể làm cho bản tin của mình phong phú và chất lượng hơn do chưa chú trọng đến nhu cầu của hội viên.
Còn bản tin của YBA thì dựa vào nguồn thu quảng cáo của các hội viên vì một đặc trưng riêng của YBA là hội không phải là một hội chuyên ngành. Hội viên của YBA rất đa dạng, do đó hội viên có thể quảng cáo sản phẩm cho những hội viên còn lại biết. YBA không chọn cách bán bản tin vì như đã trình bày ở trên, bản tin của hội hầu như không có thông tin cho một ngành cụ thể nào cả, rất chung chung, khái quát nên khó thu hút độc giả bên ngồi.
Tóm lại qua việc phân tích trên, tác giả nhận thấy bản tin ngồi là một công cụ tiếp thị cho các hoạt động của hội và hội viên nên được xem là một sản phẩm của hội. Không nên chỉ dùng bản tin làm động lực thu hút hội viên tiềm năng. Có thể họ chỉ cần thông tin mà chưa thấy các dịch vụ khác là cần thiết. Như vậy, nếu cải tiến chất lượng bản tin phù hợp với nhu cầu độc giả thì FFA có thể thực hiện đồng thời cả 2 nguồn thu là bán bản tin và dịch vụ đăng quảng cáo. Bản tin của FFA là một bản tin chuyên ngành, nếu giả thiết rằng bản tin của Hội đã được cải thiện dựa trên nhu cầu hội viên thì hoạt động bán bản tin là hồn tồn có thể thực hiện.
Còn dịch vụ đăng quảng cáo như hiện nay có một số điều chưa ổn. Thứ nhất, số hội viên của FFA tương đối ít, chỉ chiếm khoảng 4% trong tổng số doanh nghiệp trên địa bàn thành phố nên họ có thể biết rõ sản phẩm của nhau thông qua mảng tin giới thiệu hội viên mới trên bản tin; thứ hai, một số hội viên có sản phẩm chỉ phục vụ cho người tiêu dùng, tức sản phẩm cuối cùng, như chả giò, cà phê, nước mắm,… thì việc quảng cáo sẽ không có ích lợi gì. Do đó, nếu Hội có thể bán bản tin cho những độc giả bên ngồi, thì việc này sẽ hỗ trợ cho nguồn thu quảng cáo rất nhiều: hội viên có thể quảng cáo các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tổ chức (gọi là sản phẩm công nghiệp) cho những độc giả không phải là hội viên và ngược lại. Hội viên không chỉ là đối tượng nhận thông tin mà còn có thể truyền thông tin của mình đến khách hàng. Dịch vụ đăng quảng cáo kiểu này gọi là quảng cáo cho khách hàng (độc giả bên ngồi) của khách hàng (hội viên).
TỔNG KẾT
Như vậy, dựa vào thực trạng bản tin và nguồn thu của nó ở FFA và một số hội tương đối phổ biến và hoạt động hiệu quả, tác giả đề xuất cho bản tin của FFA 2 nguồn thu là dịch vụ bán quảng cáo (nguồn thu này khác hẳn với sự tài trợ hiện tại cho bản tin của hội viên) và dịch vụ bán bản tin. Bán quảng cáo sẽ là nguồn thu chính, còn việc bán bản tin chỉ là nguồn thu phụ. Vì nếu không bán bản tin thì FFA vẫn phải thực hiện bản tin để cung cấp thông tin cho hội viên nên giá bán bản tin mà tác giả đề xuất sẽ chỉ dựa trên chi phí in ấn và gởi qua đường bưu điện. Lợi nhuận từ nguồn thu này chỉ chiếm một phần nhỏ so với nguồn thu quảng cáo. Bên cạnh đó, nguồn lực dành cho hoạt động thu hút và duy trì khách hàng của cả 2 dịch vụ tương đương nhau nên FFA cần dành nhiều nỗ lực tiếp thị cho dịch vụ bán quảng cáo hơn. Thực chất việc bán bản tin chỉ như một đòn bẩy, càng có nhiều người đọc bản tin thì mới lôi cuốn nhiều khách hàng muốn đăng quảng cáo.
Theo định hướng đó, trong phần trình bày chi tiết kế hoạch tạo nguồn thu, tác giả cũng sẽ chú trọng đến dịch vụ bán quảng cáo hơn.
Chương 5
MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO NGUỒN THU
CHO BẢN TIN FFA
Nội dung:
Dịch vụ đăng quảng cáo
Dịch vụ bán bản tin
Chương 5 trình bày kế hoạch chi tiết về dịch vụ đăng quảng cáo trên bản tin để tạo nguồn thu chính và dịch vụ bán bản tin để tạo nguồn thu phụ cho FFA. Hiện tại chất lượng bản tin còn kém, ngay cả hội viên cũng không muốn đọc nên không thể triển khai 2 biện pháp này. Do đó, kế hoạch tạo nguồn thu cho bản tin ở đây được lập trên cơ sở một số giả thiết liên quan đến kế hoạch hoạt động của bản tin như sau:
Nhân viên bản tin đã được đào tạo để có khả năng thu thập, tổng hợp và viết tin chuyên nghiệp hơn
Bản tin được cải tiến về nội dung lẫn hình thức theo nhu cầu hội viên, bao gồm:
Tăng thêm một số mảng tin như:
Diễn đàn: Hội thảo qua giấy giữa các độc giả là hội viên lẫn độc giả bên ngồi về những chủ đề đang được ngành quan tâm
Quản lý doanh nghiệp: thuê chuyên gia bên ngồi viết về các phương pháp quản lý doanh nghiệp
Tin thị trường: mang tính tổng kết có phân tích chứ không liệt kê
Giới thiệu nhà cung cấp: đây là một hình thức quảng cáo nhằm làm cầu nối cho hội viên (hiện tại và tiềm năng) và nhà cung cấp
Thiết kế và in ấn: nhân viên bản tin chưa thể đảm nhận công việc này một cách chuyên nghiệp nên trước mắt Hội chọn hình thức thuê ngồi.
Bản tin mới đã được phát hành trước khi triển khai các biện pháp.
DỊCH VỤ ĐĂNG QUẢNG CÁO
Hiện tại bản tin của FFA có một trang dành cho quảng cáo mang tính chất tài trợ. Hội kêu gọi các hội viên lần lượt tài trợ cho bản tin. Mỗi hội viên khi tài trợ sẽ được đăng quảng cáo trên bản tin của FFA. Cách này xem ra dường như có lợi cho đôi bên: FFA có tiền để duy trì hoạt động bản tin, còn hội viên thì được giới thiệu sản phẩm, nhưng thực tế không phải như vậy. Một số hội viên khi quảng cáo sản phẩm hầu như không được lợi ích gì vì độc giả là những doanh nghiệp trong ngành LT-TP mà sản phẩm của hội viên lại chỉ phục vụ cho khách hàng là người tiêu dùng, như sản phẩm chả giò, nước chấm, bánh kẹo,…. Nói cách khác, vì độc giả của bản tin không phải là khách hàng mục tiêu của hội viên nên độc giả sẽ không quan tâm đến những sản phẩm này.
Dịch vụ đăng quảng cáo này sẽ là một dịch vụ mang ý nghĩa mới hồn tồn và chính xác là nguồn thu từ quảng cáo. Các hội viên, cũng như những khách hàng mục tiêu khác, cần cân nhắc kỹ độc giả của bản tin có phải là khách hàng mà mình muốn nhắm đến và có quyền quyết định mình có nên quảng cáo trên bản tin hay không.
Có 2 hình thức quảng cáo trên bản tin của FFA:
Hình thức 1. Quảng cáo dạng chữ. Những mẩu quảng cáo này sẽ nằm trong mảng tin Giới thiệu nhà cung cấp ngay trên bản tin, hồn tồn chỉ có chữ trắng đen và không có hình. Ưu điểm của hình thức này là nằm trong phần nội dung chính của bản tin, độc giả sẽ nhìn thấy nó dù muốn hay không, và nếu khách hàng biết cách viết sao cho thu hút sự chú ý của họ, độc giả nhất định sẽ nhớ đến mẩu tin này. Một ưu điểm nữa là chính vì mẩu quảng cáo chỉ tồn chữ trắng đen nên chi phí thấp. Nhược điểm là có thể độc giả chỉ đọc lướt qua mà không để ý đến nội dung của mẩu tin vì nó không có màu sắc cũng như hình ảnh; và nếu khách hàng chỉ giới thiệu chung chung, không biết cách thu hút ngay từ tiêu đề thì độc giả sẽ dễ dàng bỏ qua luôn.
Hình thức 2. Quảng cáo dùng hình ảnh và có thể in màu hoặc trắng đen. Những mẩu quảng cáo này sẽ nằm trong một xấp rời được đính kèm vào bản tin. Hình thức này có ưu điểm là trình bày đẹp mắt, dễ lôi cuốn độc giả. Tất nhiên, cách này sẽ đắt tiền hơn cách 1 mà lại dễ bị độc giả để sang một bên khi cầm bản tin lên đọc nếu họ cảm thấy không có nhu cầu tìm kiếm nhà cung cấp.
Tùy theo sự kỳ vọng và khả năng của khách hàng, khách hàng có thể chọn cho mình cách quảng cáo thích hợp.
Mô hình thực hiện biện pháp
Mục tiêu của biện pháp
Kế hoạch tiếp cận
Xác định khách hàng mục tiêu
Thuận lợi và khó khăn (Đánh giá tính khả thi)
Mục tiêu
Mục tiêu của dịch vụ nhằm thỏa mãn lợi ích của cả 3 bên: FFA, khách hàng hội viên và khách hàng không phải hội viên, và công ty quảng cáo.
Lợi ích của FFA
Chấp nhận quảng cáo trên bản tin tạo ra một nguồn thu khác cho công việc kinh doanh của Hội. Bằng cách bán quảng cáo, Hội bị thúc đẩy tạo ra bản tin có chất lượng tốt hơn để thỏa mãn cả người đọc lẫn khách hàng quảng cáo. Sự đầu tư lại từ doanh số quảng cáo giúp bản tin FFA phục vụ khách hàng chu đáo hơn. Ngồi ra, dịch vụ này đem lại cho FFA một lợi ích chính yếu nhất: đó là tạo cầu nối giữa hội viên và nhà cung cấp.
Lợi ích của công ty quảng cáo (khách hàng tiềm năng)
Nhà quảng cáo có thể truyền thông điệp của họ đến một số lượng độc giả cụ thể. Ở đây, khách hàng quảng cáo có thể là hội viên của FFA và cả khách hàng bên ngồi. FFA càng biết rõ về độc giả của mình bao nhiêu thì Hội càng có thể tìm kiếm những nhà quảng cáo phù hợp với khách hàng mục tiêu của mình bấy nhiêu.
Lợi ích của độc giả là hội viên nói riêng và độc giả nói chung
Độc giả là người muốn và đánh giá cao những quảng cáo của Hội. Điều này chỉ đúng khi việc quảng cáo được thực hiện một cách phù hợp. FFA phải tạo được sự kết nối giữa người đọc và sản phẩm họ muốn mua. Quảng cáo cũng cung cấp cho người đọc nhiều thông tin hơn cũng như những nguồn khác nhau để từ đó họ kiếm được những thông tin, sản phẩm mình cần. Nếu làm tốt việc này, những mẩu quảng cáo có thể là lợi ích chính cho độc giả.
Như vậy, nếu thực hiện tốt dịch vụ này, cả 3 bên đều có lợi, mà lợi ích nhiều nhất chính là hội viên. Hội viên vừa là độc giả vừa là khách hàng quảng cáo. Họ có quyền giới thiệu sản phẩm của mình đến nhà cung cấp (quyền cho) và cũng có quyền tiếp nhận thông tin từ khách hàng tiềm năng của mình (quyền nhận). Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với FFA: vừa thỏa mãn hội viên vừa là động lực thu hút các doanh nghiệp trong ngành gia nhập Hội, phù hợp với phương châm hoạt động của Hội: “Đại đồn kết, tập hợp đông đảo doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế vào tổ chức Hội để giúp đỡ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của hội viên, ổn định và phát triển doanh nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh doanh…”.
Xác định khách hàng mục tiêu
Khách hàng tiềm năng của dịch vụ là tất cả những đối tượng nhận được lợi ích khi sử dụng dịch vụ. Trên cơ sở chuỗi cung ứng: nhà cung cấp - nhà sản xuất - nhà phân phối (thương mại), tác giả nhận thấy đa số hội viên của FFA là những doanh nghiệp hoặc là nhà sản xuất thuần túy hoặc vừa là nhà sản xuất vừa là nhà phân phối nên khách hàng tiềm năng của dịch vụ chính là nhà cung cấp. Hội viên được xem là khách hàng mục tiêu mà đối tượng của dịch vụ đăng quảng cáo muốn hướng đến. Nhà cung cấp được chia làm 2 loại:
Nhà cung cấp trực tiếp là những doanh nghiệp trong và ngồi nước cung cấp máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, bao bì và dịch vụ phục vụ khối sản xuất cho ngành LT-TP.
Nhà cung cấp gián tiếp là các doanh nghiệp trong và ngồi nước cung cấp các dịch vụ phát triển kinh doanh như dịch vụ Internet, quảng cáo, đào tạo nghề, kiểm tốn, dịch vụ tư vấn pháp lý, quản lý, … và cung cấp máy móc thiết bị phục vụ cho khối văn phòng.
Tuy nhiên, hiện nay do nguồn lực của FFA còn hạn chế và vì đây là dịch vụ mới của Hội nên thị trường mục tiêu được lựa chọn là: Các doanh nghiệp cung cấp máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, bao bì và dịch vụ phục vụ cho khối sản xuất trên địa bàn TP.HCM
Trên cơ sở xác định khách hàng mục tiêu là các nhà cung cấp trực tiếp trước (do phần lớn hội viên của FFA chính là khách hàng mục tiêu của họ) rồi mới đến nhà cung cấp gián tiếp, từ TP.HCM (là trụ sở của Hội) đến khắp miền Nam, từ miền Trung trở vào rồi khắp cả nước. Sau nữa, mới đến các doanh nghiệp ngồi nước. Như vậy khách hàng mục tiêu trong từng giai đoạn là:
Nhà cung cấp trực tiếp trên địa bàn TP.HCM
Nhà cung cấp trực tiếp ở miền Nam
Nhà cung cấp trực tiếp từ miền Trung trở vào
Nhà cung cấp trực tiếp trên khắp cả nước
Tương tự đối với các nhà cung cấp gián tiếp
Các nhà cung cấp nước ngồi
Khi nguồn thu từ khách hàng mục tiêu trong từng giai đoạn dần ổn định, tức là số lượt đăng ký quảng cáo đủ để duy trì ít nhất cho khoảng 3 kỳ bản tin kế tiếp (tùy theo mục tiêu số trang quảng cáo đề ra cho từng năm), NVNT sẽ mở rộng hoạt động tiếp thị đến nhóm khách hàng mục tiêu lớn hơn.
Tuy nhiên những doanh nghiệp không thuộc nhóm khách hàng mục tiêu trong từng giai đoạn vẫn được hoan nghênh đăng ký sử dụng dịch vụ nếu có nhu cầu.
Kế hoạch tiếp cận
Kiểm soát
Phân bổ nguồn lực
Đề ra mục tiêu cụ thể
Thiết kế thông điệp
Thu thập danh sách khách hàng mục tiêu
Thu hút khách hàng
Duy trì khách hàng
Đề ra mục tiêu (trong năm đầu tiên)
Do đây là dịch vụ mới của Hội nên việc đề ra mục tiêu không thể dựa trên những số liệu quá khứ, tác giả chỉ đề xuất dựa theo dịch vụ bán quảng cáo trên bản tin rất thành công của YBA. Bản tin của YBA hiện tại có 8 trang quảng cáo, dự kiến trong năm đầu tiên, bản tin của FFA sẽ thu hút được số trang quảng cáo bằng một nửa của YBA, tức 4 trang quảng cáo (không kể trang quảng cáo định kỳ của hội viên FFA).
Đối với khách hàng không phải là hội viên: Trung bình dành 2 trang quảng cáo trong tập quảng cáo và 1/3 trang quảng cáo trong nội dung bản tin.
Đối với khách hàng là hội viên: Trung bình dành 2 trang quảng cáo (không kể trang quảng cáo do sự tài trợ theo định kỳ của hội viên)
Tuy số lượng khách hàng mục tiêu là hội viên ít hơn khách hàng không phải là hội viên nhưng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- FFA.docx