Đề tài Bội chi ngân sách nhà nước và thực trạng bội chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

Chương 1; Ý LUẬN TỔNG QUAN VỀ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 2

1. Những vấn đề cơ bản về ngân sách nhà nước 2

1.1. Vai trò của ngân sách nhà nước 2

1.1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước 2

1.1.2. Vai trò của ngân sách nhà nước 2

1.2. Nội dung hoạt động của ngân sách nhà nước 2

1.2.1. Thu ngân sách nhà nước 2

1.2.2. Chi ngân sách nhà nước 2

2. Cân đối ngân sách nhà nước 2

2.1. Khái niệm cân đối ngân sách nhà nước 2

2.2. Các trạng thái của ngân sách nhà nước 2

2.3. Đặc điểm của ngân sách nhà nước 2

3. Bội chi ngân sách nhà nước 2

3.1. Khái niệm bội chi ngân sách nhà nước 2

3.2. Đo lường bội chi ngân sách nhà nước 2

3.3. Nguyên nhân bội chi ngân sách nhà nước 2

3.3.1. Các nguyên nhân khách quan: 2

3.3.2. Các nguyên nhân chủ quan: 2

3.4. Tác động của bội chi ngân sách đến nền kinh tế vĩ mô 2

3.4.1. Ảnh hưởng đến tổng cầu nền kinh tế 2

3.4.2. Ảnh hưởng lạm phát 2

3.4.3. Nợ quốc gia và những bất ổn trong nền kinh tế 2

3.4.4. Thâm hụt cán cân thương mại 2

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

TRONG BỐI CẢNH PHỤC HỒI NỀN KINH TÊ 2

1. Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam 2

1.1. Về kinh tế 2

1.2. Về xã hội 2

2. Thực trạng bội chi ngân sách nhà nước trong bối cảnh phục hồi kinh tế 2

2.1. Thực trạng thu ngân sách 2

2.1.1. Hoạt động thu ngân sách trong những năm gần đây 2

2.1.2. Những bất cập trong khai thác nguồn thu 2

2.2. Thực trạng chi ngân sách 2

2.2.1. Kết quả chi trong những năm gần đây 2

2.2.2. Kỷ luật tài khóa và phân bổ nguồn lực 2

2.2.3. Những thành tựu đạt được 2

2.2.4. Những mặt còn tồn tại 2

2.3. Phân cấp tài chính giữa các cấp ngân sách nhà nước 2

2.4. Bội chi ngân sách nhà nước 2

2.4.1. Mức độ bội chi ngân sách trong thời gian qua 2

2.4.2. Nguyên nhân của bội chi ngân sách 2

2.5. Quản lý nợ công 2

2.5.1. Mức nợ công ở Việt Nam 2

2.5.2. Quản lý nợ công 2

CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT BỘI CHI NGÂN SÁCH 2

1. Các giải pháp kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước 2

1.1. Các giải pháp mang tính kinh tế kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước 2

1.1.1. Tiến hành tái cấu trúc nền kinh tế, đảm bảo tăng trưởng bền vững 2

1.1.2. Hoàn thiện chính sách cải cách khu vực công 2

1.2. Các giải pháp tài chính kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước 2

1.2.1. Chuyển hướng thu ngân sách nhà nước theo hướng bền vững 2

1.2.2. Hoàn thiện phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 2

1.3. Các biện pháp bù đắp bội chi ngân sách nhà nước 2

1.3.1. Vay trong nước 2

1.3.2. Vay nợ nước ngoài 2

2. Đề xuất chính sách và các giải pháp hỗ trợ 2

2.1. Cải cách hành chính công và nâng cao năng lực quản lý 2

2.2. Phát triển hệ thống thông tin quản lý tài chính và hệ thống kế toán tài chính công 2

2.3. Đổi mới cơ chế quản lý quỹ, các định chế tài chính 2

2.4. Xác định mức bội chi ngân sách nhà nước trong bối cảnh hậu khủng hoảng 2

KẾT LUẬN 2

 

 

doc46 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5394 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bội chi ngân sách nhà nước và thực trạng bội chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt Nam đã ngăn chặn được đà suy giảm và đang duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý. Tính chung cả năm 2009, tăng trưởng GDP Việt Nam đạt 5,32%. Mặc dù mức tăng trưởng này thấp hơn khá nhiều so với các năm trước song trong điều kiện khủng hoảng kinh tế thế giới thì đây vẫn được đánh giá là mức tăng trưởng tốt và thuộc loại tốt nhất trong khu vực Đông Nam Á. Biểu đồ 1 Vể cơ cấu kinh tế, từ năm 2000 đến nay, tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng đã tăng từ 35,4% lên 41,7%, tỷ trọng khu vực nông, lâm thủy sản giảm từ 23,3% xuống 17%. Điều này phù hợp với định hướng phát triển Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Biểu đồ 2 Về kiểm soát lạm phát, lạm phát được giữ ở mức thấp trong năm 2009. Tính chung cả năm, lạm phát trung bình ở mức 6.88%, hoàn thành mục tiêu kiềm chế lạm phát dưới 7% của Chính phủ. Đây là một cố gắng vượt bậc của Việt Nam trong điều hành kinh tế vĩ mô theo hướng tăng trưởng ổn định. Tuy nhiên, trong năm 2010, kiềm chế lạm phát sẽ khó khăn hơn nhiều bởi nhiều yếu tố như sự tăng giá của các mặt hàng nguyên liệu, nhiên liệu trên thế giới, độ trễ của chính sách tiền tệ nới lỏng trong năm 2009, cùng với đó là nhu cầu chi tiêu của Chính Phủ và nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh hậu khủng hoảng. Do đó, lạm phát đã trở thành một trong những mối quan ngại lớn nhất đối với kinh tế Việt Nam trong năm 2010. Thông điệp đầu năm 2010 của Thủ tướng chính phủ đã khẳng định mục tiêu ổn định vĩ mô, phát triển bền vững được ưu tiên hàng đầu. Với quyết sách đó, lạm phát sẽ được kiềm chế ở mức chấp nhận được để đảm bảo tăng trưởng bền vững. Nhiều khả năng, lạm phát trong năm 2010 sẽ được giữ ở mức dưới 10%. Thị trường tài chính Việt Nam đang từng bước được hoàn thiện và phát triển, đã có đóng góp nhất định trong việc điều tiết cung cầu vốn và cung cấp các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế. Tuy nhiên, hiện nay thị trường trài chính vẫn còn nhỏ bé, hoạt động yếu kém, thông tin chưa minh bạch, vẫn chưa tạo được sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phân thị trường. Điều đó phần nào làm giảm đi tính hiệu quả trong việc thực thi chính sách tài chính – tiền tệ, hạn chế khả năng giúp Chính phủ có thể linh hoạt trong thực thi kế hoạch NSNN. 1.2. Về xã hội GDP đầu người được cải thiện qua các năm: 639 USD/người năm 2005, 724 USD/người năm 2006, 835 USD/người năm 2007 và đến năm 2009 ước tính đạt 1066 USD/người. Mặc dù những con số trên còn khiêm tốn so với các nước trong khu vực, song đã cho thấy quá trình chuyển biến tích cực trong việc gia tăng thu nhập của người dân. Bên cạnh đó, số hộ giàu tăng lên đồng thời tỷ lệ hộ nghèo cũng giảm xuống đáng kể. Việt Nam được quốc tế đánh giá cao thành công trong việc xóa đói giảm nghèo. Nhiều chương trình, chính sách đầu tư phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội từ NSNN được thực hiện hiệu quả, góp phần nâng cao đời sống vật chất của nhân dân. Tuy nhiên, với quy mô dân số hiện tại, trong những năm tới, dân số Việt Nam mỗi năm tăng khoảng hơn 1 triệu người, đòi hỏi Nhà nước cần quan tâm giải quyết những vấn đề xã hội như giải quyết việc làm, giáo dục, y tế, an ninh trật tự xã hội. Mặt khác, cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, khoảng cách thu nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền và chênh lệch giàu nghèo ngày càng gia tăng. Đây cũng là vấn đề xã hội cần giải quyết, đặt ra yêu cầu Nhà nước phải phân phối thu nhập trong các tầng lớp dân cư, đảm bảo phát triển hài hòa giữa nông thôn và thành thị, các vùng miền, thực hiện công bằng xã hội. Tóm lại, mặc dù tình hình kinh tế xã hội vẫn tồn tại nhiều khó khăn và yếu kém, nhưng đặt trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tạo điều kiện quan trọng để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển trong những năm tới. 2. Thực trạng bội chi ngân sách nhà nước trong bối cảnh phục hồi kinh tế 2.1. Thực trạng thu ngân sách 2.1.1. Hoạt động thu ngân sách trong những năm gần đây Trong năm 2009, mặc dù bị ảnh hưởng trong những tháng đầu năm do thực hiện miễn, giảm, giãn thuế và giá dầu thô trên thế giới giảm nhưng những tháng cuối năm nhờ sản xuất kinh doanh trong nước phát triển, công tác hành thu đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Theo tờ trình của Chính phủ, thu ngân sách Nhà nước năm 2009 đạt 442.340 tỷ đồng, vượt 13,4% (52.440 tỷ đồng) so với dự toán, tăng thêm 51.690 tỷ đồng so với báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6. Trong đó, thu nội địa tăng hem 30.006 tỷ đồng, thu từ hoạt động xuất – nhập khẩu tăng hem 18.664 tỷ đồng… Như vậy, chỉ trong vòng hơn 2 tháng tính từ thời điểm báo cáo Quốc hội đến hết năm tài chính, chênh lệch giữa số liệu ước thực hiện và số liệu thực hiện quá lớn, tới mức 51.690 tỷ đồng, tương đương gần 3% GDP, gần bằng một nửa số bội chi ngân sách của năm 2009. Theo như ước tính của Tổng cục Thống kê từ đầu năm đến 15/12/2009, so với dự toán năm, các khoản thu nội địa bằng 102,5%; thu từ dầu thô bằng 86,7%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động XNK bằng 101,6%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước bằng 106,2%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 88,8%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài nhà nước bằng 95,6%; thuế thu nhập cá nhân bằng 87%; thu phí xăng dầu đạt 157,5%; thu phí, lệ phí bằng 90,8%. Công tác thu ngân sách trong những năm gần đây: Biểu đồ 3 Tính ra, trong giai đoạn 2005-2009, tổng số thu NSNN tăng khá về con số tuyệt đối, tốc độ tăng trung bình là 14,15% mỗi năm. Tỷ lệ động viên GDP vào NSNN khá ổn định qua các năm, trung bình đạt 28,64% GDP trong giai đoạn 2005 - 2008: Biểu đồ 4 Tốc độ tăng thu nội địa tăng qua các năm với tốc độ khá lớn, trong giai đoạn 2004-2007 trung bình đạt 23,66% thể hiện thu NSNN ngày càng tận dụng hơn nữa sức mạnh nội tại của nền kinh tế. Biểu đồ 5 2.1.2. Những bất cập trong khai thác nguồn thu Trốn thuế và lậu thuế đang là vấn đề nan giải hiện nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó, thất thu thuế còn do có nhiều khoản thu chưa được khai thác tương ứng với tiềm năng. Chẳng hạn, thuế thu nhập đối với cá nhân có thu nhập cao tuy tăng dần nhưng chỉ đóng góp một tỷ trọng nhỏ trong thu nội địa (năm 2005: 3,5%, năm 2006: 3,6% và năm 2007: 4,05%, ƯTH năm 2008: 4,86%, DT năm 2009: 6,24%) trong khi GDP và thu nhập bình quân đầu người trong giai đoạn này tăng trưởng khá. Rõ ràng vai trò điều tiết thu nhập mà Nhà nước hướng tới khi xây dựng sắc thuế này là chưa thực hiện được. Đối với các khoản thuế GTGT và thuế TNDN thực tế sự “ăn chia” tiền thuế của Nhà nước giữa cán bộ quản lý thuế với doanh nghiệp là rất phổ biến. Việc quản lý công sản, đặc biệt là tài nguyên đất thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập, điều này đã làm hạn chế việc khai thác nguồn lực tài chính phục vụ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phục vụ chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo, tạo áp lực cho cân đối NSNN. 2.2. Thực trạng chi ngân sách 2.2.1. Kết quả chi trong những năm gần đây Trong năm 2009, tổng chi NSNN từ đầu năm đến 15/12/2009, Tổng cục Thông kê ước tính bằng 472.630 nghìn tỷ đồng đạt 96,2% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 95,2% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản bằng 93,4%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể bằng 99,6%; chi trả nợ và viện trợ bằng 102,7%. Sự gia tăng đầu tư của Chính Phủ trong năm 2009 chủ yếu tập trung cho ngành giao thông vận tải, xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng và đầu tư cho y tế. Tính riêng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho ngành giao thông đạt hơn 30 nghìn tỷ đồng năm 2009, và dự kiến trong năm 2010 tiếp tục giải ngân đầu tư với lượng vốn lên tới 70 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng gần 10% GDP. 2.2.2. Kỷ luật tài khóa và phân bổ nguồn lực Trên cơ sở thu NSNN hàng năm tăng trưởng khá nên từ năm 2005 đến năm 2008, tổng chi NSNN hàng năm tăng khoảng 22% , một mức tăng khá cao, đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc cơ cấu lại các khoản chi để có thể phân bổ hợp lý hơn giữa các loại hình chi tiêu, giữa các ngành, các lĩnh vực. So sánh với mức gia tăng nguồn thu nội địa 23,66% trong giai đoạn 2004-2007, thì tốc độ gia tăng của chi NSNN hàng năm vẫn nhỏ hơn. Như vậy, nguồn lực trong nước đã được tận dụng tốt hơn, thể hiện chất lượng công tác điều hành NSNN ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, chi NSNN tăng với tốc độ cao (năm 2006: 17,27%; năm 2007: 23,61%, năm 2008: 24,55%) Chi NSNN qua các năm (đơn vị: nghìn tỷ) 2004 2005 2006 2007 ƯTH 2008 DT 2009 DT 2010 Chi NSNN 214176 262697 308058 380785 474280 491300 582200 % Tốc độ tăng chi NSNN 18,21 22,65 17,27 23,61 24,55 (Nguồn: Bộ Tài Chính) Bảng 1 Quy mô chi ngân sách của Việt Nam hiện nay vào hơn 30% GDP và gần gấp đôi so với con số tương ứng của Thái Lan, Singapore và Philippines. Đây thực sự là một thách thức lớn đối với cân bằng ngân sách trong những năm tới đối với Việt Nam. Chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên của NSNN 2005 2006 2007 ƯTH 2008 BQ % Tốc độ tăng chi TX 22,55 22,31 26,50 28,25 24,90 % Tốc độ tăng ĐTPT 19,79 11,54 18,07 12,94 15,59 % Chi TX/Tổng chi 50,37 52,54 53,77 57,06 53,44 % Chi ĐTPT/Tổng chi 30,15 28,68 28,08 25,60 28,13 % Chi ĐTPT/GDP 9,63 9,23 9,40 8,24 9,13 (Nguồn: Bộ Tài Chính) Bảng 2 Chi thường xuyên tăng với tốc độ lớn trong những năm gần đây (từ mức 22,31% năm 2006 lên mức 26,5% và 28,25 các năm 2007 và 2008). Tốc độ tăng chi đầu tư phát triển khá khác nhau giữa các năm (năm 2005 là 19,79% trong khi năm 2006 chỉ ở mức 11,54%). Có thể thấy, tốc độ tăng chi thường xuyên lớn hơn tốc độ tăng chi đầu tư phát triển. Vể cơ cấu chi NSNN, chi thường xuyên chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong tổng chi NSNN, từ 50,37% năm 2005 lên mức 53,77% năm 2007. Theo dự toán năm 2010, tỷ lệ này lên mức 57,64%, một mức khá cao. Do đó, trong thời gian tới, chi thường xuyên đòi hỏi phải được điều hành ở mức chi ổn định và vừa phải. Trong khi đó, tỷ lệ chi ĐTPT/Tổng chi có xu hướng giảm dần do những năm gần đây, nhu cầu chi thường xuyên của NSNN gia tăng, cùng với đó sự tham gia tốt hơn của nguồn vốn đầu tư từ khu vực nhà nước và dân cư trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tỷ lệ ĐTPT/GDP tương đối ổn định, trung bình đạt 9,13%, ước tính năm 2008 đạt 8,24%. Qua các năm, tỷ lệ này lớn hơn tỷ lệ bội chi NSNN/GDP. Điều này chứng tỏ nguyên tắc cân đối NSNN được quy định trong điều 8 Luật NSNN được tôn trọng triệt để: “trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách”. 2.2.3. Những thành tựu đạt được Kỷ luật tài khóa tổng thể được tôn trọng, phân bổ và sử dụng nguồn lực đã hợp lý hơn. NSNN tập trung vào những khoản chi cơ bản làm nền tảng phát triển kinh tế – xã hội, bố trí cho các các công trình dự án trọng điểm quốc gia, củng cố quốc phòng, an ninh, phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa xã hội. Đã kịp thời bổ sung vốn cho nền kinh tế, chủ động thực hiện các biện pháp kích cầu và tiêu dùng, khuyến khích sản xuất kinh doanh và xuất khẩu. NSNN đã được phân bố theo hướng đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm phát huy mọi tiềm năng kinh tế của từng địa phương, từng vùng, đưa kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành có hàm lượng công nghệ kỹ thuật cao; chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng cho nông thôn, các vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dan tộc ít người. Chi đầu tư phát triển tập trung cải tạo và xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng các công trình kinh tế mũi nhọn, trọng yếu, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội, khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài. Chi thường xuyên đảm bảo cho hoạt động quản lý của nhà nước, củng cố quốc phòng an ninh, phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa, nhất là chú trọng cho vùng sâu, vùng xa, vùng còn nhiều khó khăn. Thực hiện việc kiểm soát chi chặt chẽ nhằm từng bước nâng cao kỷ cương và hiệu quả các khoản chi NSNN. Đặc biệt, NSNN đã chú trọng đầu tư cho con người, góp phần thực hiện binh đẳng và công bằng xã hội. Chi ngân sách cho giáo dục là một trong những khoản mục chiếm tỷ lệ lớn trong tổng chi (năm 2005: 10,89%, năm 2006: 12,12%, năm 2007: 13,46%) và có tốc độ tăng nhanh nhất trong những năm gần đây (theo nguồn của Tổng cục thống kê: năm 2006 là 30,48%, năm 2007 là 44,04%), khẳng định chủ trương của Nhà nước coi giáo dục là quốc sách hàng đầu; đảm bảo chi cho phát triển xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo thông qua việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, nước sạch vệ sinh môi trường, chương trình Biển Đông hải đảo… Đồng thời, để hỗ trợ nhiệm vụ chi ngân sách khá nặng nề, sức ép tăng chi rất lớn, công tác quản lý tài chính đã mở rộng chủ trương xã hội hóa đầu tư, nhất là trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, mở rộng quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp, gắn quản lý kinh phí với quản lý con người, thúc đẩy tinh giản biên chế, đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. 2.2.4. Những mặt còn tồn tại Trong điều hành chi NSNN phải đảm bảo chi đúng, chi đầy đủ và chi kịp thời cho những khoản cần chi, nhưng ở đây xuất hiện vấn đề: Để đảm bảo chi đúng thì việc rà soát, đánh giá, phân loại đúng các khoản chi, xác định các khoản chi thuộc phạm vi chức năng NSNN phải đảm bảo vẫn còn gặp nhiều khó khăn, ang túng. Để có giới hạn chi đủ cần có định mức tiêu chuẩn phù hợp, nhưng hiện nay hệ thống này của ta còn rất lạc hậu, không thống nhất giữa nhiều ngành nhiều cấp. Chú trọng cho chi đầu tư phát triển là cần thiết, song, do cơ chế quản lý ngân sách theo đầu vào nên chưa tạo được sự phối hợp cân đối giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, dẫn đến tình trạng thiếu linh hoạt trong sự điều phối nguồn lực trong nội bộ các ngành: có ngành chi đầu tư phát triển quá cao so với những khoản chi thường xuyên cần thiết; ngược lại đối với một số ngành khác. Chính sự thiếu phối hợp này đưa đến hiệu quả chi thấp. Chẳng hạn như, sự bất cập và chậm trễ trong hoạt động bảo dưỡng, cải tạo hệ thống thủy lợi và thoát nước đã làm xói mòn hiệu quả của nguồn vốn phân bổ trong lĩnh vực nông nghiệp. Xu hướng phổ biến hiện nay là chú trọng quá mức tới việc xây mới trong khi không quan tâm đúng mức tới việc bảo dưỡng và duy trì hệ thống tưới tiêu hiện có; trong khi đó, hoạt động bảo dưỡng và quản lý hệ thống thủy lợi và tưới tiêu không chỉ tạo ra nhiều việc làm mà còn giúp nâng cao năng suất nông nghiệp. Về chi lương, hiện nay quỹ lương của ta chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng chi thường xuyên nhưng mức lương của cán bộ, công nhân viên rất thấp, đó là một bất hợp lý. Việc cải cách tiền lương chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là cải cách về tổ chức các cơ quan công quyền, cải cách về quy chế công chức, tinh giản biên chế nhằm trả lương đúng với yêu cầu của công vụ, cho những người đủ khả năng đáp ứng yêu cầu công vụ của nhà nước. Một vấn đề nữa không kém phần quan trọng khi đánh giá tình hình phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính Nhà nước, đó là: chi NSNN vẫn chưa dứt bỏ hoàn toàn cơ chế bao cấp, không tính đến hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực tài chính Nhà nước. Tình trạng cấp vốn lưu động, gia hạn nợ đọng thuế hoặc khoanh nợ, đảo nợ, giảm nợ… cho các DNNN làm ăn thua lỗ vẫn tiếp tục diễn ra. Điều này, về lâu dài không những có hại cho chính doanh nghiệp mà còn tạo nên gánh nặng cho NSNN, vì những doanh nghiệp yếu kém thường thiếu sức cạnh tranh, không giải quyết được nợ nần dây dưa gây hại đến cả hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, các hoạt động đầu tư bằng vốn NSNN không thật sự được công khai hóa, sự phân định trách nhiệm thiếu minh bạch, thiếu sự giám sát toàn diện từ công chúng, năng lực quản lý của các bộ ngành yếu kém không theo kịp xu hướng phát triển của nền kinh tế. Kết quả là tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư XDCB của NSNN diễn ra rất phổ biến. Và, một khi khoản chi không được sử dụng hiệu quả thì mục đích của việc vay nợ và khía cạnh tích cực của bội chi ngân sách sẽ không được phát huy. Tác động của việc này là làm gia tăng các nghĩa vụ nợ tương angho chính phủ, và do đó, gia tăng cả bội chi NSNN trong tương lai. 2.3. Phân cấp tài chính giữa các cấp ngân sách nhà nước Theo luật NSNN 2002, nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể của mỗi cấp chính quyền đã được phân định khá rõ ang theo nguyên tắc: ngân sách Trung ương giữ các nguồn thu quan trọng và đảm nhận những nhiệm vụ chi chủ yếu; theo thời gian, ngân sách địa phương được mở rộng quyền tự chủ trong khai thác các nguồn thu tại chỗ để thực hiện các khoản chi quản lý hành chính, cung cấp dịch vụ công phục vụ cho sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Kết quả là NSĐP từ chỗ chiếm trung bình 45% tổng chi NSNN giai đoạn 1997-2002 lên mức trung bình 52.4% giai đoạn 2003-2007. Điều này tạo nền tảng cơ bản cho địa phương chủ động nhằm cân đối ngân sách tích cực hơn. Biểu đồ 7 Phân cấp chi Ngân sách trung ương và địa phương qua các năm: 2003 2004 2005 2006 2007 NSTW 95,189 110,955 136056 161353 203344 NSĐP 85,994 103,221 126641 146705 177441 Tổng chi 181,183 214,176 262697 308058 380785 % NSTW 52,54% 51,81% 51,79% 52,38% 53,40% % NS ĐP 47,46% 48,19% 48,21% 47,62% 46,60% (Nguồn: Bộ Tài Chính) Bảng 3 Để thực hiện nhiệm vụ chi được phân cấp, cơ cấu nguồn thu phân định được chia thành 3 nhóm: các khoản thu 100% của NSTW; các khoản thu 100% của NSĐP; các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa NSTW và NSĐP. Tỷ lệ % phân chia các khoản thu giữa ngân sách trung ương với ngân sách cấp tỉnh do Chính phủ quyết định. Tỷ lệ này được áp dụng chung đối với tất cả các khoản thu được phân chia và được xác định riêng cho từng tỉnh theo công thức: Tỷ lệ phần trăm (%) = (A – B – C)/D Trong đó, A: tổng số chi ngân sách địa phương; B: tổng số thu địa phương được hưởng 100%; C: phần mà địa phương được hưởng từ tổng số thu phân chia giữa Trung ương và địa phương; D: tổng số các khoản thu được phân chia giữa NSTW với ngân sách tỉnh. Sau khi tỷ lệ phân chia được xác định, sẽ được giữ ổn định từ 3 – 5 năm. Trường hợp tỷ lệ này lớn hơn 100% thì địa phương sẽ được hưởng toàn bộ số thu phân chia theo tỷ lệ, phần còn thiếu sẽ được cấp bổ sung. Trường hợp tỷ lệ này là 100% nghĩa là tỉnh tự cân đối. Trường hợp tỷ lệ này nhỏ hơn 100% thì NSTW sẽ điều tiết bớt nguồn thu phát sinh trên địa bàn địa phương này. Như vậy, ngân sách trung ương phải thực hiện nhiệm vụ cân đối cho các ngân sách cấp tỉnh, hay thực tế là phải bao cấp cho các tỉnh không thể tự đảm bảo được chi ngân sách với số chi NSĐP lớn hơn tổng số thu địa phương được hưởng 100% và số thu phân chia. Theo số liệu thống kê, trong giai đoạn 1996 - 2003 cả nước có trên 60 tỉnh – thành nhưng chỉ có 5 tỉnh – thành tự cân đối được ngân sách, trên 55 tỉnh thành còn lại trung ương phải cấp bổ sung. Sang giai đoạn từ năm 2004 đến nay, cùng với chính sách đẩy mạnh phi tập trung hóa trong quản lý NSNN, địa phương được mở rộng quyền tự chủ hơn, một số loại thuế trước đây thuộc khoản thu 100% của NSTW, nay được chuyển thành khoản thu phân chia theo tỷ lệ giữa NSTW và NSĐP, như: toàn bộ thuế tiêu thụ đặc biệt từ hàng hóa, dịch vụ trong nước. Hiện nay chỉ có 11 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có tỉ lệ phân chia nhỏ hơn 100%, tức là không phải nhận trợ cấp từ NSTW, bao gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Đà Nẵng, Khánh Hòa, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Cần Thơ. 2.4. Bội chi ngân sách nhà nước 2.4.1. Mức độ bội chi ngân sách trong thời gian qua Năm 2009, nhằm ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, bảo đảm an sinh xã hội, Chính phủ đã sử dụng gói kích cầu khoảng 145.000 tỷ đồng (tương đương 8 tỷ USD). Quốc hội đã đồng ý tăng bội chi từ 4,82% GDP lên dưới 6,9%. Ước bội chi ngân sách Nhà nước năm 2009 bằng 6,9% GDP, từ mức 87.300 tỷ đồng lên 115.900 tỷ đồng, tăng 28.600 tỷ đồng so với dự toán. Số tăng bội chi ngân sách Nhà nước được sử dụng toàn bộ cho đầu tư phát triển theo đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước, tập trung để thu hồi ứng chi của ngân sách Trung ương cho các công trình, dự án kích thích kinh tế đã được Quốc hội cho phép thực hiện. Biểu đồ 8 Biểu đồ 9 Theo giới hạn mà Quốc hội đề ra, bội chi ngân sách tối đa được phép là 5% GDP/năm. Nhưng trên thực tế, quy định trên không áp đặt được kỷ luật đối với hoạt động chi tiêu ngân sách, bội chi ngân sách trong vài năm trở lại đây của Việt Nam luôn vượt quá 5%.Vấn đề thực sự là với nền tài khóa quốc gia như hiện nay, nếu bội chi ngân sách cứ luôn vượt quá 5% GDP trong một thời gian dài sẽ nguy hiểm. Nếu không duy trì được sự lành mạnh trong cán cân tài khóa, không giảm bội chi ngân sách đến mức độ lành mạnh thì chắc chắn nó sẽ gây sức ép rất lớn lên việc điều hành kinh tế vĩ mô. 2.4.2. Nguyên nhân của bội chi ngân sách Nguyên nhân chủ quan của bội chi ngân sách thể hiện ở chính sách chủ động chấp nhận bội chi ngay khi lập dự toán để tăng cường nguồn lực cho xây dựng cơ sở hạ tầng, và khi chấp hành NSNN đã cố gắng kiểm soát được con số này để góp phần tạo đà cho tăng trưởng kinh tế. Nguyên nhân chủ quan còn thể hiện ở chính sách khai thác nguồn thu còn nhiều bất cập; chính sách phân bổ, sử dụng nguồn lực và cân đối giữa các khoản chi chưa hợp lí đưa đến tình trạng thất thoát, lãng phí. Chất lượng đầu tư công thấp: chất lượng của đầu tư công là một chỉ báo then chốt cho sự thành công của chính phủ trong cải cách. Những người hay nhóm có thế lực chính trị thường lợi dụng các dự án đầu tư công để trục lợi cá nhân và trở lên giàu có một cách bất chính. Khi đầu tư công trở thành đối tượng của các hành vi trục lợi thì một mặt mục tiêu của dự án đầu tư không được thực hiện, đồng thời gánh nặng chi phí sẽ được đặt lên vai của người dân và của nền kinh tế. Trên thực tế Việt Nam đang đánh mất một phần đáng kể nguồn lực của mình do lãng phí và tham nhũng. Quá nhiều tiền được chi cho các dự án thâm dụng vốn và hàng nhập khẩu, nhưng lại không đóng góp đúng mức cho tăng trưởng kinh tế. Quá nhiều tiền được chi cho các doanh nghiệp lớn của nhà nước với mục đích đầu cơ. Việc chi tiêu angơ sở hạ tầng công cộng thì không được ưu tiên đúng mức. Hiệu quả đầu tư thấp thể hiện ở chỉ số ICOR tăng. Hệ số ICOR tăng lên nhanh chóng: năm 2007 là 5,2; 2008 là 6,6 và 2009 đã tăng lên trên 8. Chỉ số ICOR của Việt Nam ở một mức rất cao không những so với các quốc gia mới nổi ở Châu Á mà còn cao so với các nước trong khu vực Asean. Đối với các nước đang phát triển, ICOR do các tổ chức quốc tế khuyến nghị nằm ở mức 3 lần, đây là mức đầu tư có hiệu quả và từ đó nền kinh tế có hướng phát triển bền vững. Nếu so sánh với các nước trong khu vực, ICOR của Việt Nam lớn gần gấp đôi, đồng nghĩa với hiệu quả sử dụng vốn thấp hơn một nửa. Ảnh hưởng của hội nhập quốc tế đưa đến sự cắt giảm thuế quan. Khi gia nhập WTO, nguồn thu từ thuế nhập khẩu của NSNN sẽ giảm xuống do cam kết cắt giảm thuế quan. Theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam sẽ cắt giảm 22% thuế nhập khẩu so với mức hiện hành, thực hiện trong vòng 5 năm kể từ khi gia nhập WTO. Giá hàng hóa trên thế giới (nhất là giá nhóm hàng năng lượng, phân bón, Clinke, thuốc phòng chữa bệnh và phôi thép) tăng liên tục với tốc độ cao ảnh hưởng đến mức bội chi NSNN trên các giác độ: các hàng hóa xuất khẩu đạt giá cao hơn. Từ đó, thu NSNN từ hoạt động ngoại thương tăng nhưng các hàng hóa tăng giá mạnh lại là những vật tư đầu vào quan trọng mà chúng ta phải nhập khẩu với số lượng lớn kết quả là chi phí sản xuất của các doanh nghiệp tăng, làm giảm thu nhập chịu thuế của gần như tất cả các doanh nghiệp, nguồn thu NSNN từ thuế thu nhập doanh nghiệp giảm. 2.5. Quản lý nợ công Theo Luật Quản lý nợ công năm 2009, nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương. Như vậy, các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ (trong cũng như ngoài nước), trái phiếu công trình đô thị, hay một tập đoàn kinh tế vay nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công. Nợ công nếu sử dụng khéo có thể phục vụ tốt cho phát triển đất nước, còn sử dụng kém hiệu quả có thể dẫn đất nước đến nợ nần chồng chất và thế hệ mai sau phải gánh trách nhiệm trả nợ. 2.5.1. Mức nợ công ở Việt Nam Tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào tháng 5/2010, báo cáo cho thấy nợ chính phủ đang tăng cao: bằng 33,8% GDP năm 2007; 36,2% GDP năm 2008, 41,9% GDP năm 2009. Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội cảnh báo mức nợ chính phủ đã tăng sát mức trần cho phép. Cuối năm 2010, nợ chính phủ sẽ chiếm 44,6% GDP, do điều chỉnh tăng bội chi ngân sách lên trên 5% GDP (năm 2009 là 6,9% GDP và năm 2010 là 6,2% GDP), cùng với việc tăng phát hành trái phiếu chính phủ (trong hai năm 2009 và 2010 là 120.000 tỷ đồng). Mức nợ này, nếu đúng theo báo cáo, chỉ mới là nợ chính phủ, chưa phải là tổng mức nợ công vì chưa tính đến các khoản nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương. Theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế, tỷ lệ hợp lý với trường hợp các nước đang phát triển nên ở mức dưới 50% GDP, mặc dù, có khá nhiều nước tỷ lệ này lên đến trên 80% GDP. Nếu cộng hai khoản nói trên, nhất là những kh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc112153.doc
Tài liệu liên quan