LỜI NÓI ĐẦU 6
LỜI CẢM ƠN 12
LỜI CAM ĐOAN 13
CHƯƠNG I 14
XÁC LẬP TÍNH TOÁN HIỆU QUẢ KINH TẾ ĐỐI VỚI MỘT HỆ THỐNG 14
THU GOM CHẤT THẢI RẮN 14
I. Khái niệm hiệu quả kinh tế và đánh giá hiệu quả kinh tế 14
1.1. Khái niệm và phân loại hiệu quả dự án .14
1.2. Khái niệm và mục đích của việc đánh giá hiệu quả kinh tế một dự án.15
1.2.1. Phân tích tài chính của dự án 15
1.2.1.1.Lợi ích ròng NB 17
1.2.1.2. Lợi nhuận ròng của dự án 17
1.2.1.3.Giá trị hiện tại ròng ( NPV - Net Present Value ) 17
1.2.1.4.Tỷ lệ lợi ích - chi phí ( B/C ) 18
1.2.1.5. Hệ số hoàn vốn nội bộ ( IRR - Internal Rate of Return ) 19
1.2.2.Phân tích kinh tế của dự án 19
1.2.2.1. Các chỉ tiêu NB, NPV, B/C, IRR . 20
1.2.2.1.1. Giá trị gia tăng thuần tuý ( NVA) 20
1.2.2.1.2.Chỉ tiêu số lao động 20
1.2.2.1.3. Chỉ tiêu về phân phối thu nhập và công bằng xã hội 20
1.2.2.1.4. Chỉ tiêu tiết kiệm và tăng nguồn ngoại tệ 21
1.2.2.1.5. Các tác động khác của dự án 21
1.3. Sử dụng đánh giá hiệu quả kinh tế để ra quyết định thực thi dự án.22
II. Nội dung đánh giá hiệu quả của việc thiết lập hệ thống thu gom chất thải rắn 24
2.1. Nội dung đánh giá hiệu quả.24
2.2. Một số phương pháp định giá thiệt hại do ô nhiễm.25
2.2.1. Phương pháp định giá trực tiếp 25
2.2.2. Phương pháp so sánh năng suất sản lượng thu hoạch 25
2.2.3. Phương pháp định giá theo hiệu quả sử dụng 25
2.2.4. Phương pháp định giá ô nhiễm đối với sức khoẻ 26
2.2.5. Phương pháp tiếp cận giá trị hưởng thụ 27
III. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hệ thống thu gom chất thải rắn 27
3.1. Chi phí cho hệ thống thu gom.28
3.1.1. Chi phí thu gom hàng năm 28
3.1.2. Chi phí vận chuyển hàng năm 28
3.1.3. Chi phí cơ hội của việc sử dụng đất 28
3.1.4. Chi phí quản lý hành chính C4 28
3.1.5. Chi phí môi trường 28
3.1.5.1. Chi phí thiệt hại mùa màng do bãi chôn lấp gây ra 29
3.1.5.2. Chi phí môi trường khác ECi 29
3.2. Lợi ích thu được từ hệ thống thu gom.29
3.2.1. Lợi ích thu được từ phí vệ sinh môi trường B1 29
3.2.2. Lợi ích thu được từ thu gom phế liệu B2 30
3.2.3. Lợi ích thu được từ giảm chi phí khám chữa bệnh cho người dân
3.2.4. Lợi ích tiềm năng của việc thu khí gas B4 30
3.2.5. Các lợi ích khác (chưa lượng hoá được) 30
3.2.5.1. Tạo công ăn việc làm cho người dân 30
3.2.5.2. Cải thiện môi trường đất, nước, không khí 30
3.2.5.3. Cải thiện môi trường cảnh quan làng nghề 30
3.2.5.4. Tạo nếp sống văn minh cho người dân 30
CHƯƠNG II 31
THỰC TRẠNG THU GOM CHẤT THẢI RẮN Ở XÃ PHONG KHÊ 31
I. Tổng quan khu vực nghiên cứu: 31
1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên xã Phong Khê.31
1.1.1. Vị trí địa lý, đặc điểm địa hình: 31
1.1.2. Khí hậu, thuỷ văn 31
1.1.3. Tài nguyên sinh vật và hệ sinh thái khu vực: 32
1.2. Tình hình kinh tế - văn hoá - xã hội xã Phong Khê.34
1.2.1. Dân cư và lao động 34
1.2.2. Tình hình phát triển kinh tế 35
1.2.3.Văn hoá và nghề truyền thống: 37
1.2.3.1. Giáo dục 38
1.2.3.2.Y tế 38
1.2.3.3. Giao thông 40
II. Hiện trạng môi trường làng giấy Phong Khê 40
2.1. Lịch sử nghề làm giấy ở Phong Khê.40
2.2. Hiện trạng chất lượng môi trường làng giấy Phong Khê.41
2.2.1. Chất lượng môi trường nước 41
2.2.1.1. Nước sinh hoạt 41
2.2.1.2. Nước mặt 42
2.2.1.3. Nước thải 43
2.2.2. Chất lượng môi trường không khí tại khu vực 44
2.2.2.1. Các nguồn gây ô nhiễm 44
2.2.2.2.Đánh giá chung về chất lượng môi trường không khí khu vực 44
2.2.3. Tiếng ồn 45
2.2.3.1.Các nguồn gây ồn 45
2.2.3.2. Mức ồn tại khu vực 45
2.2.4. Chất lượng môi trường đất 45
2.2.5. Chất thải rắn 46
2.2.5.1. Các nguồn phát sinh chất thải rắn 46
2.2.5.2. Lượng và thành phần chất thải rắn 46
III. Hiện trạng hệ thống thu gom và xử lý chất thải rắn xã Phong Khê 48
3.1. Hiện trạng thu gom và xử lý chất thải rắn của xã.48
3.2. Đánh giá việc thu gom chất thải rắn của xã.48
CHƯƠNG III 51
ĐỀ XUẤT VÀ ĐÁNH GIÁ VIỆC THIẾT LẬP TUYẾN THU GOM CHẤT THẢI RẮN CHO XÃ PHONG KHÊ. 51
I. Đề xuất việc thiết lập tuyến thu gom chất thải rắn cho xã Phong Khê 51
1.1. Sơ đồ tuyến thu gom.51
1.2. Cơ cấu tổ chức .54
1.3. Phương tiện thu gom .56
II. Đánh giá hiệu quả của tuyến thu gom đề xuất .56
2.1. Xác định chi phí.56
2.1.1. Chi phí thu gom hàng năm 56
2.1.2. Chi phí vận chuyển hàng năm 58
2.1.3. Chi phí cơ hội của việc sử dụng đất 58
2.1.4. Chi phí quản lý hành chính 59
2.1.5. Chi phí môi trường 59
2.2. Xác định lợi ích.61
2.2.1. Lợi ích thu được từ phí vệ sinh môi trường 61
2.2.2. Lợi ích thu được từ việc thu gom phế liệu 63
2.2.3. Lợi ích thu được từ việc giảm chi phí khám chữa bệnh của người dân 64
2.2.4. Lợi ích tiềm năng của việc thu khí gas 65
2.2.5. Lợi ích khác (chưa lượng hoá được) 66
2.2.5.1. Tạo công ăn việc làm cho người dân 66
2.2.5.2. Cải thiện môi trường đất, nước, không khí 67
2.2.5.3. Cải thiện môi trường cảnh quan làng nghề 67
2.2.5.4. Tạo nếp sống văn minh cho người dân 67
2.3. Đánh giá hiệu quả phương án. .68
III. Kiến nghị và giải pháp 70
3.1. Kiến nghị.70
3.2. Giải pháp.71
3.2.1. Các giải pháp chung.71
3.2.2. Giải pháp tài chính để duy trì hệ thống thu gom chất thải rắn.72
KẾT LUẬN 77
PHỤ LỤC.80
TÀI LIỆU THAM KHẢO.87
88 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1196 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bước đầu tính toán hiệu quả kinh tế của việc thiết lập hệ thống thu gom chất thải rắn làng giấy Phong Khê, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phong Khê thuộc Kinh Bắc cũ nay là tỉnh Bắc Ninh, nó mang những nét đặc trưng của một vùng văn hiến lâu đời - kết quả giao thoa, giao hoà văn hoá Việt - Hán - ấn - Chàm trong lịch sử. Bắc Ninh là quê hương quan họ, quê hương của tranh Đông Hồ, vượt trội về hội hè, đình đám so với các tỉnh khác. Dân gian đã từng có câu: "Ăn Bắc mặc Kinh". Giáo sư tiến sỹ Nguyễn Văn Huyên cũng đã viết: "Bắc Ninh là cái nôi của người Việt và văn hoá Việt" . Phong Khê vì thế cũng hội tụ đầy đủ những đặc trưng của một làng Kinh Bắc, tuy nhiên nó cũng mang nhiều nét riêng biệt. Làng Phong Khê có nghề xeo giấy cổ truyền với sản phẩm giấy dó, giấy cuốn ngòi pháo có chất lượng cao. Trong khoảng 5 năm trở lại đây, từ khi nhà nước quyết định cấm pháo (1994), Phong Khê đã có những thay đổi đáng kể. Nghề xeo giấy thủ công bị mất thị trường tiêu thụ nên mai một dần. Vì nhu cầu dân sinh và do tính năng động vốn có nên người dân Phong Khê đã nhanh chóng chuyển sang sản xuất một số mặt hàng giấy từ giấy loại với trang thiết bị máy móc công nghiệp. Ban đầu, toàn thôn chỉ có 10 dây chuyền máy xeo giấy nhưng 100% số hộ có cả gia đình hoặc một vài thành viên tham gia vào sản xuất giấy (trực tiếp lao động trong các xưởng hoặc làm các công việc liên quan đến sản xuất giấy). Lao động trong xưởng chủ yếu là nam giới, phụ nữ và trẻ em thường làm các việc bóc lề và phân loại giấy cho các xưởng và đại lý. ở những hộ còn duy trì xeo giấy thủ công thì phụ nữ là lao động chính do tính chất công việc đòi hỏi sự khéo léo. Hoạt động sản xuất này cũng đã kéo theo một số nghề phụ trợ có liên quan như mua gom, buôn bán giấy loại và dịch vụ vận chuyển, thương nghiệp. Các nghề phụ đã tận dụng lao động ở mọi lứa tuổi và đem lại thu nhập ngoài nông nghiệp cho hầu hết các hộ gia đình.
1.2.3.1. Giáo dục
Dân làng hầu hết có trình độ học hết cấp I, cấp II. Trong những năm gần đây số học sinh theo học cấp III tăng lên đáng kể. Đa số các hộ gia đình đều tạo điều kiện thuận lợi cho con em học hết khả năng có thể. Số học sinh nghỉ học giữa chừng thường là do học kém, chán học chứ không phải vì hoàn cảnh gia đình như ở nhiều vùng nông thôn khác. Toàn xã có một trường tiểu học và một trường trung học cơ sở. Số lượng lớp học đủ cho học sinh theo học hai ca: sáng và chiều. Trường học được bố trí trong một không gian thoáng mát (xung quanh là đồng ruộng), xa các xưởng làm giấy. Trẻ em ở làng có tham gia lao động ngoài giờ, nhưng việc học tập vẫn được coi trọng hàng đầu. ở nhiều gia đình, việc làm thêm của trẻ em chủ yếu được dành cho chi tiêu cá nhân, không phải đóng góp cho bố mẹ.
1.2.3.2.Y tế
Xã có một trạm xá, người dân trong xã có thể đến khám bệnh và mua thuốc tại trạm xá. Việc kiểm tra sức khoẻ thường xuyên hay kiểm tra sức khoẻ định kỳ của người dân là chưa có. Sự chăm sóc sức khoẻ ban đầu của nhân dân trong làng còn chưa được chú trọng. Có thể nói việc tuyên truyền, giáo dục lối sống văn minh là còn yếu. Gần 80% số hộ không có nhà vệ sinh, các gia đình đều có giếng khoan nhưng nước giếng có hiện tượng nhiễm khuẩn. Đây là nguyên nhân gây bệnh tiêu hoá và bệnh ngoài da khá cao ở làng.
Trong vài năm trở lại đây, do hiện tượng ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng cuộc sống cũng như sức khoẻ của người dân và công nhân lao động trong vùng. Các bệnh thường xuất hiện ở làng giấy Phong Khê là bệnh hô hấp, bệnh tiêu hoá, bệnh về da, bệnh về mắt, bệnh phụ khoa.
Theo số liệu điều tra khảo sát đánh giá tại làng nghề về sức khoẻ y tế cộng đồng cho thấy tỷ lệ mắc bệnh được thể hiện như sau:
Bảng 3: Tình hình sức khoẻ cộng đồng tại khu vực
Các loại bệnh và các triệu chứng thường gặp
Tỷ lệ (%o)
Các loại bệnh và các triệu chứng thường gặp
Tỷ lệ (%o)
Bệnh tai mũi họng:
Ngạt mũi
Chảy nước mũi
Khản họng
Khô họng
Đau họng
Bệnh hô hấp:
Ho
Khạc đờm
Tức ngực
Cảm giác ngạt thở
Cảm giác khó thở
Thở khò khè
Sốt
Bệnh mắt:
Ngứa cộm mắt
Chảy nước mắt
Nhìn mờ
Mắt đỏ
Bệnh phụ khoa:
Ngứa BPSD
Khí hư
Đau bụng dưới
40
37,3
32,7
45,7
32
36
39,7
29,7
31,3
26,7
11
18,3
45
32,3
30,3
40,7
5
12
18
Bệnh da liễu:
Ngứa
Nổi mẩn
Khô, nứt da
Trợt loét da
Nước ăn chân tay
Nốt phỏng
Bệnh thần kinh:
Mất ngủ
Hoa mắt, chóng mặt
Đau đầu
Giảm trí nhớ
Giảm sức nghe
Đau mỏi cơ khớp
Bệnh tiết niệu:
Đái rắt
Đái buốt
Đái sỏi
Đái máu
Bệnh tiêu hoá:
Đường ruột
Buồn nôn
Khó tiêu
Đau bụng
42,3
39
14,7
25
40,7
9
44,7
53
53
31
33,7
52,3
17,7
12,3
1
1
43,7
10,3
12
24
Nguồn: Trạm y tế xã Phong Khê, 2002
1.2.3.3. Giao thông
Phong Khê nằm gần quốc lộ 1 Hà Nội - Lạng Sơn, cách thị xã Bắc Ninh 2km theo đường 1A do vậy rất thuận tiện cho việc giao lưu, buôn bán của làng. Tuy vậy, bề rộng của đường còn nhỏ, số lượng phương tiện qua lại khá đông đúc lại có nhiều phương tiện trọng tải lớn tham gia vào giao thông nên dễ có nguy cơ xảy ra tai nạn và thường xuyên tắc nghẽn. Đường vào làng vẫn chưa được bê tông hoá, ảnh hưởng đến việc đi lại khi trời mưa. Đường trong làng nhỏ hẹp, xe có trọng tải lớn không vào được. Tuy nhiên, gần đây phong trào làm đường giao thông phát triển mạnh. Đến nay, 100% các thôn đã lát gạch hoặc rải bê tông các tuyến đường làng ngõ xóm.
Do có sông Ngũ Huyện Khê chảy qua địa bàn xã nên việc giao thông bằng đường thuỷ của xã sang các vùng lân cận là khá thuận lợi.
II. Hiện trạng môi trường làng giấy Phong Khê
2.1. Lịch sử nghề làm giấy ở Phong Khê
Nghề giấy ở Phong Khê đã có cách đây rất lâu. Có một số ý kiến cho rằng nghề giấy đã có từ 300 - 400 năm trước, nhưng thực tế không ai biết nó xuất hiện chính xác vào thời gian nào. Cho đến trước năm 1960, sản xuất vẫn mang tính chất kinh tế hộ gia đình. Đến năm 1960, làng Phong Khê đã hình thành hai loại hợp tác xã là hợp tác xã nông nghiệp và hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp. Đến năm 1970, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp bị tan rã, việc sản xuất giấy thủ công vẫn được duy trì ở các hộ gia đình nhưng rất mờ nhạt do không có thị trường tiêu thụ. Khi chỉ thị 100 (1981) ra đời với thể chế khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, cùng với nhu cầu pháo của thị trường cả nước tăng, người dân Phong Khê đã tập trung vào sản xuất giấy thủ công, đặc biệt là các loại giấy dó phục vụ nghề làm pháo. Thời kỳ này người dân vẫn phụ thuộc vào hợp tác xã nông nghiệp nên nghề thủ công vẫn chưa phát triển mạnh. Khi nghị quyết 10 (1988) được ban hành, đặc biệt là quá trình giao đất đến tận tay người nông dân vào năm 1993, người dân đã có điều kiện tập trung vào nghề thủ công, chủ yếu là phục vụ cho người làm pháo.
Năm 1994, nhà nước ra quyết định cấm pháo trong cả nước. Mất thị trường tiêu thụ, nghề sản xuất giấy thủ công hầu như bị phá bỏ. Một số người dân ở Dương ổ và Đào Xá đã rất năng động và nắm bắt được nhu cầu thị trường, đã mạnh dạn bỏ vốn mua máy của một số xí nghiệp sản xuất giấy ở Hà Bắc (cũ) bị giải thể, thành lập xưởng sản xuất giấy từ giấy phế thải.
Vì nguyên liệu đầu vào là giấy phế thải, chỉ cần nguồn vốn nhỏ và tìm được thị trường tiêu thụ nên nghề giấy đã đứng vững và phát triển. Hiện nay theo con số thống kê tạm thời của ban thống kê xã thì thôn Dương ổ có khoảng 80 xưởng và thôn Đào Xá có khoảng 23 xưởng sản xuất giấy các loại. Nghề sản xuất thủ công vẫn tồn tại trong một số hộ dân, chủ yếu là sản xuất giấy bản từ giấy bao xi măng loại, phục vụ cho việc làm vàng mã. Việc sản xuất giấy dó chỉ theo đơn đặt hàng. Trong quá trình duy trì sản xuất, người dân trong làng cũng sẵn sàng truyền nghề cho những người chưa biết làm và muốn học hỏi, không kể là người trong làng hay ngoài làng. Trong một hai năm trở lại đây, số xưởng sản xuất cũng như số dây chuyền sản xuất tăng lên rất nhanh. Sản xuất của làng nghề đã từng bước được cơ giới hoá. Quy mô sản xuất không chỉ bó hẹp trong các hộ gia đình mà đã mở rộng thành các doanh nghiệp cổ phần hoặc cơ sở sản xuất có sử dụng nhân công bên ngoài.
2.2. Hiện trạng chất lượng môi trường làng giấy Phong Khê
2.2.1. Chất lượng môi trường nước
2.2.1.1. Nước sinh hoạt và sản xuất
Nước ngầm là nguồn nước cấp chủ yếu cho hoạt động sản xuất và sinh hoạt ở xã Phong Khê. Toàn xã có 7840 nhân khẩu, trung bình sử dụng mỗi ngày khoảng 2700 - 3000 m3 nước. Nguồn nước ở đây được đánh giá là tương đối phong phú, chất lượng tốt. Kết quả phân tích chất lượng nước cấp được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 4: Kết quả phân tích chất lượng nước sinh hoạt xã Phong Khê
TT
Thông số
Đơn vị
UB
GĐ
HL
TCBYT
505/92
1
pH
-
6,9
6,8
6,7
6,5 - 8,5
2
Độ cứng (CaCO3)
mg/l
108
111
127
500
3
Độ màu
PtCo
5
10
10
10
4
Độ đục
NTU
7
9
6
<10
5
COD
mg/l
7,2
6,8
7,8
-
6
BOD
mg/l
3,1
2,9
3,3
-
7
Fe
mg/l
0,15
0,12
0,18
0,3
8
Coliform
MPN/100ml
11
10
18
3
9
Feacal coliform
MPN/100ml
5
6
9
0
Nguồn: Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001
Ghi chú: - Giếng nước ngầm tại Uỷ ban nhân dân xã Phong Khê
- Giếng nước ngầm của gia đình gần UBND xã Phong Khê
- Giếng nước ngầm tại cơ sở sản xuất Hoàng Long
Kết quả phân tích chất lượng nước ở bảng trên cho thấy, các mẫu nước đếu đạt tiêu chuẩn cho phép (TCBYT 505/92). Tuy nhiên thông số về vi sinh vật lại vượt tiêu chuẩn cho phép.
Qua điều tra, khảo sát tại địa phương, một phần dân cư tại xã đã bắt đầu chuyển sang dùng nước khoáng làm nước sinh hoạt (chủ yếu là để uống). Tuy vậy, chỉ những hộ có thu nhập cao mới sử dụng loại nước này, còn phần đông chủ yếu vẫn dùng nước giếng khoan làm nước sinh hoạt.
2.2.1.2. Nước mặt
Sông Ngũ Huyện Khê là con sông duy nhất chảy qua khu vực xã Phong Khê và cũng là thuỷ vực tiếp nhận nước thải sản xuất và sinh hoạt của xã. Ngoài ra, sông này còn là nơi tiếp nhận nước thải của các làng nghề thủ công nghiệp khác như làng tái chế sắt Đa Hội, tái chế giấy Phú Lâm... Nước thải của tất cả các làng nghề này đều không được xử lý và đổ thẳng ra sông Ngũ Huyện Khê, làm ảnh hưởng đến chất lượng nước sông.
Theo mẫu nghiên cứu nước sông Ngũ Huyện Khê của Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, cho thấy, nước sông Ngũ Huyện Khê có hàm lượng cặn lơ lửng, BOD, COD và vi sinh vật cao hơn TCCP đối với nguồn nước mặt loại B.
2.2.1.3. Nước thải
Cũng giống như các làng nghề khác, Phong Khê có hai nguồn nước thải chủ yếu đó là nước thải từ sản xuất và nước thải sinh hoạt. Tổng khối lượng nước thải sản xuất và sinh hoạt của toàn xã khoảng 2000 - 3000 m3/ngày đêm, trong đó nước thải sinh hoạt chiếm 17 - 20 %. Nước thải sinh hoạt chứa nhiều dầu mỡ thực vật, hàm lượng chất hữu cơ cao, hàm lượng khoáng lớn...lại được đổ chung với nước thải sản xuất giấy vốn đã bị ô nhiễm nặng bởi độ kiềm lớn, nước chứa nhiều chất độc hại, phèn, phẩm, javen,... nên nước thải làng nghề Phong Khê thuộc loại ô nhiễm nặng.
Hệ thống thoát nước của khu làng nghề đã được xây dựng từ lâu, không đáp ứng được với lưu lượng nước thải lớn nên thường xuyên bị tắc ống cống và nước ứ đọng, chảy lênh láng ra các khu vực khác. Để giải quyết tình trạng này, địa phương đã đào mương đất bên cạnh mương thoát nước đã được xây bằng bê tông từ trước. Tuy nhiên do thành mương làm bằng đất cho nên nước thải đã ngấm ra khu vực canh tác đất nông nghiệp. Tại xã đã xuất hiện những diện tích úa bị chết do ảnh hưởng của nước thải. Theo tính toán sơ bộ, diện tích phải hứng chịu ảnh hưởng của nước thải khoảng 10 ha.
Bảng 5: Tải lượng các chất ô nhiễm do hoạt động sản xuất và sinh hoạt
ở xã Phong Khê
TT
Chất ô nhiễm
Tải lượng ô nhiễm
kg / ngày
tấn / năm
1
Rắn lơ lửng
711,6 - 853,9
256,2 - 307,4
2
COD
625,1 - 750,1
224,9 - 270,1
3
BOD
317,3 - 380,7
114,2 - 137,1
Nguồn: Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001
2.2.2. Chất lượng môi trường không khí tại khu vực
2.2.2.1. Các nguồn gây ô nhiễm
Nguồn gây ô nhiễm không khí tại khu vực bao gồm:
- Bụi và các chất khí độc phát sinh từ công nghệ sản xuất giấy của xã, chủ yếu tại thôn Dương ổ và thôn Đào Xá.
- Bụi và các khí độc phát sinh từ các phương tiện giao thông trong khu vực, đặc biệt là khí độc sinh ra trong môi trường kỵ khí tại hệ thống kênh, mương thoát nước thải trong xã.
Ngoài ra các làng nghề tái sinh giấy còn bị ô nhiễm bởi hơi kiềm do quá trình ngâm phế liệu, nhưng chỉ ở mức độ cục bộ tại các hộ sản xuất.
2.2.2.2.Đánh giá chung về chất lượng môi trường không khí khu vực
Môi trường không khí tại khu vực các hộ sản xuất giấy
Với việc sử dụng một khối lượng lớn than đá làm nhiên liệu và với đặc thù sản xuất giấy sử dụng nhiều hoá chất độc hại (javen, các loại phẩm mầu...), môi trường không khí tại các khu vực sản xuất đã có dấu hiệu ô nhiễm đặc trưng. Hàm lượng CO trong không khí ở các hộ sản xuất giấy ở mức khá cao (19 - 35 mg/m3). Còn khí Clo (là loại khí độc đặc trưng cho quá trình sử dụng nước javen để tẩy trắng bột giấy) có nồng độ từ 0,126 - 0,133 mg/m3, vượt TCCP khoảng 1,3 lần. Còn lại các thông số ô nhiễm không khí khác như bụi, SO2, NO2 đều nhỏ hơn TCCP nhiều lần. (Nguồn: Viện Khoa học Công nghệ môi trường, Đại học Bách Khoa Hà Nội)
Môi trường không khí tại khu vực dân cư
Kết quả phân tích chất lượng không khí khu vực dân cư của Viện Khoa học Công nghệ môi trường, ĐH Bách Khoa Hà Nội (2001) cho thấy môi trường không khí của khu vực này bị ảnh hưởng bởi bụi tro than của khu vực sản xuất. Hàm lượng bụi trong không khí ở khu vực chợ cao gấp 1,6 lần TCCP còn ở khu vực chùa làng cao gấp 2,3 lần TCCP. Đây chính là nguyên nhân của các bệnh về mắt và về đường hô hấp của người dân làng nghề.
2.2.3. Tiếng ồn
2.2.3.1.Các nguồn gây ồn
Các nguồn gây ồn chính trong xã là từ giao thông vận tải đi lại trong xã (có nhiều loại xe lớn được dùng để vận chuyển nguyên vật liệu) và tiếng ồn từ các hộ sản xuất đặc biệt từ khu Dương ổ.
2.2.3.2. Mức ồn tại khu vực
Mức áp âm tại các khu vực dân cư đều thấp hơn TCCP (TCVN 5949 - 1998), riêng khu vực chợ làng có mức áp âm tương đối lớn, tuy nhiên vẫn nằm trong TCCP.
Tại khu sản xuất giấy, mức áp âm khá lớn, gây ồn cho các nhà dân xung quanh. Điều này có thể lý giải là do tại các cơ sở sản xuất , trang thiết bị đang sử dụng đều đã lạc hậu về mặt công nghệ, chắp vá, không đồng bộ, gây ra tiếng ồn.
2.2.4. Chất lượng môi trường đất
Để đánh giá ảnh hưởng của chất thải đối với chất lượng môi trường đất, ta xem kết quả phân tích sau:
Bảng 6: Chất lượng môi trường đất tại khu vực xã Phong Khê
TT
Thông số
Đơn vị
Kết quả
Đất dọc mương thải, cạnh UBND xã
Đất dọc mương thải phía các cơ sở sản xuất giấy
Đất dọc đường làng, phía đường sắt
1
pH KCL
6,48
6,82
6,31
2
Độ mùn
%
2,134
2,573
1,955
3
C
%
0,928
1,034
0,716
4
Nts
%
0,0294
0,0131
0,0096
5
Pts
%
0,5378
0,4215
0,6120
6
Fe
mg/kg
845
1128
672
Nguồn: Viện Khoa học Công Nghệ và môi trường, ĐH BK Hà Nội, 2001
Dựa vào kết quả phân tích chất lượng đất, có thể nhận xét rằng, hoạt động sản xuất của làng nghề ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng đất. Đất có độ mùn và các chất dinh dưỡng thuộc loại trung bình.
2.2.5. Chất thải rắn
2.2.5.1. Các nguồn phát sinh chất thải rắn
Các nguồn phát sinh chất thải rắn chính của xã Phong Khê bao gồm:
Chất thải rắn phát sinh từ các hoạt động sinh hoạt
Chất thải rắn phát sinh từ các hoạt động sản xuất giấy: tại các hộ sản xuất và kênh mương dẫn nước thải.
Ngoài ra còn có chất thải rắn từ xây dựng, nông nghiệp nhưng lượng này không đáng kể.
2.2.5.2. Lượng và thành phần chất thải rắn
Chất thải rắn từ sinh hoạt: bao gồm rác thải trong hoạt động sống của con người như rác thải chợ, rác thải từ các vật dụng gia đình hỏng vỡ....Lượng này ước tính khoảng 0,3 kg/người ngày. Toàn xã có 7840 người nên lượng chất thải rắn từ sinh hoạt thải ra mỗi ngày là:
7840 x 0,3 =2352 kg/ngày (858,48 tấn/năm)
Chất thải rắn từ hộ sản xuất: đây là làng nghề sản xuất giấy tái chế nên những chất thải rắn như giấy vụn được tận dụng một cách tối đa. Loại chất thải rắn từ các hộ sản xuất chủ yếu bao gồm vỏ bao nilon các loại, sắt thép lẫn trong giấy, giây buộc, giấy nhựa, bao kiện, bao bì bằng kim loại... trung bình mỗi cơ sở sản xuất thải ra 45 - 50 kg/ngày và loại có khối lượng lớn hơn cả là xỉ than.Theo số liệu điều tra cho thấy, với mức sử dụng than khoảng 0,8 - 1 tấn than/1 tấn giấy thành phẩm thì lượng than được sử dụng của làng giấy Phong Khê khoảng 18.000 - 20.000 tấn than/năm và tạo ra khoảng 4000 - 5000 tấn xỉ than/năm. Lượng xỉ than này được dân trong thôn vận chuyển đi đắp nền nhà hoặc lấp ao hồ trong xã.
Chất thải rắn từ hệ thống thoát nước thải: các chất rắn lơ lửng trong hệ thống nước thải tồn đọng lâu ngày sẽ có 2 khuynh hướng: thứ nhất, nếu được keo tụ thành khối có trọng lượng lớn thì bị chìm xuống đáy cống rãnh tạo nên bùn, thứ hai có thể ở điều kiện yếm khí, sự phân huỷ các chất hữu cơ ở dưới hệ thống cống rãnh tạo nên các bọt khí nhỏ thoát lên bề mặt nước và kéo theo các chất lơ lửng (dạng tuyển nổi) và các chất này nổi trên bề mặt cống rãnh. Theo báo cáo của cán bộ địa phương, cứ khoảng 3 tháng lại nạo vét hệ thống cống rãnh một lần và mỗi lần thu được 100 tấn chất thải rắn. Như vậy, trung bình mỗi ngày chất thải rắn có nguồn gốc từ hệ thống thoát nước thải khoảng 1100 kg (360 tấn/năm).
Như vậy, ước tính sơ bộ, tổng lượng chất thải rắn của cả hoạt động sản xuất và sinh hoạt ở Phong Khê khoảng 18.500 kg/ngày (tương đương 6752,5 tấn/năm)
Tóm lại
Qua kết quả phân tích, xử lý số liệu và khảo sát thực tế cho thấy môi trường xã Phong Khê đang bị ô nhiễm khá nghiêm trọng.
Môi trường không khí, kể cả khu sản xuất và khu dân cư đều bị ô nhiễm bụi, CO, Clo và tiếng ồn. Bên cạnh quá trình sản xuất, các hoạt động khác như vận chuyển nguyên vật liệu, sản phẩm cũng như chất lượng kém của đường xá, chiều cao của ống khói thấp cũng là nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm môi trường không khí làng nghề Dương ổ.
Môi trường nước mặt bị ô nhiễm nghiêm trọng, đặc biệt nước thải không được xử lý đổ trực tiếp xuống sông Ngũ Huyện Khê. Bên cạnh đó hệ thống kênh thoát nước thải là hở, dòng chảy yếu đã tạo điều kiện cho quá trình phân huỷ yếm khí, xơ sợi giấy và các chất thải sinh hoạt lắng đọng, sinh khí H2S và phát tán vào không khí.
Đặc biệt, lượng chất thải rắn phát sinh hàng năm là khá lớn. Tuy nhiên xã chưa chính thức có đội thu gom nào. Vì vậy, chất thải rắn được đổ bừa bãi, vừa ảnh hưởng đến sức khoẻ người dân, đến không gian sản xuất, vừa gây mất mỹ quan khu vực.
III. Hiện trạng hệ thống thu gom chất thải rắn xã Phong Khê
3.1. Hiện trạng thu gom chất thải rắn của xã
3.1.1. Hiện trạng thu gom chất thải rắn chung của xã
Hiện nay, ở xã Phong Khê, ngoại trừ thôn Dương ổ có một tổ thu gom rác sinh hoạt còn lại tất cả các thôn đều chưa có tuyến thu gom, đội thu gom rác riêng. Chất thải rắn nói chung được thải ra ở khắp nơi. Phần lớn các hộ dân vứt rác thải sinh hoạt xuống ao, đầm hay ven đường, bãi sông, tạo thành các ổ dịch bệnh. Mỗi khi trời mưa rác thải trôi nổi khắp nơi gây ô nhiễm nguồn nước mặt thậm chí nước ngầm, ô nhiễm môi trường đất... Chưa kể đến việc mỗi khi nước sông lên kéo theo rác thải ở bãi sông làm ô nhiễm sông Cầu. Từ năm 1986, một bãi rác được hình thành một cách tự phát tại thôn Dương ổ. Do không được quan lý tốt nên bãi rác đã gây ra những ảnh hưởng không tốt đến cư dân xung quanh như gây mùi hôi thối, rác thải rơi vãi...
Xã cũng đã quy hoạch một bãi đất trống (vốn là một hồ cạn) cho 10 năm để đổ rác, rộng khoảng 1ha. Nhưng vì không có tổ thu gom rác nên người dân cũng không tiện mang rác ra bãi rác chung để đổ , thường đổ ở lung tung, gây mất vệ sinh và mất mĩ quan làng nghề nghiêm trọng.
3.1.2. Hiện trạng thu gom chất thải rắn thôn Dương ổ
Thu gom rác sinh hoạt
Như trên đã nói, thôn Dương ổ là thôn duy nhất trong xã có một tổ thu gom rác sinh hoạt. Tổ thu gom rác này được hình thành do nhu cầu thu gom chất thải rắn của thôn. Với số dân 3890 người, mật độ 2945 người/km 2 Dương ổ là thôn tập trung đông dân cư nhất xã. Không chỉ vậy, hoạt động sản xuất giấy cũng diễn ra chủ yếu ở đây. Dương ổ có hơn 80 dây chuyền sản xuất giấy tái chế, thu hút hơn 90% dân cư vào hoạt động trong lĩnh vực này. Với mức thải bình quân 0,3 kg rác sinh hoạt/người/ngày và khoảng 45 -50 kg rác sản xuất/cơ sở sản xuất/ngày (không kể tro và xỉ than và sợi sơ lắng lẫn trong nước thải) thì có thể khẳng định lượng chất thải rắn thải ra mỗi ngày của thôn là rất lớn. Chính vì vậy, từ năm 1998, người dân trong thôn đã tự đứng lên thành lập một tổ thu gom rác sinh hoạt cho thôn mình.
Tổ thu gom rác sinh hoạt này gồm 3 người, thu gom rác sinh hoạt bằng xe đẩy tay dọc theo các đường làng chính. Hiệu suất thu gom thấp, chỉ khoảng 65%. Lương nhân viên thu gom là 400.000 đồng/người/tháng. Nguồn tài chính cho hoạt động thu gom này được tài trợ một phần bởi ngân sách xã (khoảng 30%), phần còn lại do các hộ dân trong thôn đóng góp dưới hình thức phí vệ sinh môi trường. Mức đóng của mỗi hộ một tháng là 2000 đồng.
Nhưng nhìn chung mặc dù có tổ thu gom , rất nhiều người dân vẫn đổ rác tuỳ tiện xuống cống, rãnh, ao hồ...
Thu gom rác sản xuất
Chất thải rắn phát sinh từ sản xuất bao gồm bả thải, tro, xỉ than, bao gói nilon... Trong đó, tro, xỉ than được vận chuyển đi đắp nền, lấp ao... còn các chất thải rắn khác thì cách vài ngày các cơ sở sản xuất thuê công nông chở ra bãi rác. Chi phí phải trả cho mỗi chuyến công nông như vậy khoảng 20.000 đồng/chuyến. Tuy vậy, một phần không nhỏ rác thải của quá trình sản xuất vẫn được đổ bừa bãi khắp phạm vi làng nghề.
3.2. Đánh giá việc thu gom chất thải rắn của xã
Như đã nói ở trên, một hệ thống thu gom chất thải rắn của xã là hoàn toàn chưa có. Việc đổ thải của người dân là tuỳ tiện, không có ý thức. Trừ một số cơ sở sản xuất thuê công nông chở rác ra bãi thải quy định, còn lại cả rác thải sinh hoạt và sản xuất đều đổ bừa bãi, hình thành những bãi rác tự nhiên ven đường hoặc ở các ao, đầm ..., ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của người dân. Ngay cả tổ thu gom rác ở thôn Dương ổ cũng chỉ thực hiện thu gom rác thải sinh hoạt, hoạt động không hiệu quả (65%). Rõ ràng là, việc đổ thải bừa bãi tạo ra một môi trường xú uế, gây tác hại trực tiếp đến sức khoẻ con người, tạo điều kiện cho chuột bọ, côn trùng, vi khuẩn và dịch bệnh phát triển, làm mất mỹ quan làng nghề, tạo nếp sống kém văn minh cho con người, gây ùn tắc giao thông, ô nhiễm không khí, ô nhiễm đất và ô nhiễm nguồn nước. Các kết quả nghiên cứu còn chỉ ra rằng, sống trong môi trường bị ô nhiễm khả năng lao động của con người bị suy giảm, tỷ lệ tử vong tăng lên và tuổi thọ của con người giảm xuống. Sơ đồ dưới đây sẽ chỉ ra tác hại của việc đổ thải bừa bãi chất thải rắn.
Sơ đồ 1 : Tác hại của việc đổ thải bừa bãi chất thải rắn
Tác hại của đổ thải bừa bãi CTR
Tạo môi trường dịch bệnh
Gây ùn tắc giao thông
Tạo nếp sống kém văn minh
Làm hại sức khoẻ con người
Môi trường xú uế
Làm mất vẻ đẹp đô thị
Hạn chế sản xuất kinh doanh
Tác động xấu đến ngành du lịch và văn hoá
Như vậy, ô nhiễm chất thải rắn do đổ thải không đúng quy cách không chỉ ảnh hưởng đến sức khoẻ, đến mĩ quan làng nghề mà chắc chắn trong tương lai sẽ ảnh hưởng đến cả sản xuất, cản trở sự mở rộng và phát triển quy mô sản xuất của làng nghề. Lẽ đó, luận văn này xin được đề xuất một tuyến thu gom rác hợp vệ sinh và hiệu quả cho phạm vi làng nghề xã Phong Khê.
Chương III
Đề xuất và đánh giá việc thiết lập hệ thống thu gom chất thải rắn Cho xã Phong Khê.
I. Đề xuất việc thiết lập hệ thống thu gom chất thải rắn cho xã Phong Khê
1.1. Sơ đồ tuyến thu gom
Thu gom rác trên địa bàn xã là một việc hết sức cần thiết vì rác thải được thải ra ở khắp nơi và từ mọi hộ sản xuất. Tuy nhiên , quá trình thu gom lại chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố (địa hình, quy hoạch đường xá, kinh phí, phương tiện thu gom...). Vì thế việc thiết lập tuyến thu gom là một việc làm khó khăn và phức tạp.
Căn cứ vào đặc điểm địa lý, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, cụ thể mạng lưới và diện tích đường làng ngõ xóm và thực trạng phân bố sản xuất và dân cư của xã, tác giả đề xuất một tuyến thu gom rác như sau, với mục tiêu đảm bảo năng suất thu gom, cường độ lao động, sức khoẻ và tăng thu nhập cho nhân viên thu gom.
Mô hình thu gom rác:
Mỗi thôn được chia thành một tuyến thu gom, riêng tuyến thu gom của thôn Dương ổ được chia thành 3 tuyến thu gom nhỏ do mật độ dân cư và cơ sở sản xuất tập trung ở đây lớn. Mỗi tuyến đảm nhiệm thu gom rác thải của khu vực mình phụ trách, đảm bảo sạch sẽ. Các ngõ xóm được đẩy xe ba bánh thu gom mang ra bãi tập kết chính quy định. Đến giờ quy định, xe công nông sẽ qua các bãi tập kết đó và đưa rác ra bãi đổ thải chung.
Sơ đồ 2: Sơ đồ hệ thống thu gom và vận chuyển chất thải rắn
Tuyến 1: Đảm nhiệm thu gom chất thải rắn trên địa bàn thôn Châm Khê. Tuyến này đường chính khá thuận lợi cho công tác thu gom. Mỗi xe đẩy tay sẽ phụ trách thu gom ở một bên của trục đường chính xuyên qua thôn rồi đẩy đến bãi tập kết chính.
Trục đường chính thứ nhất bắt đầu từ Đồng tư qua Đồng suối, Đồng lưa và kết thúc ở Đồng cỏ. Trục đường này có chiều dài khoảng 1,7 km. Dự định sẽ bố trí một bãi tập kết chính ở ngã tư Đồng tư, Đồng suối, Dọc trong, Thạch vạc.
Trục đường chính thứ hai bắt đầu từ đầu thôn Châm Khê, phía tiếp giáp với thị xã Bắc Ninh (Nội sông) chạy dọc theo đường chính của làng, kết thúc ở Đằng đồng. Trục đường này chỉ dài khoảng 1 km nhưng tập trung dân cư tương đối đông. Dự định bố trí một bãi tập k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37088.doc