LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI 2
I-/ KHÁI NIỆM BUÔN LẬU - TỘI DANH BUÔN LẬU VÀ NHỮNG HẠN CHẾ TRONG SỬ DỤNG KHÁI NIỆM. 2
1-/ Khái niệm buôn lậu: 2
2-/ Tội danh buôn lậu và những hạn chế trong sử dụng khái niệm. 3
II-/ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI, CÁC HÌNH THỨC GIAN LẬN THƯƠNG MẠI. 4
1-/ Khái niệm về gian lận thương mại. 4
2-/ Các hình thức gian lận thương mại. 5
III-/ PHÂN BIỆT BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI - MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÚNG. 6
IV-/ TÁC ĐỘNG CỦA BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI. 7
1-/ Tác động tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 7
2-/ Tác động đến doanh nghiệp và người tiêu dùng. 9
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM - KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC 10
I-/ THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM. 10
1-/ Thực trạng chung trong cả nước. 10
2-/ Thực trạng tại một số cửa khẩu và địa phương. Một số mặt hàng buôn lậu
và gian lận thương mại phổ biến. 18
2.1. Thực trạng tại một số cửa khẩu địa phương. 18
2.2. Một số mặt hàng buôn lậu và gian lận thương mại phổ biến. 25
II-/ NGUYÊN NHÂN VÀ THỦ ĐOẠN CỦA BỌN BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI. 27
1-/ Thủ đoạn của bọn buôn lậu và gian lận thương mại. 27
1.1. Những thủ đoạn qua đường chính ngạch. 27
1.2. Những thủ đoạn buôn lậu theo đường không chính ngạch. 31
2-/ Nguyên nhân của tệ nạn buôn lậu và gian lận thương mại. 33
2.1. Nguyên nhân khách quan: 33
2.2. Nguyên nhân chủ quan. 36
III-/ CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI - THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ. 38
1-/ Thành tựu đạt được. 38
2-/ Hạn chế tồn tại. 39
IV-/ NHỮNG ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG CÔNG TÁC CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI. 41
1-/ Thuận lợi: 41
2-/ Khó khăn: 41
V-/ THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI Ở MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI. 43
1-/ Braxin. 43
2-/ Nga. 43
3-/ Mêhicô. 43
4-/ Pháp. 44
5-/ Một số nước khác trên thế giới. 44
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 45
I-/ QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI. 45
1-/ Quan điểm pháp chế xã hội chủ nghĩa. 45
2-/ Quan điểm quần chúng. 46
3-/ Quan điểm toàn diện và đồng bộ. 46
II-/ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM 46
1-/ Hoàn thiện hệ thống pháp luật. 46
2-/ Cải cách thủ tục hành chính 47
3-/ Kiểm tra sau thông quan. 48
4-/ Thực hiện quản lý giá đối với hàng hoá xuất nhập khẩu 48
5-/ Tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức giác ngộ nâng cao đời sống
cho nhân dân. 49
6-/ Đẩy mạnh sản xuất trong nước. 49
7-/ Tăng cường phối hợp giữa các bộ ngành trong công tác chống buôn lâu và gian lận thương mại đồng thời phân định rõ chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan chuyên ngành. 50
8-/ Xây dựng lực lương chống buôn lậu và gian lận thương mại trong sạch. 51
9-/ Trang bị máy móc thiết bị hiện đại cho lực lượng chống buôn lậu và gian
lận thương mại. 51
10-/ Một số giải pháp cụ thể cần được thực hiện: 52
KẾT LUẬN 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 55
57 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1604 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Buôn lâu và gian lận thương mại ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lào quản lý và chở đưa vào Việt Nam. Các “ đầu nậu” bên Lào và bên Việt chủ yếu liên lạc với nhau và điều khiển từ xa bằng điện thoại di động, chúng làm ăn theo luật riêng và gặp nhau ở một địa điểm nào đó trong rừng nguyên sinh hay thị xã Hồng Lĩnh thì lực lượng chống buôn lậu khó mà biết được, chúng thường ít xuất đầu lộ diện mà thường thông qua các đối tượng khác nhau, phương thức khác nhau thay đổi liên tục để chống lại sự dòm ngó của lực lượng chống buôn lậu.
Thủ đoạn chủ yếu của bọn buôn lậu gian lận thương mại và là lợi dụng địa hình rừng nguyên sinh, sự phối hợp lỏng lẻo giữa các cơ quan chống buôn lậu, sự thông thạo địa hình của đội ngũ “cửu vạn” và ham muốn kiếm tiền của họ cũng như hệ thống điện lưới, thông in liên lạc nghèo nàn....để đưa hàng lậu vượt biên từ các điểm tập kết, các kho hàng của Lào vào Việt Nam và sử dụng các phương tiện xe cơ giới dọc đường 8 để đưa vào nội địa. Qua cửa khẩu chúng lợi dụng chế độ tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chứng từ hoá đơn giả, quay vòng hóa đơn, mua chuộc cán bộ chức năng, xử lý vụ việc, lừa đảo trốn thuế...để đưa hàng lậu và hợp thứ hoá chung...Người ta có thể thống kê được số đường mòn lên xuống núi ở đây và số vụ bắt giữ được, cũng như số hàng và trị giá của chúng nhưng người ta không thể thống kê được là rất nhỏ và thấp hơn với thực tế đang diễn ra. Lực lượng chống buôn lậumỏng và sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa các cơ quan quản lý hay nói khác đi là tính chất hoạt động quản lý XNK chủ yếu mang tính chất đơn lẻ không bao quát được làm cho tình hình buôn lậu và gian lận thương mại có xu hướng tăng lên trong mấy năm trở lại đây.
* Khu vực cửa khẩu Lao Bảo và tuyến sông Sê pôn (Quảng Trị).
Chạy song song với đường 9 Nam Lào đoạn từ cửa khẩu Lao Bảo về thị trấn Khe Sanh dài gần 20 km là đường biên giới chung giữa hai nước. Có nhiều đoạn sông cách quốc lộ 9 chỉ vài trăm mét do vậy mà bọn buôn lậu chọn 3 xã Tân Thành, Tân Phước và Tân Long tiếp giáp sông Sê pôn làm cứ điểm cất giữ hàng lậu, đây là 3 điểm nóng ở khu vực này. Dòng sông Sê pôn trước đây được nhắc đến như một huyết mạch quan trọng của bộ đội Trường Sơn thì nay nó trở thành con đường buôn lậu dưới nước chở nặng hàng hoá tấp nập ngược dòng từ đất Lào đổ xuôi về Việt Nam. Sự phối hợp kiểm soát giữa hai bên Lào và Việt Nam chưa chặt chẽ làm cho hàng lậu cứ thế ồ ạt “ vượt biên” bằng con đường sông Sê pôn thâm nhập vào Việt Nam đặc biệt là từ khi Nhà nước ta có chính sách hàng đổi hàng với nước bạn Lào, lợi dụng chính sách cởi mở đó buôn lậu ở đây rầm rộ hẳn lên.
Hàng lậu chủ yếu có nguồn gốc từ Thái Lan đưa qua Lào và nhập vào Việt Nam với các sản phẩm thuốc lá, nồi cơm điện, tivi, tủ lạnh...được chuyển theo một đường dây riêng có tổ chức chặt chẽ từ dưới sông lên đến bờ. Còn các hàng không lậu gồm quần áo, bánh kẹo theo đường chính ngạch, thực chất là mặt hàng có đánh thuế và hạn chế nhập. Có một số mặt hàng đưa vào Việt Nam được xem là hàng lậu do đó mà họ xây dựng cả một tổng kho để cung ứng mặt hàng này mà chủ yếu để đưa vào Việt Nam tiêu thụ. Hàng ngày thuyền của Lào thường là chuyên chở hàng lớn xuôi dòng Sê pôn rồi từ đó các thuyền nan của đội quân “ cửu vạn” Việt Nam cắt ngang qua sông đón hàng đưa vào nhà dân vận chuyển ra đường 9, thuê xe khách xe máy, xe thồ đưa vào nội địa. Mỗi ngày có hàng trăm người chuyển hàng nhỏ lẻ len lỏi qua hai bên cánh gà của cửa khẩu vượt qua 20 - 30 km đường rừng và trạm kiểm soát để đưa hàng ra đường 9 và tiếp tục đưa vào nội địa tiêu thụ.
Bọn buôn lậu sử dụng rất nhiều thủ đoạn khác nhau để đưa hàng lậu vào Việt Nam, chúng sử dụng đội quân cửu vạn, thuyền lớn để vận chuyển trên tuyến sông thuộc bộ phận Lào mà thuyền Việt Nam không được phép vận chuyển và sang mạn thuyền cho các thuyền thúng, thuyền nan nhỏ đưa vào bờ và tiếp tục cắt rừng đưa ra đường 9 đặc biệt chúng lợi dụng chế độ hàng đổi hàng với Lào để hợp thức hoá hàng lậu. Mỗi ngày trên tuyến sông này từ 9 giờ đến 3 giờ chiều có hàng trăm thuyền lớn, thuyền máy chở đầy ắp hàng hoá tấp nập đổ vào Việt Nam và rất nhiều thuyền nan cắt qua sông chở hàng mà lực lượng chống buôn lậu với lực lượng mỏng, phương tiện thô sơ khó có thể kiểm soát, bao quát hết được do vậy mà thực tế hàng lậu cứ nhan nhản vượt biên, con số bắt giữ chỉ là rất nhỏ.
Hàng lậu được đưa vào Việt Nam ở khu vực này chủ yêú qua 3 phương thức:
- Mua lại hàng hoá của chủ hàng người Việt Nam hoặc Lào vận chuyển bằng thuyền máy, sang mạn cho thuyền nan chèo vào bờ chuyển đến điểm tập kết ( thường là những căn hầm bí mật trong rừng sâu) bán lại cho dân công chuyển tiếp vào chợ Lao Bảo.
- Vận chuyển bằng đường rừng mà lực lượng chủ yếu là dân cửu vạn làm thuê trước kia nay tự chủ, làm chủ với mỗi chuyến “cõng” cắt rừng về tận Đông Hà bằng đôi chận đi bộ 2 - 3 ngày đường (gần 100 km).
- Đội quân đi bằng đường bộ trên các tuyến xe đò hoặc thuê xe ôm về Đông Hà qua con đường 9.
Khu vực trên sông Sê pôn rất nhộn nhạo và tấp nập, buôn lậu lớn nhỏ giống như chợ trên sông mà không có sự kiểm soát chặt chẽ làm cho hàng lậu được phép đưa vào một cách thản nhiên. Trong năm 1998 lực lượng chống buôn lậu bắt giữ 600 vụ buôn lậu với tổng trị giá ước tính gần 5 tỷ đồng. 8 tháng đầu năm 1999 là 1078 vụ buôn lậu với tổng trị giá hàng lên tới gần 8 tỷ đồng. Con số bị bắt giữ nhân lên nhưng cùng với nó số lượng hàng lậu vượt qua cửa khẩu càng nhiều lên, khu vực này giờ đây là khu vực nóng bỏng nhất của cả nước.
d. Khu vực Nam Bộ.
Nam Bộ là khu vực có biên giới tiếp giáp với Campuchia trên địa bàn này gồm 6 tỉnh từ Bình Phước đến Kiên Giang, có 18 cửa khẩu được coi là điểm nóng gần chợ Gò Tà Mâu (An Giang), Xà Xía (Kiên Giang) Mộc Bài (Tây Ninh)...trong đó chợ Gò Tà Mâu là điểm nóng nhất mà bọn buôn lậu thường đưa hàng lậu vào An Giang, chợ này nằm sát nách đường biên giới Việt Nam với Campuchia, thuộc xã Châu Đốc chừng 3 km. Chợ Gò Tà Mâu có khoảng 100 căn nhà đầy ắp hàng hoá do các loại xe tải lớn từ Phnôm Pênh chở đến, 100 căn nhà này trước kia là nhà lụp xụp nay đã được xây dựng kiên cố. Vào mùa nước lớn chợ gò Tà Mâu là một ốc đảo, một “pháo đài” dự trữ hàng hoá tuồn vào An Giang nằm trên phần đất Campuchia khu vực xã Vĩnh Ngươn, hải quan và bộ đội biên phòng được trang bị hiện đại cả về phương tiện vận tải và thông tin liên lạc để đáp ứng cho yêu cầu chống buôn lậu thế nhưng hàng lậu vẫn cứ vượt qua biên giới vào thị xã Châu Đốc, Châu Phú, Phú Tần rồi toả đi các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và TP HCM để tiêu thụ.
Mặt hàng buôn lậu chủ yếu là thuốc lá điếu ngoại, đồ điện tử, các loại đồ đã qua sử dụng, đường cát Thái Lan, quần áo cũ, phụ tùng xe các loại, mỹ phẩm..những hàng hoá này được “đeo vác” vào mùa khô và vận chuyển bằng thuyền ghe vào tháng nước nổi từ chợ Gò Tà Mâu đến các điểm tập kết ở chợ Châu Đốc hoặc các chợ nhỏ dọc tuyến quốc lộ 91 như chợ Vĩnh Mỹ, Cái Dầu, Cổ Dương...
Thủ đoạn của bọn gian thương thời gian gần đây không còn tập trung thành từng đoàn như trước đây nữa nhưng thay vào đó là dùng lực lượng lao động nghèo đai vác hàng hoá và nhiều thủ đoạn khác. Lực lượng lao động này được sử dụng theo hai dạng:
- Chủ hàng bỏ vốn ra cho người lao động mua hàng tại chợ Tà Mâu chuyển về chợ Châu Đốc hoặc tại các địa điểm khác, nếu trót lọt người đai vác mướn được hưởng 15.000 - 20.000 đồng / đai hàng. Nếu bị bắt thì phải trả vốn lẫn lãi cho chủ hàng bằng cách chủ hàng tiếp tục đầu tư vốn cho người đi buôn lậu để có tiền trả dần.
- Chủ hàng thuê 5 - 7 người đai vác, bị bắt hay không bị bắt chủ hàng vẫn trả tiền công với điều kiện không được khai tên chủ hàng, dạng này hàng hoá thường có giá trị lớn, để bảo vệ hàng hoá chủ hàng thường tổ chức rất chặt chẽ mọi khâu thay đổi giờ, chạy tiếp sức...để nhanh chóng đưa hàng qua biên giới mà không bị phát hiện.
Trên mặt trận chông buôn lậu thì số vụ bắt giữ có giảm đi. Từ đầu năm đến cuối tháng 5/ 99 An Giang bắt được 97 vụ trị giá hàng hoá trên 1,282 tỷ đồng so với cùng kỳ năm ngoái (98), giảm 46 vụ và khoảng 2 tỷ đồng về trị giá. Đây là con số thực tế bắt giữ nhưng thực tế diễn ra và con số hàng lậu được tuồn vào là bao nhiêu thì chưa ai nắm bắt được và không ai có thể thống kê được. Buôn lậu và gian lận thương mại chủ yếu bằng hình thức vượt biên còn trên con đường chính ngạch thì xảy ra ít hơn và thưởng có sự trợ giúp của một số cán bộ hải quan, nhân viên hải quan, cơ quan doanh nghiệp Nhà nước được phép kinh doanh XNK mượn tư cách pháp nhân để tuồn hàng lậu, làm giả chứng từ, quay vòng chứng từ, lấy hạn ngạch, kiếm lời lớn hơn...
2.2. Một số mặt hàng buôn lậu và gian lận thương mại phổ biến.
* Thuốc lá.
Thuốc lá là một trong những mặt hàng không khuyến khích tiêu dùng và do Nhà nước quản lý cả về sản xuất lẫn nhập khẩu từ nước ngoài về thuốc lá là mặt hàng có hại cho sức khoẻ do vậy mà theo chỉ thị 278/Chính phủ của hội đồng bộ trưởng này là thủ tướng chính phủ quy định “cấm nhập khẩu và lưu thông thuốc lá ngoại,” nhưng trên thực tế tập quán tiêu dùng ưa thích thuốc lá ngoại nên trên thị trường xuất hiện nhiều loại thuốc lá ngoại khác nhau được bán và tiêu thụ. Nguồn gốc của thuốc là ngoại là do buôn lậu qua con đường không chính ngạch chủ yếu là khu vực phía Nam, hàng ngày ở khu vực này có khoảng 700-800 kiện thuốc lá được chở về từ Campuchia ước tính một tháng có khoảng 12 đến 15 triệu bao nhập lậu qua khu vực này. Tình hình nhập lậu thuốc lá có xu hướng ngày một gia tăng trong những năm gần đây đặc biệt là từ khi có sự trợ giúp của đội quân “cửu vạn”. Giải pháp để chống nhập lậu thuốc lá hiện nay chưa đồng bộ và mới chỉ dừng lại ở một vài chiến dịch ra quân rầm rộ rồi buông lỏng, công tác tuyên truyền giáo dục chưa được thực hiện triệt để, xử lý chưa nghiêm là một trong những nguyên nhân làm cho nạn buôn lậu thuốc lá ngày một gia tăng.
* Ô tô, xe máy và phụ tùng lắp ráp.
Ô tô, xe máy là một trong những mặt hàng có giá trị tương đối lớn và Nhà nước thường áp dụng thuế suất tương đối cao đối với loại xe nguyên chiếc và không thuộc mục đích chuyên dụng nào đó theo quy định của Nhà nước, do vậy mà hiện tượng gian lận xảy ra khá phố biển.
Mặt hàng ô tô chủ yếu nhập qua con đường chính ngạch nhưng các đầu nậu thông đồng với nhau để biến xe ô tô tới thuế suất cao trở thành xe chuyên dụng có thuế suất thấp hơn và thậm chí bằng không và hưởng chênh lệch thuế lớn, hoặc lợi dụng cơ chế tạm nhập tái suất để tiêu thụ nội địa,.... Năm 1999 lực lượng cảnh sát kinh tế cả nước phát hiện và thu giữ 491 chiếc xe ô tô du lịch theo hình thức “tái xuất” qua Trung Quốc đã tiêu thụ ngay tại Việt Nam.
- Xe máy là một trong số mặt hàng buôn lậu khá phổ biến ở nhiều cửa khẩu từ Bắc vào Nam mà chủ yếu là nhập lậu xe máy Trung Quốc ở một số cửa khẩu phía Bắc và xe máy của Thái Lan được đưa qua Lào, Campuchia ở miền Trung và phía Nam. Nhà nước ta không cho phép nhập xe máy nguyên chiếc từ nước ngoài hoặc đánh thuế suất rất cao. Nhà nước quản lý quy định phải có ít nhất 20% tỉ lệ nội địa hoá do đó chỉ có những công ty lắp ráp Nhà nước cho phép nhập linh kiện để lắp ráp mới được nhập phụ tùng và lắp thành xe hoàn chỉnh đưa ra tiêu thụ nhưng chính các công ty này lại lợi dụng các giấy tờ, khai báo sai,... để nhập toàn bộ linh kiện xe và chỉ cần lắp ráp thành xe hoàn chỉnh, hiện tượng này xảy ra khá phổ biến. Trên con đường không chính ngạch xe máy cũng được nhập lậu với số lượng khá lớn.
* Ma tuý.
Ma tuý là hàng mà Nhà nước ta cấm nhập, nhưng tình trạng nhập lậu ma tuý vẫn xảy ra khá phổ biến ở khu vực cửa khẩu tiếp giáp với Trung Quốc đặc biệt là ở khu vực cửa khẩu Móng Cái (Quảng Ninh), Lào Cai, Lai Châu, Cao Bằng,... gây hậu quả nghiêm trọng, làm đảo lộn cả về lối sống và văn hoá. 8 tháng đầu năm 1999 các lực lượng công an, hải quan, bộ đội biên phòng đã phát hiện bắt giữ 8.030 vụ với 16.608 đối tượng phạm tội về ma túy so với cùng kỳ năm 98 tăng hơn 25%.
Một số vụ buôn lậu ma tuý:
- Ngày 10/3/98 hải quan Lai Châu bắt 1 đối tượng thu giữ 2,34 kg thuốc phiện.
- Ngày 19/3/98 bắt một đối tượng với 70 gam hêrôin.
- Ngày 25/4/98 hải quan Quảng Ninh bắt giữ Trần Thị Hương nhập lậu 9.670 ống thuốc gây nghiện,...
Ngoài những mặt hàng trên đây còn rất nhiều mặt hàng khác được nhập lậu vào Việt Nam như xe đạp, rượu, tiền giả, ngoại tệ, vải,... và một số mặt hàng xuất lậu như ngoại tệ, động vật quý hiếm, đồ cổ, kim khí quý,...
II-/ Nguyên nhân và thủ đoạn của bọn buôn lậu và gian lận thương mại.
1-/ Thủ đoạn của bọn buôn lậu và gian lận thương mại.
1.1. Những thủ đoạn qua đường chính ngạch.
* Lợi dụng chính sách thuế của Nhà nước:
Lợi dụng chính sách thuế của Nhà nước là một trong các loại hình mà bọn buôn lậu và gian lận thương mại thường hay sử dụng ở Việt Nam, đặc biệt là trong hoạt động XNK. Thuế XNK của Việt Nam thường cao hơn đối với nhiều mặt hàng nhập khẩu như ô tô du lịch, hàng điện tử, rượu bia,... hơn nữa chính sách thuế XNK của Việt Nam bộc lộ nhiếu vấn đề bất cập, tạo nhiều kẽ hở cho gian thương gây khó khăn cho công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát hàng XNK. Bọn gian thương thường tính toán chấp nhận rủi ro để hưởng chênh lệch giữa giá phải trả do việc chấp hành chính sách thuế của Nhà nước với tính trung thực trong khai báo hàng hoá XNK cả về mặt số lượng, chất lượng, chủng loại. Một trong các thủ đoạn gian lận thuế của gian thương là chúng lợi dụng chính sách mặt hàng của Nhà nước theo mục đích sử dụng để hưởng thuế suất ưu đãi như:
Xe ô tô du lịch loại 12 chỗ ngồi có thuế suất theo mặt hàng là 160% nhưng cũng loại xe đó nếu thay đổi một vài chi tiết như tháo ghế trong xe để trở thành xe tải nhẹ thì theo thuế suất chỉ còn 60% giảm được 100% thuế. Cũng chiếc xe này nếu tháo toàn bộ ghế và lắp thêm còi cứu thương để trở thành xe cứu thương thì thuế suất chỉ còn 0% giảm được toàn bộ thuế. Chỉ cần một vài thao tác đơn giản bọn gian thương câu kết với đối tác thay đổi những chi tiết đó và đưa vào nhập khẩu một cách hợp pháp. Hải quan nhiều lúc biết được điều này nhưng vì không có cơ sở pháp lý để bắt giữ hàng nên hàng cứ thản nhiên vượt qua biên giới hoặc đôi lúc có sự giám định của cơ quan giám định câu kết với hải quan để đưa hàng một cách hợp pháp qua cửa khẩu,...
Chính sách thuế đối với mặt hàng có xuất xứ khác nhau cũng có mức thuế khác nhau. Việc áp dụng chính sách thuế khác nhau đối với mặt hàng của các quốc gia khác nhau có liên quan đến thuế XNK và chính sách ưu đãi thuế quan giữa các nước thành viên có quan hệ giành cho nhau hưởng quy chế tối huệ quốc đã được bọn gian thương lợi dụng một cách khôn khéo, chúng khai báo sai nguồn gốc của hàng hoá để hưởng chênh lệch thuế. Cùng một mặt hàng nhưng có nguồn gốc ở các nước khácn hau thì khi nhập hoặc xuất khẩu giá trị tính thuế khác nhau chẳng hạn như: hàng Việt Nam nếu xuất vào thị trường EU thì được hưởng thuế suất thấp thậm chí 0% để khuyến khích xuất khẩu sản phẩm chế biến, hoặc hàng của các nước ASEAN nếu nhập vào Việt Nam thì cũng chịu thuế nhập khẩu thấp hơn là hàng từ Nhật Bản, Châu Âu,...
Việt Nam khuyến khích nhập nguyên liệu cho phép nhập 80% linh kiện phụ tùng lắp ráp và xuất khẩu sản phẩm chế biến do đó Nhà nước áp dụng thuế suất thấp thậm chí 0% với hình thức này và bọn gian thương đã lợi dụng sự thông thoáng này để tháo rời sản phẩm hoàn chỉnh hoặc thay cho nhập sản phẩm nguyên chiếc sau đó đưa vào nội địa lắp ráp thành sản phẩm hoàn chỉnh không có tỉ lệ nội địa nào và tiêu thụ trong nội địa, trong khi đó nếp nhập sản phẩm nguyên chiếc đặc biệt là ô tô, xe máy,... thì thuế suất có thể ở mức 150%.
- Gian lận thương mại trong nội địa cũng không kém phần gay gắt trong đó nổi lên là các thủ đoạn, làm giả hoá đơn, mua bán sử dụng hoá đơn tài chính giả, bán hàng không có hoá đơn, nhãn mác, ghi hoá đơn với số tiền ở các liên khác nhau, ghi giá bán trên hoá đơn thấp hơn mức thực tế để giảm bớt thuế phải nộp,... Hiện tượng ghi hoá đơn thấp hơn giá bán thực tế thường áp dụng đối với mặt hàng có giá trị cao như xe máy (thường ghi thấp hơn từ 6-7 triệu đồng)...
* Lợi dụng chế độ hoàn thuế giá trị gia tăng - (thuế VAT)
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì hình thức hoàn thuế VAT được thực hiện theo các quy trình “nộp trước hoàn sau” doanh nghiệp này được nộp doanh nghiệp kia được hoàn, “hoàn thuế trước kiểm tra sau”. Doanh nghiệp xuất khẩu hàng thì thông thường thuế suất VAT là 0% và toàn bộ số thuế đã nộp ở công đoạn trước sẽ được hoàn lại,...
Lợi dụng chế độ này bọn gian thương đã tìm mọi cách để lách luật như: dùng hóa đơn giả in tinh vi theo mẫu hoá đơn của Bộ Tài chính, mua hoá đơn thật của đơn vị khác để sử dụng, sử dụng hoá đơn khống (không mua, bán những vẫn xuất hoá đơn),...
“Hợp thức hoá đầu vào” loại hàng không có nguồn gốc hợp pháp sau đó đem xuất khẩu để được hoàn thuế 100% như công ty cổ phần Thái Dương (TP.HCM) ký hợp đồng với trung tâm XNK và du lịch (thuộc IDC) một lô quần áo may sẵn tổng giá trị hơn 25 tỉ đồng đề xuất lô hàng đi Nga. Công ty cổ phần Thái Dương xuất 17 hoá đơn VAT cho trung tâm XNK và du lịch với tổng trị giá 28.928.481.406 đồng và 17 hoá đơn thu tiền, chi tiền tương ứng với 17 hoá đơn VAT. Sau đó IDC làm thủ tục xin hoàn thuế nhưng trên thực tế công ty cổ phần Thái Dương không bán lô hàng cho công ty XNK và du lịch mà chỉ ký xuất hoá đơn VAT, các phiếu thu và chi theo đề nghị của công ty XNK và du lịch để hợp thức hoá lô hàng và hưởng 2,89 tỉ đồng từ hoàn thuế,...
* Gian lận về giá và thủ đoạn hàng đổi hàng.
Các gian thương mà chủ yếu là các tư thương núp bóng doanh nghiệp Nhà nước ký các hợp đồng danh nghĩa với phía nước ngoài để đạt bản hợp đồng theo quy định tại thông tư 82/1997/BTC theo đó giá tính thuế được tính theo giá hợp đồng mà không cần xem xét đến mức giá đó có phản ánh đúng giá mua hoặc giá thực thanh toán hay không. Trên thực tế phía sau bản hợp đồng, tư nhân cấu kết theo thoả thuận với nước ngoài ghi giảm giá trên hợp đồng và phần giá trị thực còn lại của hàng hoá được thanh toán thông qua ngân hàng và thanh toán chui dưới nhiều hình thức khác nhau như đầu tư tại Việt Nam hoặc mang lậu ngoại tệ ra nước ngoài.
Ví dụ: hợp đồng số 10/HĐ XNK ngày 24/11/1998 giữ Công ty Thương mại TP Vinh Nghệ An và Công ty mậu dịch Hương Giáo (Trung Quốc) nhập 1.000.000 kg táo với giá chỉ có 6 NDT/kg (tương đương 900 đ/kg) trong khi đó giá mua bán thực tế là 3,07 NDT/kg (tương đương 4.774 VND/kg).
- Một thủ đoạn nữa trong gian lận về giá là lợi dụng việc Nhà nước không can thiệp vào giá hàng xuất khẩu để ghi giá cao trên hợp đồng với mục đích nâng cao kim ngạch để hưởng giấy phép nhập khẩu nhiều hàng hoá mà chủ yếu là linh kiện điện tử,... tạo ra sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu giả tạo không thực tế đổi lại các doanh nghiệp được nhập nhiều hàng hơn.
VD: mặt hàng tỏi xuất khẩu sang Lào giá ghi trên hợp đồng tăng từ 150 lên 500 đến 800 USD/tấn, lạc nhân từ 300 lên 570-600 USD 1 tấn,... đổi lại các doanh nghiệp này được nhập khẩu linh kiện xe máy CKD là loại hàng hạn chế nhập khẩu và có lợi nhuận cao, sau khi trừ đi tất cả các chi phí lãi suất cũng đạt trên 5 triệu đồng/chiếc.
Theo nhận xét của Tổng cục hải quan trong 6 tháng đầu năm 1999 tại cửa khẩu Cầu Treo (Hà Tĩnh) và cửa khẩu Lao Bảo (Quảng Trị) kim ngạch thực tế không thể vượt quá mức 20% trị giá xuất khẩu.
- Chế độ hàng đổi hàng cũng làm xuất hiện hiện tượng quay vòng hàng xuất khẩu để hưởng kim ngạch. Một số mặt hàng thường như: cà phê, hạt tiêu,... thường phải nhập từ Lào về thì lại được xuất khẩu trở lại Lào và thay vào đó là đưa về những mặt hàng có hạn ngạch, hoặc một số mặt hàng như tỏi,... thị trường Lào đã vượt quá khả năng tiêu thụ nhưng vẫn được xuất khẩu với số lượng lớn để nhập hàng của Lào và đồng thời đưa hàng đó vượt qua biên giới trở thành hàng Việt Nam hợp pháp và tiếp tục xuất khẩu như vậy. Hiện tượng này thường xuất hiện ở biên giới miền Trung, khi Chính phủ cho phép hàng đổi hàng với Lào,...
* Bán Quota (hạn ngạch) trong gia công lại.
Một số doanh nghiệp hoàn toàn không có năng lực nhưng do ngoại giao giỏi, xin được nhiều hạn ngạch và bán lại cho các doanh nghiệp khác để có được lợi nhuận siêu ngạch. Để hợp thức hoá doanh nghiệp bán quota làm luôn thủ tục xuất nhập khẩu vì vậy khi xem hồ sơ thì khó có thể phân biệt được hàng gia công theo đúng nghĩa hay mua bán quota, dịch vụ thủ tục XNK. Hình thức gian lận này thường diễn ra trong lĩnh vực may mặc.
* Khai báo không trung thực về mặt hàng, số lượng, chất lượng, giá trị, chủng loại hàng hoá.
Đây là một trong số những thủ đoạn được sử dụng một cách khá phổ biến, lẩn trách sự kiểm tra của hải quan.
- Kê khai sai mặt hàng thực xuất nhập khẩu: mặt hàng có thuế XNK cao kê khai bằng mặt hàng có thuế suất thấp hoặc hàng không phải nộp thuế XNK, khai hàng thông thường thay cho hàng cấm XNK, hoặc phải có hạn ngạch của Nhà nước.
- Về giá trị hàng hoá: hàng nhập khẩu có giá trị cao được khai có giá trị thấp để hưởng chênh lệch thuế, khai tăng giá trị hàng xuất khẩu hưởng hạn ngạch trong hàng đổi hàng, hoặc khai giá trị thấp hơn hoặc bằng hạn ngạch trong khi thực tế nhập nhiều hơn.
- Số lượng, trọng lượng hàng hoá: chủ hàng xuất nhập khẩu với số lượng, trọng lượng nhiều nhưng khai báo một phần, hàng tốt khai thành hàng trung bình, hàng cũ khai thành hàng mới (như phụ tùng xe máy,...) hàng thành phẩm khai thành nguyên liệu.
- Chủng loại hàng hoá: gian thương nhập nhiều loại hàng hoá khác nhau nhưng khai báo một hoặc một số mặt hàng chịu thuế suất thấp, xuất trình không đúng chủng loại hàng hoá đặc biệt là hàng kiểm tra có tính chất đại diện,... hoặc hàng hóa có nhiều phẩm cấp khác nhau khai báo một phẩm cấp,...
* Gian lận trong gia công hàng xuất khẩu, liên doanh đầu tư.
Hàng hoá thuộc diện này được miễn thuế XNK do đó bọn gian thương thường nhập nhiều nguyên liệu, phụ liệu nhưng khi sản xuất ra thành phẩm không xuất hết và giữ lại một phần để tiêu thụ trong nước, trốn thuế nhập khẩu, thông đồng với bên gia công để xác định mức tiêu hao nguyên vật liệu, phụ liệu đã tiêu thụ thành phẩm hoặc nguyên vật liệu.
Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu với thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải và nguyên vật liệu vào Việt Nam để đầu tư xây dựng cơ bản do đó hàng này được miễn thuế XNK. Bọn gian thương lợi dụng chính sách này để đưa vào Việt Nam máy móc, thiết bị cũ,... nhưng khai mới, giá trị lớn,... tăng tỉ lệ vốn góp vào từ đó hưởng lợi nhuận cao từ phần vốn góp,... hoặc liên doanh để hợp pháp hoá nguồn thu bất hợp pháp từ hoạt động khác.
1.2. Những thủ đoạn buôn lậu theo đường không chính ngạch.
* Lợi dụng địa hình và cư dân biên giới.
Việt Nam là một đất nước có địa hình đồi núi khá phức tạp với nhiều đường ngang lối tắt qua các cửa khẩu đây là những con đường mà các cư dân biên giới nắm rất rõ, hơn là các cán bộ hải quan, biên phòng và các lực lượng này cũng không đủ cả về lực lượng và cơ sở vật chất để bao vây chặn giữ tất cả các con đường này. Lợi dụng khó khăn này và sự nghèo khó, thông thạo địa hình của các cư dân biên giới bọn buôn lậu trong mấy năm gần đây đã khai thác khá triệt để trong việc tuồn hàng lậu. Chúng thuê các cư dân này làm “cửu vạn” đai vác hàng vượt qua cửa khẩu tránh con mắt nhòm ngó của các lược lượng chống buôn lậu bọn buôn lậu đã tìm mọi cách để ràng buộc cửu vạn đảm bảo an toàn cho hàng hoá vượt qua các cửa khẩu và tính mạng của chủ hàng thủ đoạn này chúng sử dụng theo hai cách:
- Chủ hàng bỏ vốn ra cho người lao động mua hàng và vận chuyển qua biên giới, nếu mất “cửu vạn” hoàn toàn chịu trách nhiệm bồi thường cả vốn lẫn lãi cho chủ hàng sau đó bọn chúng tổ chức thu gom hàng hoá tại một số địa điểm nhất định thường cách biên giới vài km và thuận lợi cho vận chuyển bằng động cơ đến một số điểm tập kết hàng trong nội địa. Các “đầu nậu” thường không xuất đầu lộ diện nhưng bằng cách này chúng có thể đảm bảo cho hàng hoá vượt qua được cửa khẩu và nó gắn với lợi ích của người lao động.
- Chủ hàng thuê một nhóm cửa vạn nhất định đai vác hàng hoá bị bắt hay không bị bắt chủ hàng vẫn trả công cho cửu vạn nhưng với điều kiện là không khai tên chủ hàng khi bị bắt, chúng thường ít sử dụng hình thức này mà chỉ khi hàng hoá có giá trị lớn và đường vận chuyển mà chúng thấy an toàn cao, điểm tập kết đã được xác định trước, thường xuyên thay đổi đường vận chuyển, địa điểm tập kết hàng và tổ chức chạy tiếp sức,... Nói chung bọn buôn lậu tổ chức chặt chẽ mọi khâu đảm bảo an toàn cho hàng và chủ hàng, nhanh chóng đưa hàng lậu vượt qua biên giới.
* Lợi dụng phương tiện của các cơ quan có tư cách pháp nhân để vận chuyển.
Hàng hoá qua biên giới theo hình thức này chủ yếu trên tuyến biển bọn buôn lậu câu kết với các cơ quan có tư cách pháp nhân này để vận chuyển hàng hoá với khối lượng lớn và an toàn. Chúng đi lấy và đưa hàng về, trước khi đến hải phận của Việt Nam chúng phân tán hàng hoá vào các thuyền nhỏ toả đi các điểm tập kết hàng khác nhau và đưa thuyền lớn về cập cảng với lý do không có hàng hoặc với một số ít hàng hợp pháp nhất định.
* Chuyển hướng hàng nhập lậu.
Bọn buôn lậu linh hoạt chuyển hướng nhập lậu những mặt hàng “truyền thống” ở khu vực này qua khu vực khác như mặt hàng thuốc lá ngoại trước kia thường được nhập vào qua đường biên giới Tây Nam thì nay chúng đã tổ chức thêm nhiều điểm nhập lậu thuốc lá ngoại vào qua khu vực biên giới các tỉnh miền Trung tránh đưa tập trung hàng v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0697.doc