Mặt hàng cá tra – basa: Vào năm 1997, khối lượng xuất khẩu cá tra – basa của Việt Nam chưa đáng
kể, chỉvài trăm tấn với giá trịhơn 1,6 triệu USD. Năm 1998, xuất khẩu đã tăng vọt lên 2.200 nghìn tấn, đạt giá trịhơn 9 triệu USD. Tuy nhiên xuất khẩu mặt hàng này có xu hướng giảm trong 3 năm liền (1999 – 2001). Đến năm 2002, xuất khẩu lại tăng mạnh đạt gần 28.000 tấn, trịgiá gần 87 triệu USD, gấp 17,22 lần so với năm 2001. Việc xuất khẩu mặt hàng này tập trung chủyếu vào thịtrường Mỹ(14.797 tấn với giá trị35,48 triệu USD) chiếm tới 61,64% vềkhối lượng và 63,04% vềgiá trịnăm 2002, nên Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn do biến động của thịtrường và các động thái bảo hộthương mại của Mỹ(như kiện chống bán phá giá, hàng rào ATVSTS.). Sau vụkiện bán phá giá cá tra, basa của các chủtrại nuôi cá nheo Mỹ, các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa đã tích cực mởrộng giới thiệu sản phẩm này ở nhiều thịtrường khác nhất là các nước EU và đã gặt hái được thành công rực rỡ. Do đó sựphụthuộc vào thịtrường Mỹ đã giảm. Sau năm 2003, xuất khẩu mặt hàng này đã bước sang một trang mới, giá trịxuất khẩu năm 2004 đạt 231,5 triệu USD, gấp 2,86 lần năm 2003. Cá tra, basa của Việt Nam đã được xuất khẩu sang hơn 40 thịtrường, trong đó các thịtrường châu Âu có sựtăng trưởng vượt bậc. Năm 2005, giá trịxuất khẩu cá tra, basa vào Tây Ban Nha là 34,4 triệu USD, gấp 13,9 lần so với năm 2003, trởthành nước nhập khẩu cá tra, basa của Việt Nam đứng thứhai sau Mỹ(35,5 triệu USD), tiếp theo là Đức với 29,1 triệu USD. Các thịtrường châu Á, châu Đại dương, châu Mỹcũng được mởrộng và tăng trưởng liên tục. Tỷtrọng mặt hàng này trong giá trịxuất khẩu thuỷsản ngày càng tăng từ3,69% năm 2003 lên 12,06% năm 2005 và năm 2006 có thể đạt hơn 660 triệu USD chiếm tới trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷsản với hơn 65 thịtrường tiêu thụ. Những sốliệu thống kê vềxuất khẩu cá tra, basa cho thấy sựcốgắng không mệt mỏi của các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng này sau những va vấp trên thịtrường Mỹ.
8 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2861 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Cá basa Việt Nam và giải pháp nâng cao hoạt động xuất khẩu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Cá Basa Việt Nam – Giải Pháp Nâng Cao Hoạt Động
Xuất Khẩu
Cơ sở lý luận:
I. Mục tiêu nghiên cứu
+ Lý do chọn đề tài: Cung cao, cầu cao nhưng nghịch lý cung lại không đáp ứng
cầu.
+ Cần thiết cho ai: Hộ nông dân; Các doanh nghiệp
+ Tính cấp thiết: Hoạt động nuôi trồng và xuất khẩu cỏn rất nhiều bất cập( chưa
hiệu quả).
+ Mục tiêu cụ thể:
Nâng cao chất lượng, số lượng;
Nâng cao khả năng cạnh tranh;
Đưa ra chiến lược xuất khẩu cụ thể
Thu về lợi nhuận
II. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
+ Đối tượng:
o Hộ nuôi trồng
o Doanh nghiệp chế biến
o Doanh nghiệp xuất khẩu
o Đối tượng cạnh tranh nước ngoài
+ Phạm vi nghiên cứu:
o Các tỉnh miền Tây
o Các doanh nghiệp tại TP. HCM
o Thị trường nước ngoài: EU, Mỹ, Mỹ Latinh, Nhật Bản, Nga
III. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp khảo sát, điều tra
+ Thống kê
+Phân tích duy vật biện chứng
+ Phương pháp so sánh tương đối, tuyệt đối
+ Phương pháp chuyên gia
IV Kết quả đạt được
+ Đưa ra số lượng
+ Nhận định, phân tích kết quả
Mặt hàng cá tra – basa: Vào năm 1997, khối lượng xuất khẩu cá tra – basa của Việt Nam chưa đáng
kể, chỉ vài trăm tấn với giá trị hơn 1,6 triệu USD. Năm 1998, xuất khẩu đã tăng vọt lên 2.200 nghìn tấn,
đạt giá trị hơn 9 triệu USD. Tuy nhiên xuất khẩu mặt hàng này có xu hướng giảm trong 3 năm liền (1999
– 2001). Đến năm 2002, xuất khẩu lại tăng mạnh đạt gần 28.000 tấn, trị giá gần 87 triệu USD, gấp 17,22
lần so với năm 2001. Việc xuất khẩu mặt hàng này tập trung chủ yếu vào thị trường Mỹ (14.797 tấn với
giá trị 35,48 triệu USD) chiếm tới 61,64% về khối lượng và 63,04% về giá trị năm 2002, nên Việt Nam đã
gặp rất nhiều khó khăn do biến động của thị trường và các động thái bảo hộ thương mại của Mỹ (như
kiện chống bán phá giá, hàng rào ATVSTS...). Sau vụ kiện bán phá giá cá tra, basa của các chủ trại nuôi
cá nheo Mỹ, các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa đã tích cực mở rộng giới thiệu sản phẩm này ở
nhiều thị trường khác nhất là các nước EU và đã gặt hái được thành công rực rỡ. Do đó sự phụ thuộc
vào thị trường Mỹ đã giảm. Sau năm 2003, xuất khẩu mặt hàng này đã bước sang một trang mới, giá trị
xuất khẩu năm 2004 đạt 231,5 triệu USD, gấp 2,86 lần năm 2003. Cá tra, basa của Việt Nam đã được
xuất khẩu sang hơn 40 thị trường, trong đó các thị trường châu Âu có sự tăng trưởng vượt bậc. Năm
2005, giá trị xuất khẩu cá tra, basa vào Tây Ban Nha là 34,4 triệu USD, gấp 13,9 lần so với năm 2003,
trở thành nước nhập khẩu cá tra, basa của Việt Nam đứng thứ hai sau Mỹ (35,5 triệu USD), tiếp theo là
Đức với 29,1 triệu USD. Các thị trường châu Á, châu Đại dương, châu Mỹ cũng được mở rộng và tăng
trưởng liên tục. Tỷ trọng mặt hàng này trong giá trị xuất khẩu thuỷ sản ngày càng tăng từ 3,69% năm
2003 lên 12,06% năm 2005 và năm 2006 có thể đạt hơn 660 triệu USD chiếm tới trên 20% tổng kim
ngạch xuất khẩu thuỷ sản với hơn 65 thị trường tiêu thụ. Những số liệu thống kê về xuất khẩu cá tra,
basa cho thấy sự cố gắng không mệt mỏi của các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng này sau những va
vấp trên thị trường Mỹ.
Mặt hàng cá tra, basa của Việt Nam phát triển mạnh hơn nhiều so với trước khi có vụ kiện tại Mỹ. Chỉ
hai tháng sau khi vụ kiện kết thúc các doanh nghiệp Việt Nam đã phục hồi hoàn toàn sản lượng sản xuất.
Nhiều doanh nghiệp đã tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất do có nhiều nỗ lực đa dạng hoá sản phẩm và
mở rộng thị trường. Người tiêu dùng toàn thế giới đã biết đến thương hiệu cá tra, basa của Việt Nam,
trong đó châu Âu đã trở thành thị trường tiêu thụ chính của sản phẩm này. Sự tăng trưởng của sản xuất
và xuất khẩu sản phẩm cá tra, basa có thể xem là một “hiện tượng” của sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản
của Việt Nam năm 2006.
Biểu đồ 7: Xuất khẩu cá ba sa và cá tra của Việt Nam 1997-2005
Bảng 16: Xuất khẩu cá ba sa- cá tra của Việt Nam (1997-2005)
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Khối lượng (Tấn) 425 2.263 1.692 1.129 1.737 2.7987 32.876 83.843 141.010
Giá trị (1000 USD) 1.657 9.268 6.656 3.803 5.051 86.975 81.071 231.536 328.886
(Nguồn: Trung tâm Tin học, Bộ Thuỷ sản)
Biểu đồ 8: Thị phần xuất khẩu cá tra và cá ba sa
Bảng 17: Các thị trường xuất khẩu cá tra, ba sa quan trọng của Việt Nam
(Đơn vị: 1000USD)
Thị trường 2001 2002 2003 2004 2005
Mỹ 3.912 54.828 23.956 43.871 35.477
Hồng Kông 350 9.539 14.247 41.022 28.661
Đức 161 4.171 6.540 22.610 29.084
Singapo 360 4.667 5.450 13.822 16.658
Úc 37 3.237 6.516 20.798 25.936
Bỉ - 2.416 4.897 12.824 24.644
Tây Ban Nha - 355 2.476 21.962 34.412
Canada 58 1.383 2.448 8.659 12.684
Mê-xi-cô - 144 1.479 9.582 16.677
Thái Lan - 226 1.899 4.034 11.683
Malaixia 32 739 1.271 3.787 9.273
Nhật Bản 41 1.896 1.412 2.963 1.578
Thụy Sĩ - 919 1.300 1.773 2.870
Trung Quốc 33 93 928 3.841 3.821
Ba Lan - 104 384 1.612 12.097
Niu Dilân 39 658 1.624 2.470 -
Hàn Quốc 29 93 432 569 378
Các thị trường khác - 1.509 3.810 15.336 62.954
Tổng số 5.051 86.975 81.071 231.536 328.886
Mặt hàng cá tra – basa: Vào năm 1997, khối lượng xuất khẩu cá tra – basa của Việt Nam chưa đáng
kể, chỉ vài trăm tấn với giá trị hơn 1,6 triệu USD. Năm 1998, xuất khẩu đã tăng vọt lên 2.200 nghìn tấn,
đạt giá trị hơn 9 triệu USD. Tuy nhiên xuất khẩu mặt hàng này có xu hướng giảm trong 3 năm liền (1999
– 2001). Đến năm 2002, xuất khẩu lại tăng mạnh đạt gần 28.000 tấn, trị giá gần 87 triệu USD, gấp 17,22
lần so với năm 2001. Việc xuất khẩu mặt hàng này tập trung chủ yếu vào thị trường Mỹ (14.797 tấn với
giá trị 35,48 triệu USD) chiếm tới 61,64% về khối lượng và 63,04% về giá trị năm 2002, nên Việt Nam đã
gặp rất nhiều khó khăn do biến động của thị trường và các động thái bảo hộ thương mại của Mỹ (như
kiện chống bán phá giá, hàng rào ATVSTS...). Sau vụ kiện bán phá giá cá tra, basa của các chủ trại nuôi
cá nheo Mỹ, các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa đã tích cực mở rộng giới thiệu sản phẩm này ở
nhiều thị trường khác nhất là các nước EU và đã gặt hái được thành công rực rỡ. Do đó sự phụ thuộc
vào thị trường Mỹ đã giảm. Sau năm 2003, xuất khẩu mặt hàng này đã bước sang một trang mới, giá trị
xuất khẩu năm 2004 đạt 231,5 triệu USD, gấp 2,86 lần năm 2003. Cá tra, basa của Việt Nam đã được
xuất khẩu sang hơn 40 thị trường, trong đó các thị trường châu Âu có sự tăng trưởng vượt bậc. Năm
2005, giá trị xuất khẩu cá tra, basa vào Tây Ban Nha là 34,4 triệu USD, gấp 13,9 lần so với năm 2003,
trở thành nước nhập khẩu cá tra, basa của Việt Nam đứng thứ hai sau Mỹ (35,5 triệu USD), tiếp theo là
Đức với 29,1 triệu USD. Các thị trường châu Á, châu Đại dương, châu Mỹ cũng được mở rộng và tăng
trưởng liên tục. Tỷ trọng mặt hàng này trong giá trị xuất khẩu thuỷ sản ngày càng tăng từ 3,69% năm
2003 lên 12,06% năm 2005 và năm 2006 có thể đạt hơn 660 triệu USD chiếm tới trên 20% tổng kim
ngạch xuất khẩu thuỷ sản với hơn 65 thị trường tiêu thụ. Những số liệu thống kê về xuất khẩu cá tra,
basa cho thấy sự cố gắng không mệt mỏi của các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng này sau những va
vấp trên thị trường Mỹ.
Mặt hàng cá tra, basa của Việt Nam phát triển mạnh hơn nhiều so với trước khi có vụ kiện tại Mỹ. Chỉ
hai tháng sau khi vụ kiện kết thúc các doanh nghiệp Việt Nam đã phục hồi hoàn toàn sản lượng sản xuất.
Nhiều doanh nghiệp đã tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất do có nhiều nỗ lực đa dạng hoá sản phẩm và
mở rộng thị trường. Người tiêu dùng toàn thế giới đã biết đến thương hiệu cá tra, basa của Việt Nam,
trong đó châu Âu đã trở thành thị trường tiêu thụ chính của sản phẩm này. Sự tăng trưởng của sản xuất
và xuất khẩu sản phẩm cá tra, basa có thể xem là một “hiện tượng” của sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản
của Việt Nam năm 2006.
Biểu đồ 7: Xuất khẩu cá ba sa và cá tra của Việt Nam 1997-2005
Bảng 16: Xuất khẩu cá ba sa- cá tra của Việt Nam (1997-2005)
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Khối lượng (Tấn) 425 2.263 1.692 1.129 1.737 2.7987 32.876 83.843 141.010
Giá trị (1000 USD) 1.657 9.268 6.656 3.803 5.051 86.975 81.071 231.536 328.886
(Nguồn: Trung tâm Tin học, Bộ Thuỷ sản)
Biểu đồ 8: Thị phần xuất khẩu cá tra và cá ba sa
Bảng 17: Các thị trường xuất khẩu cá tra, ba sa quan trọng của Việt Nam
(Đơn vị: 1000USD)
Thị trường 2001 2002 2003 2004 2005
Mỹ 3.912 54.828 23.956 43.871 35.477
Hồng Kông 350 9.539 14.247 41.022 28.661
Đức 161 4.171 6.540 22.610 29.084
Singapo 360 4.667 5.450 13.822 16.658
Úc 37 3.237 6.516 20.798 25.936
Bỉ - 2.416 4.897 12.824 24.644
Tây Ban Nha - 355 2.476 21.962 34.412
Canada 58 1.383 2.448 8.659 12.684
Mê-xi-cô - 144 1.479 9.582 16.677
Thái Lan - 226 1.899 4.034 11.683
Malaixia 32 739 1.271 3.787 9.273
Nhật Bản 41 1.896 1.412 2.963 1.578
Thụy Sĩ - 919 1.300 1.773 2.870
Trung Quốc 33 93 928 3.841 3.821
Ba Lan - 104 384 1.612 12.097
Niu Dilân 39 658 1.624 2.470 -
Hàn Quốc 29 93 432 569 378
Các thị trường khác - 1.509 3.810 15.336 62.954
Tổng số 5.051 86.975 81.071 231.536 328.886
Thu hút và giữ chân những nhân viên có đủ tiêu chuẩn nhất và sắp xếp những công
việc thích hợp nhất với họ là một điều hết sức quan trọng đối với bất kỳ một tổ chức
nào. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp quá lớn không thể cho phép sự liên hệ gần gũi
giữa cấp lãnh đạo cao nhất của công ty với nhân viên được. Và khi đó, nhân viên
quản lý nhân sự sẽ có nhiệm vụ làm cầu nối cho vấn đề này.
Quản lý nhân sự là gì?
Nguồn lực con người đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của các doanh nghiệp
hay tổ chức. Do đó việc khai thác tốt nguồn lực này để phục vụ phát triển doanh
nghiệp và xã hội là một vấn đề quan trọng trong việc quản lý các tổ chức và doanh
nghiệp. Việc quản lý nguồn lực đòi hỏi sự hiểu biết về con người ở nhiều khía cạnh, và
quan niệm rằng con người là yếu tố trung tâm của sự phát triển. Các kỹ thuật quản lý
nhân lực thường có mục đích tạo điều kiện để con người phát huy hết khả năng tiềm
ẩn, giảm lãng phí nguồn lực, tăng hiệu quả của tổ chức.
Quản lý nhân sự hay quản lý nguồn nhân lực là sự khai thác và sử dụng nguồn nhân lực
của một tổ chức hay một công ty một cách hợp lý và hiệu quả.
Quản lý nhân sự có thể áp dụng cho mọi lĩnh vực, không riêng gì trong sản xuất kinh
doanh.
Nhiều vị trí dành cho bạn trong lĩnh vực mới này
Trong một tổ chức, công ty nhỏ thì trưởng bộ phận quản lý nhân sự có thể phải giải
quyết tất cả mọi khía cạnh về công việc nhân sự. Nó đòi hỏi người phụ trách công việc
này phải có một vốn kiến thức khá rộng. Trách nhiệm của trưởng phòng quản lý nhân sự
khác nhau tùy thuộc vào yêu cầu của công ty. Trong một tập đoàn lớn thì ban quản lý
nhân sự hàng đầu thông thường phát triển và quản lý các chương trình, chính sách về
nguồn nhân lực của công ty. Những chính sách này thường được thực thi bởi giám
đốc hoặc người quản lý nhân sự, trong một vài trường hợp là giám đốc của các ngành
có liên quan.
Giám đốc nhân sự có thể giám sát một vài bộ phận. Mỗi người giám sát mỗi bộ phận
như vậy phải là người có kinh nghiệm quản lý và có chuyên môn về một lĩnh vực hoạt
động của quản lý nhân sự, ví dụ như mảng việc làm, mảng bồi thường, lợi ích, đào tạo
và phát triển, hay các mối quan hệ trong nhân viên.
Nhân viên tuyển dụng thực hiện các công việc như tuyển nhân viên và sắp xếp công
việc, phân chia việc làm cho nhân viên. Người tuyển dụng duy trì mối liên hệ trong cộng
đồng từ các trường cao đẳng cho đến đại học để tìm ra những ứng cử viên triển vọng
cho công việc. Họ có thể phải di chuyển rất nhiều. Nhân viên tuyển dụng phải sàng lọc,
phỏng vấn, và đôi khi phải kiểm tra các ứng cử viên. Những nhân viên này cũng giải
quyết những vấn đề liên quan đến sự công bằng về quyền lợi giữa các nhân viên hoặc
cơ hội thăng tiến của nhân viên trong những tổ chức lớn. Họ kiểm tra và giải quyết
những phàn nàn, kiểm tra và kết hợp các nguyên tắc để đưa ra sự can thiệp cần thiết,
đồng thời họ cũng biên soạn và trình những bản báo cáo thống kê về vấn đề này.
Tương tự như vậy, phỏng vấn viên là người giúp kết nối các yêu cầu của công ty với
những người tìm việc đủ tiêu chuẩn.
Nhân viên lương thưởng và phúc lợi quản lý hệ thống tiền lương, các khoản tiền liên
quan đến thu nhập của người lao động. Họ lập kế hoạch chăm lo phúc lợi và đời sống
nhân viên, quản lý hợp đồng lao động, hồ sơ nhân viên. họ thường quản lý hệ thống
đánh giá hoạt động của công ty, thiết kế chế độ khen thưởng như tiền thưởng cho các
kế hoạch hoạt động thành công, hoàn thành công việc xuất sắc, … Tất cả những công
việc của họ đều nhằm đảm bảo tính công bằng về quyền lợi của người lao động trong
công ty với nhau, ngữa công ty họ với công ty khác, và phù hợp với quy định lương
thưởng và phúc lợi của Nhà nước.
Nhân viên quản lý về lương bổng của nhân viên là những người quản lý các chương
trình về lương bổng của nhân viên công ty, đặc biệt là về bảo hiểm sức khỏe và trợ cấp
lương hưu.
Chuyên gia phân tích công việc phân tích công việc, thực hiện chỉ đạo các chương
trình cho các công ty và có thể chuyên về những lĩnh vực chuyên môn như phân loại
vị trí công việc. Họ thu thập và kiểm tra những thông tin chi tiết về yêu cầu công việc để
chuẩn bị cho bản miêu tả công việc. Bản miêu tả công việc sẽ giải thích về những nhiệm
vụ, đào tạo và kỹ năng mà từng công việc yêu cầu. Mỗi khi công ty lớn đưa ra một
công việc mới và xem xét lại những công việc đang có thì công ty sẽ phải nhờ đến kiến
thức chuyên môn của các nhà phân tích công việc.
Chuyên gia phân tích ngành nghề thường là ở các công ty lớn. Họ thường quan tâm
đến các hệ thống phân loại ngành nghề và nghiên cứu những ảnh hưởng của ngành
và các xu hướng ngành nghề đến mối quan hệ giữa nhân viên và công ty (việc ở lại
hay ra đi của nhân viên trong công ty). Họ cũng có thể làm các việc liên lạc thuộc kỹ
thuật giữa công ty của họ với các công ty khác, với chính phủ và liên đoàn lao động.
Nhân viên quản lý dự án, hỗ trợ nhân viên, còn được gọi là quản lý phúc lợi nhân viên
là những người chịu trách nhiệm về rất nhiều chương trình bao gồm từ an toàn nghề
nghiệp, tiêu chuẩn và thực tiễn về sức khỏe, kiểm tra y tế và chữa bệnh, các hoạt động
trợ giúp, an toàn máy móc, xuất bản, dịch vụ lương thực thực phẩm, và nghỉ ngơi giải
trí. Ghi nhận những đề xuất của nhân viên, chăm sóc cho trẻ em và người già, các dịch
vụ hướng dẫn…
Nhân viên quản lý về đào tạo huấn luyện và phát triển: chỉ đạo và giám sát các
chương trình đào tạo và phát triển cho nhân viên.
Chuyên gia đào tạo huấn luyện nhân viên: đặt ra kế hoạch, tổ chức và chỉ đạo rất nhiều
hoạt động đào tạo. Những người huấn luyện tư vấn cho các giám sát viên ở nơi làm
việc về tăng hiệu quả làm việc và chỉ đạo các buổi giới thiệu định hướng, sắp xếp các
đợt huấn luyện về công việc cho nhân viên mới. Họ cũng giúp nhân viên duy trì và
nâng cao những kỹ năng trong công việc, chuẩn bị cho những công việc đòi hỏi nhiều
kỹ năng hơn. Họ giúp cho các giám sát viên nâng cao kỹ năng giao tiếp giữa người và
người để làm việc hiệu quả với nhân viên. Họ có thể thiết lập các kế hoạch đào tạo cá
nhân để củng cố thêm những kỹ năng đã có của nhân viên hoặc dạy cho người mới…
Trên đây là những vị trí phổ biến trong lĩnh vực quản lý nhân sự - 1 ngành nghề đang lên
hiện nay và có nhu cầu tuyển dụng không thấp. Có rất nhiều vị trí tiềm năm phù hợp với
khả năng, tố chất của từng bạn.
Những điều kiện để thành công trong nghề quản lý nhân sự
Khi đất nước bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế như ngày nay, quản lý nhân
sự đang trở thành một trong những ngành hấp dẫn thu hút được nhiều nhân tài. Vậy
những yếu tố nào là cần thiết để gia nhập lĩnh vực này?
Chìa khoá dẫn đến thành công trong ngành quản lý nhân sự là khả năng đánh giá và
sự suy xét thận trọng. Bạn phải là người đáng tin cậy vì bộ phận quản lý nhân sự là nơi
nắm rõ thông tin về nhân viên hơn bất kì bộ phận nào khác. Ở đây, nguyên tắc bảo mật
được đặt lên hàng đầu. Những thông tin mật như nhân viên nào sẽ được thăng chức
hay bị sa thải, lương tháng hay bản đánh giá công việc của các nhân viên đều được
giữ kín.
Để làm việc được trong lĩnh vực quản lý nhân sự, bạn phải là người của mọi người - cư
xử đúng mực và luôn biết lắng nghe. Hàng ngày bạn tiếp xúc với bao con người với
từng ấy tính cách khác nhau, nếu không tỏ ra khôn khéo và quảng giao thì có lẽ quản
lý nhân sự không phải là mảnh đất thăng hoa của bạn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài Cá Basa Việt Nam – Giải Pháp Nâng Cao Hoạt Động Xuất Khẩu.pdf