Lời nói đầu 1
Phần I 3
Luật đầu tư nước ngoài - công cụ pháp lý quan trọng khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài 3
I. Luật đầu tư nước ngoài tại việt nam ra đời là một đòi hỏi và tất yếu khách quan. 3
II. Vài nét về quá trình hoàn thiện chế độ pháp lý về ĐTNN tại Việt nam 5
1. Điều lệ về đầu tư nước ngoài ngày 10/08/1977 6
2. Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 7
3. Luật sửa đổi bổ sung một số điều năm 1990 9
4. Luật sửa đổi bổ sung lần II 1992 10
III. Giới thiệu sơ lược luật ĐTNN tại Việt nam 1996 11
IV. Luật sửa đổi bổ sung ngày 9/6/2000 14
Phần II 16
Các biện pháp bảo hộ đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam 16
I. Khái niệm 16
II. Tại sao cần có những biện pháp bảo hộ đầu tư 18
III. Nội dung các biện pháp bảo hộ đầu tư 21
1. Vấn đề bảo đảm vốn đầu tư nước ngoài. 21
2. Biện pháp bảo đảm cho nhà ĐTNN chuyển vốn, lợi nhuận và các khoản vay ra nước ngoài dễ dàng, thuận lợi. 26
3. Biện pháp đảm bảo chống cạnh tranh 30
4. Vấn đề giải quyết tranh chấp. 31
35 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2343 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các biện pháp bảo hộ đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm 2000, phải tạo ra sự thông thoáng hơn nữa về môi trường đầu tư, hệ thống pháp luật phải thống nhất và đồng bộ. Vì lẽ đó, để hoàn thiện hơn, lần sửa đổi tiếp theo của Luật ĐTNN vào ngày 12/1/1996.
III. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC LUẬT ĐTNN TẠI VIỆT NAM 1996
Luật ĐTNN tại Việt nam được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 12/11/1996 bao gồn 6 chương, 68 điều được bố cục như sau:
Chương I: Những quy định cung
Chương II: Hình thức đầu tư
Chương III: Biện pháp đảm bảo đầu tư
Chương IV: Quyền lợi và nghĩa vụ của các nhà ĐTNN và doanh nghiệp có vốn ĐTNN.
Chương V: Cơ quan nhà nước quản lý đầu tư Việt nam
Chương VI: Điều khoản thi hành.
Với mục đích chiến lược được nêu rõ trong lời mở đầu " để mở rộng hợp tác kinh tế với đất nước, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phát triển kinh tế quốc dân trên cơ sở khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước".
Tiếp liền sau đó là nghị định 12/CP ngày 18/02/1997 do Chính phủ ban hành nhằm quy định chi tiết thi hành luật ĐTNN 1996. Nghị định 12/CP gồn 15 chương, 104 Điều.
Ngoài ra còn rất nhiều văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước khác như: cơ quan nhà nước về hợp tác đầu tư của các Bộ, Cơ quan Ngang bộ để quy định cụ thể việc thi hành luật ĐTNN năm 1996. Phạm vi điều chỉnh của luật ĐTNN là các quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Theo Nghị định 12/CP ngày 18/2/1997 của chính phủ, đối tượng điều chỉnh của Luật ĐTNN tại Việt Nam bao gồm:
1. Doanh nghiệp Việt nam: gồm các thành phầm kinh tế
- Doanh nghiệp nhà nước được thành lập theo luật doanh nghiệp nhà nước
- Hợp tác xã được thành lập theo Luật hợp tác xã
- Doanh nghiệp được thành lập theo luật Công ty
- Doanh nghiệp được thành lập theo Luật doanh nghiệp tư nhân.
2. Các tổ chức của Việt nam: Thuộc đối tượng nêu tại điều 65 Luật ĐTNN đáp ứng được các điều kiện do Chính phủ quy định gồm bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ, khoa học kỹ thuật, khoa học tự nhiên hợp tác đầu tư với nước ngoài.
3. Doanh nghiệp có vốn ĐTNN: là các doanh nghiệp liên doanh giữa bên Việt Nam với bên ngoài và các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
4. Người Việt nam định cư ở nước ngoài: đầu tư trực tiếp về nước hoặc chung vốn với tổ chức kinh tế Việt nam để hợp tác đầu tư với nước ngoài, trong cả hai trường hợp này, họ đều hưởng những điều kiện thuận lợi theo quy định tại nghị định 29/CP ngày 27/5/1993 như sau:
- Được giảm 20% số thuế lợi tức phải nộp
- Được nộp thuế lợi nhuận chuyển ra nước ngoài ở mức thấp nhất là 5%
- Được uỷ quyền cho thân nhân ở trong nước hoặc định cư ở nước ngoài tham gia hoạt động quốc tế.
- Được tạo điều kiện dễ dàng khi xuất nhập cảnh, lưu trú, đi lại và đặt văn phòng đại diện tại Việt nam để xúc tiến đầu tư kinh doanh.
5. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng BOT, BTO, BT: đây là trường hợp đặc biệt, nhà nước cho phép 1 pháp nhân công pháp như UBND tỉnh, cơ quan quản lý ngành kinh tế, kỹ thuật cấp bộ được ký các loại hợp đồng đặc biệt như: xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT).
Ngoài ra, có một số lĩnh vực và địa bàn được nhà nước Việt nam khuyến khích như:
- Lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu
- Nuôi trồng chế biến nông lâm thuỷ sản
- Sử dụng công nghệ cao, kinh tế hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển.
- Sử dụng nhiều lao động, chế biến nguyên liệu và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên ở Việt nam.
Địa bàn gồm:
* Miền núi, vùng sâu, vùng xa.
* Những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Và nhà nước Việt nam sản xuất không cấp giấy phép ĐTNN vào các lĩnh vực gây thiệt hại đến quốc phòn, an ninh quốc gia, di tích lịch sử, văn hoá, thuần phong mỹ tục và môi trường sinh thái.
Về hình thức đầu tư thì luật ĐTNN quy địnhcác hình thức như sau:
* Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Hai bên hoặc nhiều bên hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh như hợp tác sản xuất phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm.
Đặc điểm của hình thức này:
Các bên trong nước và nước ngoài hợp tác thực hiện một hoạt động sản xuất kinh doanh nào đó trong một thời gian, không gian nhất định theo hợp đồng quy định. Sự hợp tác này không tạo nên một pháp nhân tư pháp. Trước pháp luật các bên tự chịu trách nhiệm về phần việc của mình.
Bên nước ngoài thực hiện nghĩa vụ về thuế theo luật ĐTNN tại Việt nam. Bên Việt nam thực hiện nghĩa vụ đóng thuế theo các quy định áp dụng đối với các doanh nghiệp trong nước.
* Doanh nghiệp liên doanh.
Hai bên hoặc nhiều bên hợp tác với nhau để thành lập doanh nghiệp liên doanh tại Việt nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh được hợp tác với nhà ĐTNN hoặc với doanh nghiệp Việt nam để thành doanh nghiệp liên doanh mới tại Việt nam. Doanh nghiệp này được thành lập theo hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt nam. Một hoặc nhiều bên nước ngoài tham gia là liên doanh góp vốn pháp định ít nhất phải là 30% tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp.
* Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Được thành lập theo hình thức Công ty TNHH, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt nam. Tổ chức hoặc cá nhân ở nước ngoài được tự mình quản lý doanh nghiệp theo quy định của pháp luật Việt nam. Doanh nghiệp này còn được hợp tác với doanh nghiệp Việt nam để thành lập doanh nghiệp liên doanh.
Ngoài ra luật ĐTNN 1996 còn đề cập đến quyền và nghĩa vụ của nhà ĐTNN và doanh nghiệp có vốn ĐTNN quy định ở chương IV.
Chương này thể hiện rõ các chính sách khuyến khích ĐTNN tại Việt nam qua việc miễn giảm thuế nhập khẩu, thuế doanh nghiệp, thuế lợi tức trong quá trình hoạt động. Doanh nghiệp liên doanh còn được chuyển khoản lỗ của bất kỳ năm thuế nào sang năm kế tiếp và được bù khoản lỗ đó bằng lợi nhuận của các năm tiếp theo. Nếu tái đầu tư vào các dự án khuyến khích đầu tư, doanh nghiệp sẽ được hoàn lại một phần hay toàn bộ thuế lợi tức đã nộp cho số lợi nhuận tái đầu tư. Nếu nhà đầu tư nước ngoài là người Việt nam định cư ở nước ngoài còn được giảm 20% thuế lợi tức so với các dự án cùng loại.
Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư nếu có thay đổi về điều kiện đầu tư thì việc miễn giảm thuế cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh do bộ Tài chính quyết định.
Các doanh nghiệp chế xuất được miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng hoá từ khu chế xuất khẩu ra nước ngoài và từ nước ngoài nhập khẩu vào khu chế xuất. Doanh nghiệp chế xuất, doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong khu công nghiệp được hưởng các ưu đãi về thuế đối với trường hợp khuyến khích, đặc biệt khuyến khích đầu tư.
IV. LUẬT SỬA ĐỔI BỔ SUNG NGÀY 9/6/2000
Để mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế quốc dân trên cơ sở khai thác sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước.
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
Luật nay sửa đổi bổ sung một số điều của Luật ĐTNN tại Việt nam được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12 tháng 11 năm 1996.
Luật sửa đổi bổ sung này có một số điểm mới như sau:
Theo điều 19a " doanh nghiệp có vốn ĐTNN các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh trong quá trình hoạt động được phép chuyển đổi hình thức đầu tư, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp.
Chính phủ quy định điều kiện, thủ tục chuyển đổi hình thức đầu tư chia, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp".
Ngoài ra, luật ĐTNN còn sửa đổi bổ sung một số điều tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp có vốn ĐTNN về thủ tục hành chính, chính sách thuế.... Bên cạnh đó một số quy định khuyến khích đầu tư ngoài nước từ người Việt nam ở nước ngoài, nhằm thu hút nguồn vốn ĐTNN khá phong phú mà lâu nay chưa khai thác đúng mức. Điều 44 sửa đổi như sau:
" Người Việt nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước theo quy định của luật này được giảm 20% thuế thu nhập doanh nghiệp so với các dự án cùng loại, trừ trường hợp áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10%; được áp dụng mức thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là 3% số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài".
PHẦN II
CÁC BIỆN PHÁP BẢO HỘ ĐẦU TƯ THEO LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM
Bảo hộ ĐTNN là một vấn đề hết sức quan trọng trong việc thu hút vốn ĐTNN. Thật vậy, để phát triển ĐTNN, huy động được một nguồn vốn lớn từ các nước đầu tư sang nước nhận đầu tư, thì một trong những yếu tố hết sức quan trọng là nước nhận đầu tư phải tạo nên một môi trường pháp lý thuận lợi nhằm bảo hộ và tăng cường vốn đầu tư.
Trên thực tế, vấn đề bảo hộ ĐTNN là một phạm trù rất rộng bao gồm nhiều biện pháp do nước nhận đầu tư đề ra để đảm bảo quyền và lợi ích thiết thực chính đáng cho các nhà ĐTNN trong suốt quá trình đầu tư vào nước chủ nhà. Bảo hộ đầu tư là một biện pháp khuyến khích đầu tư mang tính chất chính trị - pháp lý được ghi nhận trong hầu hết các đạo luật về đầu tư ở các nước.
Bảo hộ ĐTNN về mặt pháp lý là một khái niệm phức tạp, hết sức nhậy cảm, nó liên quan chặt chẽ đến việc thực hiện sự cần bằng lợi ích cho cả hai bên - bên đầu tư và bên nhận đầu tư. Tất cả các nước trên thế giới khi thực hiện chủ trương thu hút vốn ĐTNN đều có mục đích là đạt được lợi ích cho đối tác của nước mình, nhưng chính lợi ích này lại có một quan hệ chặt chẽ tới lợi íc của phía nước chủ nhà. Mọi sự thay đổi trong chính sách pháp luật của nước sở tại sẽ làm ảnh hưởng sâu sắc tới lợi ích của các bên đầu tư, nhất là bên đầu tư nước ngoài. Bởi vậy, muốn hài hoà lợi ích của hai bên đầu tư trong hợp đồng đầu tư thì nhà nước cần phải tạo sự ổn định về mặt pháp lý. Có như thế thì môi trường đầu tư mới thực sự hấp dẫn và thu hút các nhà ĐTNN.
Hiện nay, khái niệm bảo hộ đầu tư có thể hiểu theo hai nghĩa:
* Theo nghĩa hẹp: Bảo hộ đầu tư là sự bảo đảm về vốn và những tài sản hợp pháp khác mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào nước sở tại. Điều này có nghĩa là nước sở tại thừa nhận và bảo vệ quyền sở hữu của nhà ĐTNN đối với các vốn và tài sản hợp pháp khác của họ. Nhà đầu tư không thể tiến hành đầu tư sản xuất kinh doanh nếu như nước sở tại không có biện pháp bảo toàn vốn và tài sản của họ. Do vậy mà vấn đề về vốn được đặc biệt quan tâm và việc bảo đảm vốn được đưa lên hàng đầu.
* Theo nghĩa rộng: Bảo hộ đầu tư không chỉ bao gồm vấn đề bảo đảm vốn và tài sản của nhà đầu tư đưa vào nước nhận đầu tư mà là bao gồm cả việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi, thông thoáng về mọi mặt, đặc biệt là môi trường pháp lý để nhà ĐTNN phát huy được hiệu quả của đồng vốn và những tài sản khác trong quá trình đầu tư.
Thực tiễn cho thấy các nhà ĐTNN không những quan tâm đến việc bảo vệ đồng vốn mà còn vô cùng quan tâm đến hiệu quả đầu tư. Môi trường đầu tư thuận lợi là tổng thể những vấn đề có liên quan đến địa lý, tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, tất cả phải ổn định thì mới tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài phát huy hiệu quả cao nhất. Môi trường pháp lý không có tính đồng bộ, thống nhất, ổn định thì đương nhiên lợi ích của nhà đầu tư không được đảm bảo.
Bảo hộ đầu tư là việc thừa nhận về mặt pháp luật quyền của nhà ĐTNN đối với các khoản lợi nhuận sinh ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như việc chuyển lợi nhuận và tài sản của họ ra nước ngoài một cách dễ dàng.
Ngoài ra bảo hộ đầu tư còn bao gồm cả việc nhà nước phải tạo ra một cơ chế công bằng, thuận lợi, thoả đáng cho các nhà ĐTNN khi có chanh chấp xảy ra.
Tóm lại bảo hộ đầu tư là một biện pháp khuyến khích đầu tư mang tính chất chính trị - pháp lý, được ghi nhận trong hầu hết các đạo luật về đầu tư của các nước. Hay nói đúng hơn bảo hộ ĐTNN là chế độ pháp lý bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do nước nhận đầu tư ban hành, nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích của các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào nước sở tại. Nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vai trò của biện pháp bảo đảm này được khẳng định dựa trên các đặc tính của pháp luật.
Trong thực tế, tuỳ thuộc vào chính sách ĐTNN cũng như tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của từng quốc gia mà nội dung của các biện pháp bảo hộ ĐTNN nhưng đều tập trung vào các vấn đề sau:
* Quyền sở hữu của chủ đầu tư nước ngoài
* Chế độ pháp luật mà nước nhận đầu tư đối với bên nhận đầu tư ( chế độ đãi ngộ như công dân, chế độ có đi có lại, chế độ báo phục quốc).
* Sự ổn định và thống nhất của hệ thống pháp luật
* Vấn đề giải quyết tranh chấp
* Do đó mà Chính phủ các nước và nhà đầu tư nước ngoài đều mong muốn nâng cao giá trị pháp lý của các biện pháp bảo hộ đầu tư, không chỉ gói gọn trong luật quốc hội mà còn được ghi nhận trong các hiệp định bảo hộ đầu tư được ký kết giữa các quốc gia mới nhau.
Tính đến tháng 11 năm 1997 nhà nước đã ký 30 hiệp định bảo hộ đầu tư với 30 quốc gia đó là: Thái Lan, Malaysia. Indonexia, Đài Loan, Hàn Quốc, Mỹ, Áo, Úc, Ý, Pháp, Đức, Bỉ, Cu Ba, NewZealand...
II. TẠI SAO CẦN CÓ NHỮNG BIỆN PHÁP BẢO HỘ ĐẦU TƯ
Đầu tư để kinh doanh là việc bỏ vốn bằng tiền hay tài sản, hiện vật để tổ chức hoạt động kinh doanh nhằm phát sinh lợi nhuận. Vì vậy tất cả các chủ đầu tư nước ngoài đều quan tâm đến vấn đề bảo đảm vốn đầu tư, các bảo đảm đối với các hoạt động kinh doanh (về biện pháp chanh chấp, bồi thường khi có sự thay đổi của pháp luật) và quan tâm đến cả biện pháp tài chính mà nhà nước áp dụng cho mình. Không nhà đầu tư nào đem của cải của mình đầu tư vào một nơi mà vốn và tài sản của mình có nguy cơ bị tước đoạt, hoạt động kinh doanh luôn gặp khó khăn.
Đầu tư là một hoạt động hướng về tương lai, nó diễn ra trong một khoảng thời gian khá dài và phải chịu sự tác động của những biến động về kinh tế, xã hội và cả chính pháp luật cũng không nằm ngoài số đó, nếu không muốn nói là chúng khá quan trọng. Một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và đồng bộ là điều kiện lý tưởng cho hoạt động đầu tư. Các chính sách, pháp luật thường có nhiều thay đổi và đôi khi gây bất lợi cho nhà đầu tư. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra là cùng với việc cố gắng tạo lập một môi trường pháp lý ngày càng thuận lợi và ổn định, bảo đảm điều chỉnh kịp thời các quan hệ đầu tư vừa nẩy sinh, nhà nước cần có những cam kết về mặt pháp lý nhằm đảm bảo sự an toàn về vốn và tài sản, bảo đảm các điều kiện hoạt động kinh doanh cho các chủ đầu tư nhằm giải toả tâm lý lo sợ, e dè của họ, động viên họ yên tâm bỏ vốn đầu tư dài hạn ở Việt nam, Điều 1, Luật đầu tư nước ngoài 96 quy định: " nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà ĐTNN, tạo những điều kiện thuận lợi và quy định thủ tục đơn giản, nhanh chóng cho các nhà ĐTNN vào Việt nam".
Ngay cả một số luật khác trong các ngành nghề khác hay lĩnh vực có liên quan đến ĐTNN, nhà nước cũng xây dựng các nguyên tắc bảo đảm trên khi kêu gọi ĐTNN. Chẳng hạn Điều 2, Luật Dầu khí 19/7/1993 quy định: " nhà nước Việt nam bảo đảm quyền sở hữu về vốn đầu tư, tài sản và các quyền lợi hợp pháp của các tổ chức cá nhân nước ngoài và Việt nam tiến hành các hoạt động dầu khí ở Việt nam" hay tại khoản 8, Điều 5, Luật Khoáng Sản 20/03/1996 cũng ghi nhận: " Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn và tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của các tổ chức cá nhân, tập thể trong hoạt động khoáng sản theo quy định của Luật khoáng sản và các quy định khác của pháp luật". Để xây dựng đất nước, Việt nam sẵn sáng hợp tác kinh tế với nước ngoài, làm bạn với tất cả các quốc gia: " Chính phủ Việt nam bảo đảm đối xử công bằng và thoả đáng đối với các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt nam " (Điều 20, Luật Đầu tư nước ngoài năm 96). Việc đối xử bảo đảm đúng với pháp luật Việt nam, Phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt nam ký kết hay tham gia và phù hợp với các thông lệ quốc tế.
Những nguyên tắc và những quy định trên đã được pháp điển hoá và đạo luật cơ bản của đất nước, cụ thể là điều 25, hiến pháp 1992. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất cho việc quy định các biện pháp pháp lý cụ thể đối với ĐTNN, khắc phục các quan điểm không rõ ràng trong vấn đề quốc hữu hoá có thể xảy ra theo các quy định của luật tư pháp quốc tế trong trường hợp vì lợi ích quốc gia hay " Bảo lưu trật tự công cộng".
Như chúng ta đã biết, Việt nam là một nước đang phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, thiếu vốn trầm trọng, cơ sở hạ tầng nghèo nàn, thu nhập bình quân đầu người ở mức 200 USD/năm thì việc thu hút vốn đầu tư là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, hiện nay do sự cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia kêu gọi đầu tư cung - cầu vốn đầu tư trên thế giới lại có biến động lớn, số nước kêu gọi đầu tư ngày càng tăng, nhu cầu vốn đầu tư nước ngoài khoảng 300 tỷ USD như nguồn vốn chỉ có 200 tỷ USD đầu tư vào các nước phát triển, số còn lại đầu tư vào các nước đang phát triển bao gồm cả Việt nam mà mục tiêu của nhà nước ta đề ra đến năm 2000 phải thu hút được 2 tỷ USD do đó sự cạnh tranh của các nước đang phát triển về vấn đề này lại càng gay gắt hơn, vì vậy việc cải tạo mô trường đầu tư ngày càng hoàn thiện và có sức hấp dẫn là một điều tất yếu mà nhà nước chúng ta phải làm.
Hiện nay dù điều kiện về địa bàn tự nhiên của nước ta thuận lợi cộng với tất cả những biện pháp khuyến khích, ưu đãi nhưng các nhà ĐTNN vẫn còn tâm lý e dè, bởi môi trường đầu tư ổn định mới là điều quan trọng hàng đầu vì nó chính là yếu tố chung bao hàm những yếu tố khác. Một số nhà ĐTNN cho rằng rủi ro ở Việt nam cao hơn các nước khác trong khu vực một phần vì cơ sở hạ tầng của ta quá kém, đồng tiền Việt nam chưa chuyển đổi được, thị trường Việt nam không những bị hạn chế, khả năng bảo hộ sản xuất yếu, chính sách pháp luật thực hiện không nghiêm " Phép vua thua lệ làng", hiện tượng hàng gian, hàng giả tràn lan mà nhà nước ta chưa có biện pháp bảo vệ, Việt nam lại chưa ra nhập các công ước quốc tế về bảo hộ quyền tác giả, chưa ký kết các hiệp định song phương về quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp. Mặc dù hệ thống pháp luật của ta mang tính khuyến khích cao nhưng thực sự chưa tạo được sự an toàn cho nhà đầu tư, vẫn còn các văn bản pháp luật thiếu nồng độ, chồng chéo, thậm chí vô hiệu hoá lẫn nhau và ban hành không phù hợp với thực tiến hoạt động đầu tư, chậm sửa đổi, bổ sung gây ảnh hưởng không ít đến quyền lợi của nhà đầu tư.
Trong giai đoạn từ nay đến 2005, muốn đạt được mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước do Đảng và nhà nước đề ra, chắc chắn ta phải xây dựng một cơ chế bảo hộ đầu tư hữu hiệu vững chắc, hợp lý để có thể thu hút các dự án đầu tư lớn như công trình, cơ sở hạ tầng, giao thông, điện nước. Có thể nói, đối với những dự án có độ rủi ro cao, vốn đầu tư lớn thì cần phải có sự bảo đảm tuyệt đối của nước chủ nhà.
Qua phân tích trên đã chứng minh cho thấy việc ổn định pháp luật, ổn định chính trị - xã hội, ổn định kinh tế sẽ góp phần nào tạo nên một môi trường đầu tư thuận lợi. Trong bối cảnh hiện nay vấn đề bảo hộ đầu tư không phải do ngẫu nhiên mà có, nó xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của nước ta cũng như suất phát từ tình hình thực tiễn ĐTNN tại Việt nam đã nêu trên.
III. NỘI DUNG CÁC BIỆN PHÁP BẢO HỘ ĐẦU TƯ
Hiện nay nước ta đang ở trong khu vực có sự hợp tác về kinh tế lại vừa có sự cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực thu hút vốn ĐTNN. Vì vậy, việc nhanh chóng cải cách môi trường đầu tư ngày càng hấp dẫn hơn là điều vô cùng cần thiết và quan trọng.
Như vậy có thể nói xu hướng và chính sách phát triển kinh tế của nhà nước ta là nhằm tới việc bảo đảm một cách tốt nhất tài sản và vốn đầu tư của nhà ĐTNN bằng những cơ sở pháp lý có giá trị nhất định. Chừng mực nào đó có thể nói trong giai đoạn hiện nay, những bảo đảm và ưu đãi mà nhà nước ta đã giành cho các nhà ĐTNN còn có phần cao hơn so với chủ đầu tư trong nước. Điều đó cũng dễ hiểu và hợp lý, bởi vì lúc này chúng ta đang tranh thủ thu hút các nguồn vốn ở nước ngoài nhằm trợ giúp sản xuất trong nước có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn.
Những biện pháp đầu tư được ghi nhận trong việc ĐTNN Việt nam bao gồm những vấn đề sau:
1. Vấn đề bảo đảm vốn đầu tư nước ngoài.
Vốn là một trong những yếu tố cơ bản quyết định sự thành bại của hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy mà vấn đề trước tiên là phải có biện pháp bảo đảm cho sự an toàn của đồng vốn nhất là về mặt pháp lý thì từ đó mới có thể phát sinh những lợi nhuận của nhà đầu tư.
Chính vì vậy mà tại Điều 21 Luật ĐTNN quy định: " Trong quá trình đầu tư vào Việt nam, vốn và tài sản hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính, doanh nghiệp có vốn ĐTNN không bị quốc hữu hoá. Nhà nước CHXNCH Việt nam bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, bảo đảm lợi ích hợp pháp của các nhà ĐTNN trong hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt nam ".
Quy định này phù hợp với điều 25 Hiến pháp 1992: " Nhà nước Việt nam khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn và công nghệ vào Việt nam phù hợp với pháp luật Việt nam, pháp luật và thông lệ quốc tế, bảo đảm quyền sở hữu đối với vốn, tài sản và quyền lợi của các tổ chức, cá nhân Xí nghiệp có vốn ĐTNN không bị quốc hữu hoá". Chính điều này đã xoá tan được nỗi e ngại của các nhà ĐTNN.
Theo lệ thường, khi di chuyển vốn và tài sản sang nước ngoài để đầu tư, các chủ đầu tư thường lo sợ những quy định trong đạo luật quốc hữu hoá của quốc gia đó sẽ tước đoạt đi quyền sở hữu của họ đối với khối tài sản mà họ có.
Vì vậy, một khi hiến pháp và các đạo luật cơ bản Pháp đã xây dựng biện pháp bảo đảm này thì coi như đã chút đi gánh nặng cho họ.
Luật ĐTNN 96 sửa đổi ngày 9/6/2000 khẳng định: Điều 21a " Trong trường hợp do thay đổi quy định của pháp luật Việt nam làm thiệt hại đến lợi ích của doanh nghiệp có vốn ĐTNN và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh tiếp tục được hưởng các ưu đãi đã được quy định trong giấy phép đầu tư vào luật này hoặc được nhà nước giải quyết thoả đáng theo các biện pháp sau đây:
a. Thay đổi mục tiêu hoạt động của dự án;
b. Miễn giảm thuế theo quy định của pháp luật;
c. Thiệt hại của doanh nghiệp có vốn ĐTNN, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được khấu trừ vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp;
d. Được xem xét bồi thường thoả đáng trong một số trường hợp cần thiết.
Các quy định mới ưu đãi hơn được ban hành sau khi được cấp giấy phép đầu tư sẽ được áp dụng cho doanh nghiệp có vốn ĐTNN và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh:
Mặc dù không phải bất cứ trường hợp thiệt hại nào cũng được giải quyết theo hướng bồi thường, mà chỉ có một số trường hợp cần thiết, nhưng quy định này có ý nghĩa khá quan trọng đối với các chủ ĐTNN đang tiến hành hoạt động kinh doanh ở Việt nam. Cho phép họ được giảm đến mức thấp nhất các thiệt hại có thể xảy ra một khi chính sách pháp luật Việt nam có sự thay đổi làm ảnh hưởng đến lợi ích của họ. Đồng thời mục đích của quy định bảo đảm này cũng nhằm duy trì và ổn định hoạt động kinh doanh, tránh sự sáo trộn không cần thiết.
Nhà nước Việt nam lúc nào cũng muốn tạo điều kiện tốt nhất cho nhà ĐTNN yên tâm tin tưởng đầu tư vào Việt nam. Nhà đầu tư luôn nhận được sự đối xử thoả đáng từ phía nhà nước ta. Chính sách nhất quán này đã được Luật ĐTNN 96 ghi nhận: " nhà nước CHXNCH Việt nam bảo đảm đối xử công bằng và thoả đáng đố với các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt nam".
Vậy, với những quy định pháp luật nha nhau trong cùng một điều kiện, những quyền lợi và nghĩa vụ của các nhà đầu tư cũng như nhau, tất cả đều bình đẳng trong một môi trường đảm bảo chung.
Nhà nước Việt nam hoàn toàn ủng hộ, khuyến khích những dự định tốt đẹp của các nhà ĐTNN, thể hiện ở việc nhà nước ta đã giành sự ưu đãi của mình đối với vốn của bên chủ đầu tư như: đa dạng hoá vốn góp, không quy định thời hạn bắt buộc cho việc góp vốn và người đầu tư có quyền quyết định sử dụng vốn trong khuôn khổ pháp luật Việt nam.
Điều 7 Nghị định 12/CP nêu rõ: " Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt nam mà không thành lập pháp nhân" hay tại điều 26 ghị định 12/CP "doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu ủa nhà ĐTNN do nhà ĐTNN thành lập tại Việt nam, tự quản và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh". Điều 46 ghị định 12/CP cũng nghi nhận: "doanh nghiệp có vốn ĐTNN, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh có quyền tự chủ kinh doanh theo mục tiêu quy định trong giấy phép đầu tư, được nhập khẩu thiết bị, máy móc, vật tư, phương tiện vận tải, trực tiếp hoặc uỷ quyền xuất khẩu về tiêu thụ sản phẩm của mình để thực hiện dự án đầu tư theo quy định của pháp luật".
Tâm lý chung của các nhà ĐTNN khi đầu tư vào Việt nam họ rất lo sợ Chính phủ Việt nam bằng các biện pháp hành chính thực hiện quyền lực của mình đối với tài sản của người nước ngoài. Sự lo ngại này không phải là không có căn cứ vì thực tế điều này đã xảy ra say ngày Việt nam giành được độc lập. Luật Quốc tế ngày nay cũng thừa nhận quyền quốc hữu hoá nhưng phải có sự đền bù thoả đáng và trong trường hợp vì lợi ích quốc gia.
Việc từ bỏ quyền quốc hữu hoá thể hiện sự nhất quán của nhà nước Việt nam trong việc bảo đảm vốn, tài sản của nhà ĐTNN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- I0063.doc