Đề tài Các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

LỜI NÓI ĐẦU 2

NỘI DUNG

PHẦN I: LÝ LUẬN VỀNHỮNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 3

I/ TỔNG QUAN VỀCÁC NGHIỆP VỤTRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 3

1. Khái niệm 3

2. Những nghiệp vụchủyếu trong hoạt động ngân hàng 3

II/ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 5

1. Rủi ro 5

2. Rủi ro tồn tại khách quan trong hoạt động ngân hàng 5

III/ NHỮNG RỦI RO ĐẶC THÙ TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 6

1. Rủi ro tín dụng 6

2. Rủi ro lãi suất 8

3. Rủi ro hối đoái 9

4. Rủi ro thanh toán 10

5. Rủi ro nguồn vốn 11

6. Rủi ro hoạt động ngoại bảng 12

7. Rủi ro công nghệhoạt động 12

8. Rủi ro quốc gia 13

PHẦN II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG CỦA VIỆT NAM

VÀ BIỆN PHÁP NHẰM HẠN CHẾRỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 14

I/ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG ỞVIỆT NAM

TRONG THỜI GIAN QUA 14

II/ MỘT SỐBIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾRỦI RO 17

KẾT LUẬN 24

TÀI LIỆU THAM KHẢO 25

pdf27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2448 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệp vụ tín dụng là nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng; nó thường chiếm phần lớn trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng cả về khối lượng công việc cũng như mức độ tạo thuận lợi. Tỷ lệ thuận với nó là mức độ rủi ro của nghiệp vụ này cũng chiếm phần lớn trong tổng mức rủi ro của hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay. Nói cách khác, “rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra do khách hàng không thực hiện trả nợ theo các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng”. Rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra khi bên đi vay, trong một giao dịch nào đó, không thực hiện được việc thanh toán tiền vay theo thời hạn và điều kiện trong hợp đồng làm cho người cho vay phải gánh chịu tổn thất tài chính. Rủi ro tín dụng có muôn hình muôn vẻ, với nhiều hình thái, cung bậc khác nhau, chúng tiềm ẩn trong suốt quá trình trước, trong và sau khi cho vay và biểu hiện ra bên ngoài là món vay không thu hồi được, nợ quá hạn, nợ khó đòi, mất vốn... Để xem xét thực trạng rủi ro tín dụng của một ngân hàng, người ta thường phải xét đến tỷ trọng nợ quá hạn cao hay thấp. Trong tỷ trọng nợ quá hạn, người ta lại chia ra tỷ trọng nợ quá hạn dưới sáu tháng, nợ quá hạn dưới một năm, nợ quá hạn trên một năm, nợ quá hạn khó đòi, nợ không có khả năng thu hồi... Các tỷ trọng này càng cao thì khả năng bảo toàn vốn tín dụng của ngân hàng càng thấp. Khi nghiên cứu về các nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng, người ta đã đưa ra một số nguyên nhân chủ yếu sau: nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân khách quan là nguyên nhân bất khả kháng, thông tin không cân xứng, sự điều khiển sai lệch của cơ chế thị trường. Nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân từ phía ngân hàng (mà chủ 7 yếu là từ sự yếu kém của cán bộ ngân hàng, các nhà quản trị điều hành không có năng lực, thiếu kiểm tra giám sát), nguyên nhân từ phía khách hàng... Ngày nay, các Ngân hàng Thương mại dù đã mở rộng kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng hoạt động cho vay vẫn là nguồn cơ bản tạo nên thu nhập của ngân hàng. Đặc biệt, ở những nước đang phát triển như ở Việt Nam, hoạt động cho vay chiếm tới 90% hoạt động của ngân hàng, và vì thế mà rủi ro tín dụng là vấn đề cần được quan tâm đặc biệt trong hoạt động của các ngân hàng Thương mại ở nước ta hiện nay. Về bản chất, rủi ro tín dụng là loại rủi ro đa dạng và phức tạp, và việc quản lý và phòng ngừa nó rất khó khăn. Loại rủi ro này có thể xảy ra ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào. Bất cứ một rủi ro nào đó của hoạt động cho vay cũng đưa đến rủi ro cho ngân hàng. Ngân hàng không thể loại trừ khả năng rủi ro, song nếu ngân hàng có những giải pháp đồng bộ hữu hiệu thì có thể ngăn ngừa rủi ro, hạn chế tối đa những thiệt hại có thể xảy ra. 2/ Rủi ro về lãi suất Rủi ro lãi suất là rủi ro phát sinh khi có sự biến động của chênh lệch lãi suất giữa lãi suất cho vay của ngân hàng với lãi suất phải trả cho việc đi vay, dẫn đến làm giảm thu nhập của ngân hàng. Rủi ro này là hậu quả của những thay đổi lãi suất. Trong nền kinh tế, lãi suất là yếu tố rất nhạy cảm đối với biến động của nền kinh tế; hơn nữa, nó là công cụ trong việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ. Vì vậy, rủi ro lãi suất là rủi ro xuất hiện thường xuyên trong hoạt động kinh doanh ngân hàng . Như vậy, rủi ro lãi suất là những tác động do biến động lãi suất đối với hoạt động của ngân hàng. Rủi ro lãi suất bắt nguồn từ mối quan hệ qua lại của tài sản Có, tài sản Nợ và các hợp đồng ngoại bảng. Cơ cấu tài sản Có, tài sản Nợ sẽ quyết định tình trạng rủi ro lãi suất của một ngân hàng. Tình trạng rủi ro lãi suất phụ thuộc vào mức 8 độ cân đối giữa tài sản Có và tài sản Nợ mà điển hình là khi ngân hàng dùng tài sản Nợ ngắn hạn hoặc với lãi suất thay đổi để đầu tư vào tài sản Có dài hạn hơn với lãi suất cố định. Ngân hàng sẽ gặp rủi ro khi lãi suất ngắn hạn tăng, chi phí ngân hàng tăng lên trong khi thu nhập ở tài sản Có dài hạn hơn vẫn giữ nguyên. Nếu chênh lệch thu nhập ở tài sản Có không bù đắp chi phí nghiệp vụ kinh doanh thì ngân hàng sẽ bị ăn mòn vào vốn. Ngược lại, khi nhận lại vốn với một thời hạn và lãi suất ấn định, lợi nhuận ngân hàng sẽ bị giảm khi lãi suất thị trường bị giảm xuống. Ngoài ra, rủi ro lãi suất còn có thể xảy ra trong những trường hợp sau đây: - Lạm phát tăng, lãi suất buộc phải điều chỉnh theo xu hướng tăng lên, chi phí cho hoạt động ngân hàng cũng tăng lên, do đó làm giảm thu nhập của ngân hàng. Khi lạm phát cao thì thường có lợi cho người vay vốn và bất lợi cho người cho vay. - Rủi ro lãi suất cũng có thể xảy ra do trình độ thấp kém, bị thua thiệt trong việc cạnh tranh lãi suất ở thị trường hoặc do nhiều yếu tố của nền kinh tế tác động đến lãi suất như cung, cầu, yếu tố khác của thị trường... Khi ngân hàng có quyết định điều chỉnh lãi suất theo hướng giảm xuống, trong khi tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn trả, tức là khoản tiền gửi có kỳ hạn lại không giảm tương ứng, nên cũng dẫn đến rủi ro lãi suất. 3/ Rủi ro hối đoái Kinh doanh ngoại hối là một trong những hoạt động của ngân hàng nhằm phục vụ cho nhu cầu đa dạng của nền kinh tế, tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu hoạt động thuận lợi. Rủi ro hối đoái là rủi ro xuất hiện trong nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối do sự biến động về tỷ giá giữa các đồng tiền. Nếu tỷ giá hối đoái bán ra lớn hơn tỷ giá mua vào thì nhà kinh doanh có lãi, ngược lại thì bị lỗ. Trong nền kinh tế thị trường, tỷ giá luôn biến động, với biến đổi của tỷ giá hối đoái, bất kỳ một khoản nợ nào cho dù dài hay 9 ngắn, đối với một đồng tiền nhất định, đều có thể tạo cho ngân hàng phải đối mặt với rủi ro tỷ giá hối đoái. Sự thay đổi tỷ giá dẫn đến sự thay đổi giá trị ngoại hối, cụ thể: - Nếu ngân hàng có dư dật về ngoai tệ nào đó, khi ngoại tệ đó lên giá, ngân hàng sẽ có lãi, ngược lại ngân hàng sẽ lỗ khi ngoại tệ đó xuống giá. - Nếu ngân hàng ở vị đoản về loại ngoại tệ nào đó, khi ngoại tệ đó lên giá, ngân hàng sẽ lỗ và ngược lại ngân hàng sẽ có lãi nếu ngoại tệ đó xuống giá. Một trạng thái ngoại hối dù ở thế trường hay thế đoản đều có nguy cơ gây tổn thất cho các nhà giao dịch. Dư dật về ngoại tệ càng lớn thì rủi ro càng cao khi tỷ giá giảm; ngược lại, đoản về ngoại tệ nào đó càng mạnh thì rủi ro cũng không ít khi tỷ giá giảm. Khi phân biệt tình hình lãi, lỗ ngoại hối theo vị thế ngoại hối, người ta so sánh số lỗ, lãi thực tế xảy ra so với mức lỗ, lãi dự kiến, qua đó đánh giá chất lượng quản lý rủi ro tỷ giá hối đoái của một ngân hàng. 4/Rủi ro thanh toán Rủi ro thanh toán phát sinh khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức. Trong những trường hợp như vậy, ngân hàng phải đi vay bổ sung nguồn vốn thanh toán hoặc phải bán tài sản Có của mình để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi tiền. Mọi ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả năng thanh toán. Khả năng chi trả là khả năng đáp ứng được nhu cầu chi trả hiện tại, đột xuất, và trong tương lai. Khi ngân hàng thiếu khả năng chi trả, nếu không được giải quyết kịp thời có thể dẫn đến mất khả năng chi trả. Khi ngân hàng thừa khả năng chi trả sẽ đẫn đến đọng vốn, làm giảm khả năng sinh lời, thu nhập của ngân hàng giảm. Rủi ro thanh toán nảy sinh do những nguyên nhân sau: - Do mất cân bằng giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, nguồn vốn dư thừa quá lớn, trong khi đó thị trường đầu ra hạn hẹp, nên một số ngân hàng đã dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung hạn và 10 dài hạn quá mức, dẫn đến thiếu hụt khả năng chi trả tạm thời cho người gửi tiền. - Khi đến hạn, các khoản cho vay khó thu hồi được, uy tín của ngân hàng giảm sút, người gửi tiền và người đi vay thường phản ứng trước những khó khăn của ngân hàng bằng cách sử dụng hết hạn mức tín dụng để đảm bảo có tiền cho những nhu cầu về sau hoặc rút hết số dư tiền gửi vì sợ có thể không rút được. Tất cả những khía cạnh trên dẫn đến những rủi ro trong thanh toán của ngân hàng. Các nhà chuyên môn khẳng định rằng đây là loại rủi ro riêng của ngân hàng và liên quan đến sự sống còn của ngân hàng. Rủi ro này thường là hậu quả của một hay nhiều loại rủi ro mà ngân hàng không lường trước được. Trong trường hợp này, vốn tự có của ngân hàng không có khả năng bù đắp hết tất cả các khoản mất mát, thiệt hại, ngân hàng dễ rơi vào tình trạng vỡ nợ hay phá sản. 5/ Rủi ro về nguồn vốn Rủi ro về nguồn vốn thường xẩy ra dưới hai hình thức: rủi ro thiếu vốn và rủi ro thừa vốn. Trước hết, chúng ta cần phải hiểu rõ về khái niệm thừa và thiếu vốn trong kinh doanh ngân hàng. Thừa vốn là tình trạng vốn tồn đọng ở quỹ nghiệp vụ, bao gồm cả quỹ thanh toán tiền gửi ở ngân hàng Nhà Nước, quỹ tiền mặt, quỹ dự trữ của ngân hàng. Thiếu vốn là tình trạng xuất hiện trong các bộ phận thanh toán của ngân hàng. Rủi ro do thừa vốn: Ngân hàng Thương mại thông qua hình thức “đi vay để cho vay” nhằm kiếm lợi nhuận, còn nguồn vốn tự có ”chỉ là cái đệm chống đỡ sự sụt giá của các tài sản Có”. Khi nguồn vốn huy động của ngân hàng bị ứ đọng có nghĩa là ngân hàng không cho vay ra được hoặc không sử dụng hết, trong khi đó ngân hàng vẫn phải trả lãi cho người gửi tiền, chi các chi phí nghiệp vụ, các chi phí quản lý. Nếu không khắc phục tình trạng này thì đến một chừng mực nào đó, mức độ thua lỗ lớn sẽ dẫn đến việc đóng cửa ngân hàng. Rủi ro do thiếu vốn: Thừa vốn đã gây khó khăn cho ngân hàng thì việc thiếu vốn còn tệ hại hơn nhiều. Rủi ro thiếu vốn không thể 11 lường hết mức độ của nó gây ra vì vốn của ngân hàng phần lớn là vốn huy động (vốn đi vay) của xã hội để cho vay ra. Nếu thiếu vốn trong thanh toán ngân hàng không thể thanh toán cho khách hàng khi họ có nhu cầu rút tiền. Nếu với các ngành kinh tế khác thì việc thanh toán chỉ là một phần vốn của đơn vị và có thể sẽ không khó khăn trong việc khất nợ với khách hàng (tất nhiên việc làm này không thể kéo dài và thường xuyên), nhưng với hoạt động của ngân hàng, khi một khách hàng bị khất nợ sẽ kéo theo hàng loạt khách hàng sẽ đến ngân hàng để rút tiền. Điều xảy ra khi đó sẽ là hoạt động của ngân hàng bị xáo trộn, mà khả năng cao nhất có thể xảy ra đó là tuyên bố mất khả năng thanh toán và phá sản. Như vậy, loại rủi ro này rất nguy hiểm, khó lường hết được hậu quả, thậm chí nó còn nguy hiểm hơn cả loại rủi ro bất khả kháng do thiên tai, địch hoạ gây ra bởi lẽ với các loại rủi ro đó ngân hàng vẫn còn khả năng phục hồi với các loại rủi ro thiếu vốn thì khả năng xấu nhất của một doanh nghiệp có thể xảy ra. 6/ Rủi ro hoạt động ngoại bảng Một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ trong hoạt động của một ngân hàng hiện đại là việc mở rộng các nghiệp vụ ngoại bảng. Theo định nghĩa, hoạt động ngoại bảng là các hoạt động không thuộc bảng cân đối tài sản (nội bảng), bởi vì các hoạt động này không liên quan đến việc nắm giữ các chứng khoán hay giấy nhận nợ thứ cấp. Tuy nhiên, các hoạt động ngoại bảng có thể ảnh hưởng đến trạng thái tương lai của bảng cân đối tài sản nội bảng bởi vì các hoạt động ngoại bảng có thể tạo ra những tài sản Có và tài sản Nợ bổ sung cho bảng cân đối nội bảng. Xuất phát từ tính chất của các hoạt động ngoại bảng là ngân hàng thu được phí trong khi không phải sử dụng đến vốn kinh doanh cho nên đã khuyến khích phát triển các hoạt động ngoại bảng ngày càng phát triển. Tuy nhiên, hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chẳng hạn, trong trường hợp công ty phát hành trái phiếu phá sản thì ngân hàng phải đứng ra thanh toán toàn bộ gốc và lãi chứng khoán do công ty phát hành. Trong thực tế, những trường hợp thua lỗ nghiêm 12 trọng trong các hoạt động ngoại bảng đã trở thành nguyên nhân chính khiến cho ngân hàng có thể phá sản. Ngày nay, hoạt động ngoại bảng rất phong phú và đa dạng. Trong khi một số hoạt động ngoại bảng được sử dụng tích cực vào việc phòng ngừa rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối và rủi ro tín dụng... thì nếu việc quản trị điều hành không hiệu quả hoặc không đánh giá đúng được tác dụng của các nghiệp vụ ngoại bảng có thể dẫn đến những tổn thất to lớn. 7/ Rủi ro công nghệ và hoạt động Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công nghệ không tạo ra được khoản tiết kiệm trong chi phí như đã dự tính. Rủi ro về công nghệ có thể gây nên hậu quả là khả năng cạnh tranh của ngân hàng giảm xuống đáng kể và là nguyên nhân tiềm ẩn của sự phá sản ngân hàng trong tương lai. Rủi ro hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với rủi ro công nghệ và có thể phát sinh bất cứ khi nào nếu hệ thống công nghệ bị trục trặc hoặc là khi hệ thống hỗ trợ bên trong ngừng hoạt động. Ví dụ, trong giao dịch trên thị trường liên ngân hàng, ngân hàng có thể là người cho vay hoặc người đi vay. Việc thanh toán giữa các ngân hàng diễn ra hàng ngày. Thông thường, hệ thống máy tính của ngân hàng hoạt động hiệu quả nhưng đôi khi cũng xảy ra trục trặc và do đó rủi ro có thể phát sinh. Rủi ro có thể xảy ra khi hệ thống máy tính đã xử lí sai các khoản vay của ngân hàng ở mức quá cao, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng và buộc ngân hàng này phải lập tức vay tiền từ Ngân hàng Trung Ương để đảm bảo khả năng thanh toán. 8/ Rủi ro Quốc gia Ngoài các loại rủi ro ngoại hối, rủi ro lãi suất ngoại tệ... như đã trình bày ở trên thì ngay cả trong trường hợp ngân hàng đầu tư bằng bản tệ cho các công ty nước ngoài có trụ sở ở nước 13 ngoài cũng có thể chịu rủi ro đầu tư nước ngoài, đó là rủi ro Quốc gia. Rủi ro Quốc gia còn nghiêm trọng hơn cả trường hợp tín dụng mà ngân hàng gặp phải khi đầu tư cho các công ty nội địa. Trong trường hợp ngân hàng đầu tư cho công ty nước ngoài thì ngay cả trong trường hợp công ty có khả năng và sẵn sàng hoàn trả vốn vay, nhưng cũng có thể không thực hiện được, bởi vì Chính phủ nước này cấm hoặc hạn chế việc thanh toán cho nước ngoài do dự trữ ngoại hối hạn hẹp hoặc vì lí do chính trị. 14 PHẦN II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG VÀ BIỆN PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG CỦA VIỆT NAM I/ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA Với chính sách và thành tựu đổi mới nền kinh tế, ngành ngân hàng Việt nam đã có những thay đổi bước ngoặt. Việt nam đã xây dựng được những cơ sở quan trọng cho một nền kinh tế thị trường và một hệ thống ngân hàng phù hợp với cơ chế thị trường. Hơn 10 năm qua, nhờ tích cực đổi mới và hội nhập, Việt nam đã đẩy lùi và kiềm chế được lạm phát, ổn định vĩ mô, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao trong nhiều năm, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá, đạt được thành tựu nổi bật trong sự nghiệp xoá đói giảm nghèo, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được của ngành ngân hàng Việt nam trong thời gian qua, chúng ta thấy vẫn còn tồn tại rất nhiều những hạn chế. Điều này có thể thấy rõ qua một số thực trạng rủi ro đang tồn tại ở Việt nam như sau: - Rủi ro về cơ chế chính sách: + Thay đổi chủ trương đường lối của chính phủ + Thay đổi lãi suất, tỷ giá. + Chính sách xuất nhập khẩu. + Chính sách thuế. Chẳng hạn như: Về chính sách tiền tệ:Từ năm 1999, ngân hành nhà nước Việt nam đã sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt và mở rộng tín dụng trong nước. Năm 1999 tín dụng đã mở rộng ra tới 20% và đến nửa đầu năm 2000 đã tăng lên tới 30%. Hơn nữa, trong vòng 15 12 tháng, từ tháng 6 năm 1999 tới tháng 6 năm 2000, 60% trong tổng số tín dụng tăng thêm đó là của khu vực phi nhà nước.Tuy nhiên sự bùng nổ về tín dụng này đã đưa ngân hàng tới hai rủi ro. Thứ nhất, nó sẽ tạo ra áp lực đối với lạm phát, mặc dù không rõ ràng. Có một số chứng cứ cho thấy việc mở rộng tín dụng đã có ảnh hưởng tới tình hình tài chính và xuất khẩu của gạo và cà phê. Thứ hai, nó làm cho các ngân hàng thương mại vốn đã non yếu giờ càng khó khăn thêm, đồng thời còn gây ra những khó khăn hơn trong quá trình quản lý rủi ro tín dụng Về chính sách lãi suất. Tháng 7 vừa qua, ngân hàng nhà nước Việt nam đã xoá bỏ chính sách lãi suất cố định và đưa ra chính sách lãi suất hợp lý hơn, cho phép các ngân hàng thương mại đưa ra mức lãi suất hợp lý mà người vay chấp nhận được ( 0,75%/tháng ), và cho phép các tổ chức tín dụng tự đưa ra mức lãi suất với điều kiện phần chênh lệch không được vượt quá 0,3% đối với các khoản vay ngắn hạn và 0,5% đối với các khoản vay trung và dài hạn. Tuy nhiên điều này cũng gây ra những khó khăn cho ngân hàng trong việc cho vay đối với những khách hàng mang tính rủi ro cao. Thêm nữa, chúng ta đều thấy năm vừa qua lãi suất trên thị trường Việt nam giảm mạnh. Tuy nhiên đây không phải do chính sách giảm lãi suất của nhà nước, mà trên thực tế nhà nước hoàn toàn bị động. Nguyên nhân ở đây chính là: do lãi suất thực bằng lãi suất danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát. Mà trong những năm vửa qua, do tình trạng nền kinh tế yếu kém, trì trệ đã kéo tỷ lệ lạm phát xuống, và vì vậy lãi suất cũng bị giảm xuống theo. - Rủi ro về đầu tư tín dụng ở các Ngân hàng Thương mại: + Chẳng hạn như một số vụ án kinh tế như vụ của công ty Minh Phụng...Những vụ án này đã gây những hậu quả thiệt hại nặng nề cho ngân hàng và cho nền kinh tế Việt nam. + Rủi ro cho vay từ cầm cố, thế chấp. + Rủi ro trong bảo lãnh xuất nhập khẩu. - Rủi ro trong thanh toán: 16 + Rủi ro do chuyển tiền bị đánh cắp, lợi dụng. + Tiền giả mạo, lừa đảo. Bên cạnh đó, còn rất nhiều rủi ro trong các nghiệp vụ khác. Nhìn nhận một cách khách quan, xét về tổng thể, hệ thống ngân hàng Việt nam còn tồn tại nhiều khó khăn. Trong giai đoạn hiện nay, phần lớn tài sản Có của ngân hàng là ở dạng tiền cho vay và thường tạo ra tới trên 60% tổng thu nhập của mỗi ngân hàng (ở Việt nam trên 90%). Những rủi ro này làm cho ngân hàng kinh doanh lĩnh vực này những thiệt hại nặng nề, có khi dẫn đến phá sản. Lý do chủ yếu là các khoản tiền cho vay (chiếm tới trên 70% tài sản có) kém “lỏng” hơn so với tài sản Có khác bởi chúng thường không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các món vay đó đến hạn. Về chính sách lãi suất, có rất nhiều vấn đề cần được xem xét. Mặc dù ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh lãi suất áp dụng cho khối Ngân hàng Thương mại rất linh hoạt nhưng nếu nhìn vào mặt bằng lãi suất chung ta có thể thấy nổi lên vấn đề không hợp lí về sự chênh lệch giữa hai loại lãi suất chủ yếu ở Việt nam hiện nay là lãi suất ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác và lãi suất huy động của Kho bạc Nhà nước. Trước ngày 1-7-1997, ngân hàng Nhà nước quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn của các ngân hàng tối đa là 15% năm, lãi suất cho vay trung và dài hạn là 16,1% năm. Theo đó, lãi suất huy động tối đa không quá 12%, nghĩa là với sự chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay đảm bảo hợp lý lãi suất thực dương cho hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thương mại. Trong khi đó, huy động vốn để đáp ứng nhu cầu chi ngân sách hoặc cho những dự án lớn dưới hình thức huy động bằng bán trái phiếu kho bạc với lãi suất cao hơn lãi suất cùng loại của Ngân hàng Thương mại tại thời điểm đó. Sự chênh lệch này đã tạo ra một hình thức cạnh tranh không đáng có, đồng thời nó thể hiện tính không nhất quán trong việc thực hiện chính sách tiền tệ của Nhà nước. Bên cạnh đó, những biến động tiền tệ và tỷ giá trong thời gian qua đã tạo một áp lực về thanh khoản nội tệ ở một số nhiều trở nên 17 căng thẳng, buộc các ngân hàng đồng loạt phải giảm lãi suất để huy động thêm nguồn vốn, và điều đó tăng sức “nóng” của thị trường vốn và lãi suất. Hiện nay, lãi suất huy động tiết kiệm kỳ hạn dưới 1 năm bình quân khoảng 0,85% tháng; sau khi dự trữ bắt buộc và đảm bảo thanh toán thì lãi suất đầu vào gần 1,1%. Phần lớn các ngân hàng chấp nhận huy động 0,9%-1%/tháng cũng có nghĩa là họ chấp nhận hoà vốn hoặc lỗ nếu so với lãi suất ngắn hạn là 1,2%/tháng. Nếu tình huống này kéo dài thì đây là nguy cơ rủi ro tiềm tàng đối với khả năng tồn tại và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt nam đang còn rất non yếu. Thêm nữa, hệ thống ngân hàng hiện nay đang ở trong tình trạng ứ đọng vốn trầm trọng, tốc độ tăng trưởng tín dụng không tương xứng với tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn huy động do sức hấp thụ vốn của nền kinh tế thuyên giảm, tiến độ giải ngân của một số dự án lớn chậm, tiền gửi của dân cư tiếp tục đổ vào hệ thống các Ngân hàng Thương mại; trong khi đó, lãi suất cho vay thực tế trên thị trường giảm mạnh. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng không ổn định. Một số ngân hàng đang cho vay ngắn hạn ở mức 0,45%-0,475%/tháng. Tình trạng ứ thừa vốn đang đẩy các Ngân hàng Thương mại đi đến tranh giành khách một cách gay gắt, dễ đưa các ngân hàng đến chỗ đầu tư mạo hiểm. Theo thống kê năm 1999, ta có tốc độ huy động và cho vay nền kinh tế của hệ thống ngân hàng như sau: Bảng 1: Tốc độ huy động vốn và cho vay nền kinh tế của hệ thống NHTM Việt nam Quý 1 Quý 2 Quý 3 Tháng 10/1999 Huy động - 9,3 19,3 - Choi vay nền âm 6,0 8,5 10 kinh tế Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, 2000. 18 Trên đây là một số điểm nổi bật về hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt nam trong thời gian qua. Qua đó ta thấy, dù rằng hệ thống ngân hàng đang ngày càng phát triển và tiến bộ hơn, nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng Việt nam. Để hạn chế đựơc những rủi ro này, chúng ta có thể xem xét một số biện pháp hạn chế rủi ro được trình bày dưới đây. II/ CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA, HẠN CHẾ RỦI RO Sau khi phân tích các rủi ro trong hệ thống ngân hàng Việt nam và những nguyên nhân dẫn đến các loại rủi ro này, ta có thể có một số giải pháp sau: 1/ Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng 1.1/ Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý Chính sách tín dụng của một Ngân hàng Thương mại là một hệ thống các biện pháp nhằm mở rộng hay thu hẹp hoạt động cho vay của nó với việc thực hiện 3 mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận cao, sự an toàn và sự lành mạnh. Đây là chính sách để quản lý cho vay, đảm bảo hiệu quả của vốn tín dụng, chính sách cho vay cần quy định cụ thể trong việc xem xét các loại khách hàng có thể cho vay, tiêu chuẩn ngân hàng có thể cho vay. Chính sách tín dụng là kim chỉ nam đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng quĩ đạo. Chính sách tín dụng của một ngân hàng cần bao quát các vấn đề sau: - Giới hạn về mặt địa lý, lĩnh vực đầu tư tín dụng - Thể thức cho vay - Giới hạn kỳ hạn nợ, thời hạn cho vay - Tiêu chuẩn khách hàng và tài sản đảm bảo - Mức cho vay một khách hàng, một nhóm khách hàng - Thẩm quyền và thủ tục thanh lý thu hồi nợ - Tiêu chuẩn tài chính tối thiểu khách hàng cần Tuỳ theo đặc điểm, quy mô hoạt động của từng ngân hàng để xây dưng chính sách tín dụng phù hợp. Căn cứ vào các chế độ, thể lệ 19 về tín dụng mà Ngân hàng Trung Ương đã thống nhất ban hành, các Ngân hàng Thương mại sẽ cụ thể hoá chính sách này trong quá trình xây dựng chính sách, thủ tục cho vay phù hợp với đặc điểm hoạt động và tính chất khách hàng của mình. Trong quá trình thực hiện, các Ngân hàng Thương mại cần đúc rút kinh nghiệm, phát hiện những chỗ bất hợp lý, chưa phù hợp để kiến nghị, bổ sung, hoàn chỉnh chính sách, chế độ. 1.2/ Thực hiện tốt quy trình quản lý tín dụng Quy trình quản lý tín dụng có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng. Một ngân hàng mạnh là một ngân hàng có quy trình quản lý tín dụng chặt chẽ và có hiệu quả. Quy trình quản lý tín dụng chi làm 4 giai đoạn: quá trình thẩm định, giám sát khách hàng vay, thu nợ và dự đoán được rủi ro trong quá trình cho vay. Về quá trình thẩm đinh: quá trình này được bắt đầu từ khi nhận đơn xin vay cho đến khi phát tiền vay, trong giai đoạn này chú ý đến mục tiêu kinh doanh, các nguyên tắc tín dụng đã quy định. Đây là giai đoạn khởi đầu nên mức độ rủi ro phụ thuộc nhiều vào việc xem xét, lập hồ sơ vay vốn, đánh giá tài sản thế chấp, quyết định cho vay và giám sát sau khi vay. Trong quá trình này, các ngân hàng phải tập trung đánh giá những mặt sau: + Năng lực pháp lý của khách hàng: khách hàng vay vốn phải có tư cách pháp nhân. Đây là điều kiện tiên quyết để ngân hàng xem xét cho vay nhằm xác định trách nhiệm trước pháp luật về việc trả nợ vay cho ngân hàng. + Uy tín của người vay vốn: đây là yếu tố hết sức quan trọng mà ngân hàng cần phải đánh giá. Phần lớn các thông tin về khách hàng đều đã được ngân hàng biết đến. Đối với một khách hàng truyền thống, những giao dịch trước đó của ngân hàng với họ sẽ đưa lại một lượng thông tin về tính trung thực, các nguồn tài chính và năng lực của khách hàng, thông tin về tính nghiêm túc trong việc thực hiện nghĩa vụ trả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfThực trạng hoạt động ngân hàng ở Việt Nam !!!.pdf
Tài liệu liên quan