Đề tài Các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I 3

 TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM 3

I. CƠ SỞ PHÁP LÝ QUI ĐỊNH CÁC BIỆN PHÁP KHUYẾN KHÍCH VÀ BẢO HỘ ĐẦU TƯ. 3

1. Sơ lược quá trình xây dựng và hoàn thiện Luật đầu tư nước ngoài: 3

2. Một số sửa đổi quan trọng để khuyến khích và bảo hộ đầu tư của Luật ĐTNN tại Việt Nam. 4

II. ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP VÀ ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP. 6

1. Đầu tư trực tiếp: 6

2. Đầu tư gián tiếp. 7

CHƯƠNG II 9

 CÁC BIỆN PHÁP KHUYẾN KHÍCH VÀ BẢO HỘ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 9

I. CÁC BIỆN PHÁP KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM. 9

1. Những lĩnh vực khuyến khích đầu tư nước ngoài: 9

2. Các hình thức thu hút FDI. 10

3. Những ưu đãi về tài chính: 14

II. CÁC BIỆN PHÁP BẢO HỘ ĐẦU TƯ THEO LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM. 21

1. Biện pháp bảo đảm đối xử công bằng và thoả đáng: 21

2. Biện pháp bảo đảm đối với vốn và tài sản của nhà ĐTNN. 22

3. Bảo đảm cho nhà đầu tư chuyển vốn, tài sản và thu nhập hợp pháp tại Việt Nam ra nước ngoài. 23

4. Bảo đảm cho nhà đầu tư kinh doanh có hiệu quả. 24

5. Biện pháp giải quyết thoả đáng các tranh chấp về đầu tư. 25

CHƯƠNG III 28

 THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ 28

I. THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY. 28

1. Tình hình thu hút vốn. 28

2. Nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1999 - 2005. 30

II. CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI. 31

1. Nâng cao chất lượng qui hoạch thu hút đầu tư nước ngoài: 31

2. Xây dựng một hệ thống chính sách để cải thiện môi trường đầu tư. 31

3. Hoàn thiện pháp luật: 33

4. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư. 33

5. Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. 33

6. Chú trọng công tác cán bộ và đào tạo công nhân kỹ thuật, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của công đoàn và các tổ chức đoàn thể trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. 34

KẾT LUẬN 35

TÀI LIỆU THAM KHẢO 36

 

 

doc37 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1397 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t trong nhiều hình thức sau: thành lập liên doanh hợp tác, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp toàn bộ sở hữu nước ngoài, tham gia cổ phần tại các công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn Trung Quốc, thành lập chi nhánh công ty nước ngoài tại Trung Quốc, thành lập công ty Holding company (Công ty quản lý vốn, đa mục tiêu, đa dự án), thành lập văn phòng đại diện, tiến hành các hoạt động gia công và lắp ráp tại Trung Quốc, tham gia công ty cổ phần có vốn ĐTNN. ở Inđônêxia, nhà ĐTNN có thể chọn các hình thức sau: liên doanh với một công ty Inđônêxia để thành lập một công ty liên doanh trách nhiệm hữu hạn, thành lập chi nhánh nếu hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng hoặc công ty khai thác dầu khí, công ty liên doanh có thể mua cổ phần của các công ty Inđônêxia. Chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm để đa dạng hoá các hình thức FDI tạo điều kiện cho nhà ĐTNN lựa chọn, so sánh hình thức nào phù hợp với họ nhất, đảm bảo cho họ có được lợi nhuận cao nhất mà chúng ta vẫn quản lý được hoạt động ĐTNN. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta chưa đủ điều kiện để tổ chức hoạt động đầu tư gián tiếp nên Luật ĐTNN 2000 vẫn giữ nguyên các hình thức như trước. Chúng ta hy vọng trong thời gian tới Chính phủ sẽ hoàn thiện dần hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu lực quản lý, đa dạng hoá các hình thức ĐTNN. Để phát triển công nghiệp có hiệu quả, các Chính phủ đều khuyến khích các nhà ĐTNN đầu tư vào khu công nghiệp. Có thể chia khu công nghiệp làm 3 loại: - Khu công nghiệp (KCN) thông thường: là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc thủ tướng Chính phủ cấp quyết định thành lập. - Khu chế xuất (KCX): là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. - Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp có kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm nghiên cứu, triển khai khoa học công nghệ, đào tạo và các dịch vụ có liên quan, có ranh giới đại lý xác định, do Chính phủ hoặc thủ tướng Chính phủ cấp quyết định thành lập. ở Việt Nam, để xây dựng nền công nghiệp hướng vào xuất khẩu đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, cần đảm bảo những điều kiện và yếu tố cần thiết: vốn đầu tư, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, đội ngũ quản lý và công nhân lành nghề có trình độ tay nghề cao. KCX, KCN là công cụ quan trọng để thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài để sản xuất hàng xuất khẩu, đồng thời khai thông với thị trường khu vực và thế giới. Hiện nay, cả nước có 58 KCN, trong đó có 3 KCX đã và đang hoạt động, 12 khu liên doanh với nước ngoài xây dựng, 1 khu do Đài Loan bỏ 100% vốn xây dựng, số còn lại do Việt Nam tự bỏ vốn xây dựng. Trong số 58 KCN nói trên, tính đến cuối 1999 mới có hơn 20 KCN đã thu hút được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Dẫn đầu là KCN Biên Hoà 2, KCX Tân Thuận, KCN Sài Đồng B. Còn nhìn chung các KCN khác số dự án vào còn rất ít nhiều lô đất trong KCN còn bị bỏ trống, có khi chỉ sử dụng 35% diện tích. Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân khác nhau: do kết cấu hạ tầng bên ngoài KCN xây dựng rất chậm và thiếu đồng bộ, do chi phí điện nước, dịch vụ kỹ thuật của KCN còn quá cao, có quá nhiều loại phí và lệ phí đào tạo nên tâm lý không muốn đầu tư vào các KCN. Tóm lại, thu hút các dự án FDI vào các KCN là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn nhằm phát triển nhanh nền công nghiệp nước ta, phục vụ đắc lực sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nhưng một thực tế là việc phát triển các KCN của ta chưa đủ sức thu hút các dự án FDI, làm giảm nhịp độ vốn đầu tư FDI vào Việt Nam trong những năm tới, chúng ta cần cải tiến cơ chế hoạt động của các KCN, KCX. 3. Những ưu đãi về tài chính: Đối với các doanh nghiệp cũng như đối với các nhà ĐTNN, đầu tư vào Việt Nam thì vấn đề lợi nhuận là yếu tố quan trọng hàng đầu của quá trình kinh doanh mà trong đó thuế là yếu tố quan trọng nhất để so sánh sự ưu đãi về đầu tư, các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp có vốn ĐTNN hiện đang áp dụng hệ thống thuế bao gồm hơn 10 loại thuế và một số loại phí như: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế VAT, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế XNK, thuế môn bài, lệ phí chước bạ, lệ phí chứng thư. Tuy nhiên theo quy định của luật ĐTNN có sự khác biệt đáng kể giữa đầu tư trong nước và ĐTNN về một số loại thuế, thể hiện sự ưu đãi và khuyến khích của Nhà nước đối với nhà ĐTNN. 3.1. Thuế thu nhập doanh nghiệp. Được qui định tại điều 45, 46, 47, 48, Nghị định 24CP ngày 31/7/2000. * Mức thuế suất phổ thông: Doanh nghiệp có vốn ĐTNN và bên hợp doanh nước ngoài nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất là 25% lợi nhuận thu được. * Mức thuế suất ưu đãi: - Trong trường hợp khuyến khích đầu tư, mức thuế thu nhập doanh nghiệp là 20% lợi nhuận thu được. - Trường hợp có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư thì mức thuế suất là 15% lợi nhuận thu được. - Trường hợp đặc biệt khuyến khích đầu tư thì mức thuế lợi tức là 10% lợi nhuận thu được. Sau thời gian được hưởng mức thuế suất ưu đãi nói trên, các dự án phải nộp thuế suất doanh nghiệp với mức thuế suất là 25% riêng đối với dự án đầu tư đáp ứng một trong các tiêu chuẩn sau được áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trong suốt thời hạn thực hiện dự án: thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư, thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn trong danh mục địa bàn khuyến khích đầu tư, dự án phát triển hạ tầng KCX, KCN, khu công nghệ cao, đầu tư vào KCX, KCN, khu công nghệ cao, thuộc lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo nghiên cứu khoa học. * Một số ưu đãi đặc biệt khác: - Các kiều bào nước ngoài đầu tư về nước được giảm 20% thuế thu nhập doanh nghiệp so với các dự án cùng loại, trừ trường hợp được hưởng mức thuế là 10%. - Thuế đối với doanh nghiệp BOT: thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp bằng 10% lợi nhuận thu được và áp dụng trong suốt thời gian thực hiện dự án. Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo. Trong trường hợp đầu tư vào địa bàn khuyến khích đầu tư được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 8 năm kể từ khi kinh doanh có lãi. Điều 49 Nghị định 24CP qui định rõ hơn sự ưu đãi: các doanh nghiệp BOT, BTO, BT đầu tư vào địa bàn thuộc danh mục địa bàn khuyến khích đầu tư, doanh nghiệp khu công nghệ kỹ thuật cao, doanh nghiệp dịch vụ công nghệ cao trong khu công nghệ cao, các dự án trồng rừng và các dự án xây dựng - kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng tại điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, các dự án có qui mô lớn và có tác động lớn đối với kinh tế - xã hội thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 8 năm kể từ khi kinh doanh có lãi. Đối với lĩnh vực dầu khí và một số tài nguyên quí hiếm khác thì miễn thuế thu nhập doanh nghiệp theo qui định của luật dầu khí và pháp luật có liên quan. Nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân Nhà nước mở rộng đầu tư tại Việt Nam, điều 51 Nghị định 24CP qui định: 1. Nhà ĐTNN dùng lợi nhuận và các khoản thu hợp pháp khác trong hoạt động đầu tư ở Việt Nam để tái đầu tư vào các dự án đang thực hiện hoặc đầu tư vào dự án mới theo luật ĐTNN được hoàn lại một phần hoặc toàn bộ số thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp của số lợi nhuận tái đầu tư (trừ trường hợp qui định tại luật dầu khí) nếu đáp ứng các điều kiện sau: a. Tái đầu tư vào những dự án được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp nêu tại điều 46 của Nghị định này. b. Vốn tái đầu tư được sử dụng từ 3 năm trở lên. c. Đã góp đủ vốn pháp định, vốn để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh ghi trong giấy phép đầu tư. 2. Mức hoàn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với số lợi nhuận tái đầu tư tại Việt Nam được qui định như sau: a. 100% nếu tái đầu tư vào các dự án thuộc diện được hưởng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10%; b. 75% nếu tái đầu tư vào các dự án thuộc diện được hưởng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 15%. c. 50% nếu tái đầu tư vào các dự án thuộc diện được hưởng mức thuế suất thu nhập doanh nghiệp 20%. Mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và các qui định về miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp rõ ràng là một đòn bảy kinh tế đối với nhà ĐTNN và nâng cao khả năng cạnh tranh thu hút vốn của Luật ĐTNN tại Việt Nam. 3.2. Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài: Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là công cụ của Nhà nước để điều chỉnh vĩ mô các hoạt động chuyển tiền tệ ra nước ngoài nói riêng và hoạt động đầu tư nói chung. Nhằm khuyến khích thu hút ĐTNN, nhà nước ta đã qui định những mức thuế ưu đãi, đồng thời cơ quan quản lý Nhà nước về ĐTNN có thể miễn giảm thuế này trong các trường hợp khuyến khích đầu tư. Điều 43, luật sửa đổi bổ sung một số luật ĐTNN tại Việt Nam 2000 “Khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài phải nộp một khoản thuế là 3%, 5%, 7% số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài, tuỳ thuộc vào mức độ góp vốn của nhà ĐTNN vào vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn ĐTNN hoặc vốn thực hiện hợp động hợp tác kinh doanh”. Điều 50 Nghị định 24CP qui định cụ thể: 1. Lợi nhuận mà nhà ĐTNN thu được do đầu tư tại Việt Nam (kể cả thuế thu nhập doanh nghiệp được hoàn lại do tái đầu tư và lợi nhuận thu được do chuyển nhượng vốn) nếu chuyển ra nước ngoài hoặc được giữ lại ngoài Việt Nam đều phải chịu thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. 2. Thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài được áp dụng như sau: a. 3% lợi nhuận chuyển ra nước ngoài đối với: - Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước theo qui định của luật ĐTNN. - Nhà ĐTNN đầu tư vào KCN, KCX, khu công nghệ cao. - Nhà ĐTNN góp vốn pháp định hoặc vốn để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh từ 10 triệu USD trở lên. - Nhà ĐTNN đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thuộc danh mục địa bàn khuyến khích đầu tư. b. 5% lợi nhuận chuyển ra nước ngoài đối với nhà ĐTNN góp vốn pháp định hoặc vốn để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh từ 5-10 triệu USD và đối với nhà ĐTNN đầu tư vào các dự án thuộc lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học, ngoài ra doanh nghiệp BOT và doanh nghiệp KCN chịu thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là 5% lợi nhuận chuyển ra nước ngoài. c. 7% lợi nhuận chuyển ra nước ngoài đối với nhà ĐTNN góp vốn pháp định hoặc vốn để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh không thuộc các trường hợp qui định tại điểm a và điểm b, khoản 2, điều này. So với luật ĐTNN năm 1996, luật ĐTNN sửa đổi bổ sung 2000 đã giảm hẳn thuế suất chỉ còn 3%, 5%, 7% (luật ĐTNN 96 qui định mức thuế suất là 5%, 7%, 10%). Với tinh thần tạo những ưu đãi tốt nhất cho ĐTNN, chúng ta đã giảm mức thuế suất và đây thực sự là một điều khích lệ với nhà ĐTNN. 3.3. Thuế xuất nhập khẩu. Thuế xuất nhập khẩu được sử dụng rộng rãi để khuyến khích đầu tư, luật ĐTNN 1/7/2000 qui định về thuế xuất nhập khẩu tại điều 17: 1. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng xuất khẩu, hàng nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn ĐTNN và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được áp dụng theo luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 2. Doanh nghiệp có vốn ĐTNN, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng nhập khẩu để tạo tài sản cố định gồm: a. Thiết bị máy móc b. Phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ và phương tiện chuyên dùng để đưa đón công nhân. c. Linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng gá lắp, khuôn mẫu phụ tùng đi kèm với thiết bị, máy móc, phương tiện vận chuyển chuyên dùng nêu tại điểm b khoản này. d. Nguyên liệu, vật tư dùng để chế tạo thiết bị, máy móc trong dây chuyền công nghệ hoặc để chế tạo linh kiện, chi tiết, bộ phần rời, phụ tùng gá lắp, khuôn mẫu, phụ tùng đi kèm với thiết bị, máy móc. e. Vật tư xây dựng trong nước chưa sản xuất được. Việc miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu qui định tại khoản này được áp dụng cho cả trường hợp mở rộng qui mô dự án, thay thế, đổi mới công nghệ. 3. Nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất các dự án thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được miễn thuế nhập khẩu trong thời hạn 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất. 4. Chính phủ qui định việc giảm, miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với các hàng hoá đặc biệt cần khuyến khích đầu tư khác. Như vậy, so với luật ĐTNN 1996, điều 47 luật ĐTNN sửa đổi bổ sung 2000 đã qui định cụ thể rõ ràng hơn các trường hợp được miễn thuế nhập khẩu, luật hoá các qui định trong các văn bản dưới luật như Nghị định 10CP, Nghị định 12CP, Nghị định 62CP và đặc biệt khoản 3 là điểm bổ sung quan trọng thúc đẩy đầu tư vào lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư và địa bàn khuyến khích đầu tư. So với luật khuyến khích đầu tư trong nước thì nhà ĐTNN theo luật ĐTNN hưởng chế độ miễn giảm thuế xuất nhập khẩu rộng rãi hơn. Theo điều 15, điều 16 luật khuyến khích đầu tư trong nước thì nhà đầu tư có thể được miễn thuế nhập khẩu đối với các loại hàng hoá sau đây mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đáp ứng được yêu cầu: thiết bị máy móc, phương tiện vận tải nằm trong dây chuyền công nghệ để tạo tài sản cố định hoặc để mở rộng quy mô đầu tư, đổi mới công nghệ, phương tiện chuyên dùng để đưa đón công nhân. Điểm khác biệt này cũng xuất phát từ cơ sở lý luận là nhà ĐTNN có quyền góp vốn bằng tiền, máy móc thiết bị khi góp vốn bằng tiền hoặc miễn thuế thì không lý gì lại đánh thuế vào vốn góp bằng máy móc, thiết bị. Các nhà đầu tư nước ngoài ngoài việc hưởng các ưu đãi đặc biệt về thuế xuất nhập khẩu còn được hưởng chế độ “đãi ngộ quốc dân” không kém phần thuận lợi như các thành phần kinh tế khác. 3.4. Tiền thuê mặt đất, mặt nước, mặt biển. Điều 16 luật ĐTNN sửa đổi bổ sung năm 2000 qui định: 1. Doanh nghiệp có vốn ĐTNN tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh sử dụng mặt đất, mặt nước, mặt biển phải trả tiền thuê, trường hợp khai thác tài nguyên phải nộp thuế tài nguyên theo qui định của pháp luật. Chính phủ quy định việc miễn giảm tiền thuê mặt đất, mặt nước, mặt biển đối với các dự án xây dựng - kinh doanh - chuyển giao, xây dựng - chuyển giao, dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. 2. Trong trường hợp bên Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất thì bên Việt Nam có trách nhiệm đền bù giải phóng mặt bằng và hoàn thành các thủ tục để được quyền sử dụng đất. Trong trường hợp Nhà nước Việt Nam được thuê đất thì UBND tỉnh, Thành phố thường trực thuộc TW nơi có dự án đầu tư tổ chức thực hiện việc đền bù giải phóng mặt bằng, hoàn thành các thủ tục cho thuê đất. 3. Doanh nghiệp có vốn ĐTNN được thế chấp tài sản gắn liền với đất và giá trị quyền sử dụng đất để đảm bảo vay vốn tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam. Chính phủ quy định các điều kiện và thủ tục doanh nghiệp có vốn ĐTNN thế chấp quyền sử dụng đất. Điều 86, 87, 91, 92 Nghị định 24CP qui định cụ thể hơn, tạo sự thông thoáng và tháo gỡ một số khó khăn cho nhà ĐTNN. Các qui định mới này đã thực sự giải phóng vướng mắc khó chịu nhất từ trước đến nay cho nhà ĐTNN ở những điểm sau: - Việc sử dụng mặt đất, mặt nước, mặt biển của doanh nghiệp có vốn ĐTNN là ngang bằng và bình đẳng như các doanh nghiệp khác (doanh nghiệp BOT được miễn tiền thuê đất trong suốt thời gian thực hiện dự án). Các qui định về giá thuê mặt đất, mặt nước, mặt biển đối với nhà ĐTNN là ngang bằng thời giá chung cho tất cả các đối tượng khác. - Quy định về nghĩa vụ giải phóng mặt bằng đã thực sự cất gánh nặng cho nhà ĐTNN cả về tiền bạc lẫn công sức. Trước đây nhà đầu tư rất lo ngại khi gánh trách nhiệm này vì thủ tục quá phức tạp và các bước tiến hành hết sức khó khăn. Để đền bù giải phóng mặt bằng nhà đầu tư phải làm 4 tờ trình, 3 tờ quyết định, 6 con dấu và 7 chữ ký, chưa kể đến việc phải trực tiếp thương lượng với từng hộ dân để họ di chuyển, trong khi họ chưa hiểu biết gì về thủ tục và tập quán của Việt Nam. Đây đã từng được gọi là “cửa ải nghiệt ngã nhất” trong giai đoạn hình thành dự án nay được coi như là cuộc cách mạng đối với nhà ĐTNN vì họ được giải phóng. Khoản 3 điều 16 đã thừa nhận quyền doanh nghiệp có vốn ĐTNN được thế chấp quyền sử dụng đất, việc thế chấp quyền sử dụng đất không còn bị bó hẹp trong các tổ chức tín dụng của Việt Nam nữa mà mở rộng ra tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam tạo điều kiện cho doanh nghiệp thoả mãn với nhu cầu về vốn và tự do lựa chọn tổ chức tín dụng để vay vốn. Các biện pháp khuyến khích đầu tư ngày càng được sửa đổi, hoàn thiện hơn đã góp phần tạo nên một môi trường pháp lý thông thoáng, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. II. Các biện pháp bảo hộ đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Bảo hộ ĐTNN xét dưới góc độ lý luận chung là một khái niệm rộng bao gồm nhiều biện pháp do Nhà nước đề ra bảo đảm quyền lợi thiết thực, chính đáng cho nhà đầu tư trong quá trình đầu tư tại nước sở tại. Đó là sự đảm bảo pháp lý với những biện pháp được qui định bằng các qui phạm pháp luật nhằm bảo đảm sự ổn định về lợi ích và sự an toàn cả vốn lẫn lãi trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh, tạo mọi điều kiện cho hoạt động đầu tư có hiệu quả. Bảo hộ đầu tư tạo cơ sở vững chắc để nhà đầu tư tin tưởng quyền lợi của mình sẽ được bảo vệ bằng các cam kết của nước nhận đầu tư, khuyến khích đầu tư tạo thêm những điều kiện ưu đãi thuận lợi để nhà đầu tư lựa chọn một hình thức đầu tư phù hợp nhất, vào lĩnh vực thích hợp nhất và hưởng những ưu đãi tài chính thiết thực nhất. Để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các biện pháp bảo hộ đầu tư, Nhà nước Việt Nam đã quy định trong Hiến pháp 1992, các văn bản luật và các văn bản dưới luật cụ thể hoá. Ngoài ra đối với nỗ lực tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế, Chính phủ Việt Nam đã đàm phán và ký kết các Hiệp định song phương như Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần, các Hiệp định đa phương như Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN, công ước MIGA, trên nguyên tắc có đi có lại giữa các quốc gia ký kết, quyền lợi nhà đầu tư được bảo hộ chặt chẽ và qui định cụ thể hơn. Luật ĐTNN tại Việt Nam đã dành riêng một chương để quy định các biện pháp bảo hộ đầu tư, bao gồm các biện pháp sau: 1. Biện pháp bảo đảm đối xử công bằng và thoả đáng: Điều 20 luật ĐTNN qui định: “Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam bảo đảm đối xử công bằng và thoả đáng đối với các nhà ĐTNN đầu tư vào Việt Nam. Nguyên tắc này có nghĩa là dựa trên nguyên tắc “đãi ngộ quốc dân”. Đối xử công bằng được hiểu là sự đối xử của nước nhận đầu tư, không có sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, giữa các nhà ĐTNN với nhau, giữa khu vực đầu tư công cộng và đầu tư tư nhân. Đảm bảo đối xử thoả đáng đối với nhà đầu tư tức là khi một cá nhân, tổ chức nước ngoài đưa vốn vào Việt Nam thì Chính phủ Việt Nam phải cho họ hưởng những quyền lợi về vật chất thích hợp để thực hiện các hoạt động đầu tư của họ để thu được lợi nhuận xứng đáng với cái mà họ bỏ ra và cái họ đáng được hưởng thụ. Như vậy, đối xử công bằng và thoả đáng đối với nhà ĐTNN điều này đã làm tăng sức cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam so với môi trường đầu tư của các nước trong khu vực trên thế giới. 2. Biện pháp bảo đảm đối với vốn và tài sản của nhà ĐTNN. Việc bảo đảm vốn và tài sản của nhà ĐTNN vào Việt Nam được khẳng định trong điều 1 và điều 21 luật ĐTNN: Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà ĐTNN, tạo điều kiện thuận lợi và qui định thủ tục đơn giản, nhanh chóng cho các nhà ĐTNN vào Việt Nam. * Pháp luật Việt Nam bảo đảm quyền sở hữu đối với vốn, tài sản của các nhà ĐTNN thể hiện: - Nhà ĐTNN có quyền quyết định sử dụng vốn như thế nào hợp lý và có hiệu quả nhất: lựa chọn đối tác, lựa chọn lĩnh vực, địa bàn đầu tư, lựa chọn hình thức đầu tư,... - Các bên trong doanh nghiệp liên doanh có quyền chuyển nhượng phần vốn của mình trong doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN có quyền chuyển nhượng vốn của mình, nhưng phải ưu tiên chuyển nhượng cho doanh nghiệp Việt Nam. Như vậy, nhà ĐTNN có quyền định đoạt về vốn. - Nhà ĐTNN có quyền thực hiện việc mua bán tài sản (bí quyết kỹ thuật, bằng sáng chế, dịch vụ kỹ thuật) nguyên nhiên liệu phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh,... với tổ chức cá nhân khác trong phạm vi hoạt động của mình. - Tài sản của doanh nghiệp có vốn ĐTNN không bị quốc hữu hoá. - Một vấn đề thường xuyên xảy ra trong quản lý Nhà nước là việc điều chỉnh chính sách và luật pháp khi điều kiện mới xuất hiện có trường hợp có lợi cho nhà ĐTNN nhưng cũng có trường hợp gây thiệt hại cho họ. Điều 21 a luật sửa đổi bổ sung luật ĐTNN 1/7/2000 đã qui định các biện pháp giải quyết. Doanh nghiệp có vốn ĐTNN được tiếp tục hưởng vốn ưu đãi đã quy định trong giấy phép đầu tư hoặc đưa các giải quyết thoả đáng như miễn giảm thuế, khấu trừ vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp và một thời điểm mới nữa là có thể được xem xét bồi thường trong một số trường hợp cần thiết. Đây thực sự là một quy định làm yên tâm các nhà ĐTNN vì từ trước đến nay biện pháp giải quyết cụ thể trong trường hợp làm phương hại đến lợi ích các nhà ĐTNN chưa được qui định thành điều luật mà chỉ rải rác ở các văn bản dưới luật (như Nghị định 18CP, Nghị định 12CP,...) và từ trước đến nay Nhà nước cũng không cam kết bồi thường thoả đáng mà chỉ dành cho nhà ĐTNN những ưu đãi tài chính nhất định. 3. Bảo đảm cho nhà đầu tư chuyển vốn, tài sản và thu nhập hợp pháp tại Việt Nam ra nước ngoài. Một trong những cơ sở pháp lý đảm bảo cho hoạt động đầu tư có hiệu quả là đảm bảo cho nhà đầu tư có thể chuyển vốn, lợi nhuận và các tài sản hợp pháp khác của nhà ĐTNN một cách nhanh chóng, dễ dàng. Các nhà đầu tư khi đầu tư vào Việt Nam với mục đích cuối cùng là thu lợi nhuận thì yêu cầu tất yếu của họ sẽ sử dụng lợi nhuận đó, tức là họ có thể đưa về nước hoặc tái đầu tư để có thể đạt được lợi nhuận nhiều hơn nên họ rất quan tâm đến việc chu chuyển đồng vốn mà đặc biệt là chu chuyển ra nước ngoài. Nắm bắt được tâm lý chung đó, Nhà nước ta rất cởi mở trong việc cho họ quyền chuyển ra nước ngoài tài sản một cách thuận tiện. Điều 22, luật ĐTNN qui định: Nhà ĐTNN vào Việt Nam được chuyển ra nước ngoài: - Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh. - Những khoản tiền trả cho việc cung cấp kỹ thuật, dịch vụ. - Tiền gốc và lãi các khoản vay nước ngoài trong quá trình hoạt động. - Vốn đầu tư. - Các khoản tiền và tài sản khác thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình. Biện pháp bảo đảm về chuyển tài sản hợp pháp của nhà đầu tư ra nước ngoài theo pháp luật Việt Nam khá đầy đủ, tuy vậy có một điều cần hoàn thiện đó là trong pháp luật về đầu tư qua thực tiễn chuyển lợi nhuận ra nước ngoài dù hệ thống kiểm tra báo cáo có hoàn hảo đến đâu cũng khó phân biệt đâu là lợi nhuận, đâu là tiền lãi, là các khoản trả tiền vay. Dù vậy, với những quy định của pháp luật Việt Nam có thể khẳng định đây là một bảo đảm pháp lý quan trọng đối với quyền sở hữu hợp pháp tài sản của nhà đầu tư. 4. Bảo đảm cho nhà đầu tư kinh doanh có hiệu quả. Các nhà ĐTNN hết sức chú ý đến vấn đề đảm bảo một cách an toàn trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Trên cơ sở đó các nhà đầu tư mới yên tâm kinh doanh và có hứng thú đầu tư vào Việt Nam, làm sao để họ có được lợi nhuận và nước nhận đầu tư cũng đạt được mục tiêu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hiến pháp 1992 đã ghi nhận: “Bảo hộ quyền kinh doanh và tài sản hợp pháp của người nước ngoài”. Các biện pháp cho nhà ĐTNN hoạt động, sản xuất kinh doanh có hiệu quả bao gồm: - Đảm bảo về thời gian: trước đây, điều lệ đầu tư 1997 qui định thời hạn kinh doanh 10 - 15 năm. Luật ĐTNN 1987 qui định: “Thời hạn kinh doanh của xí nghiệp có vốn ĐTNN tối đa là 20 năm trong trường hợp cần thiết thời hạn có thể dài hơn”. Luật ĐTNN 1990, 1992, 1996 qui định thời hạn hoạt động của doanh nghiệp có vốn ĐTNN và thời hạn hợp đồng hợp tác kinh doanh với từng dự án không quá 50 năm, đối với 1 số dự án cần thực hiện trong thời gian dài thì tối đa cũng không được quá 70 năm đối với những dự án do UBTVQH hoặc Chính phủ quyết định (Điều 17 luật ĐTNN 1996). - Đảm bảo tự do lựa chọn lĩnh vực kinh doanh: các nhà đầu tư có thể đầu tư vào lĩnh vực mà Chính phủ Việt Nam đặc biệt khuyến khích đầu tư, các lĩnh vực đầu tư có điều kiện hoặc các lĩnh vực thông thường khác, cũng có thể lựa chọn địa bàn đầu tư phù hợp với điều kiện của họ. Tuy nhiên, trừ các lĩnh vực gây hại đến trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam thì pháp luật không cho phép đầu tư. Chính phủ Việt Nam cũng như các quốc gia khác một mặt khuyến khích nhà đầu tư lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực đầu tư mặt khác cũng quy định lĩnh vực không được đầu tư để bảo vệ quyền lợi cho mình. Các nhà đầu tư được tự do hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, đó là nguyên tắc và phù hợp với thông lệ quốc tế. - Đảm bảo quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh: Doanh nghiệp có vốn ĐTNN có toàn quyền quyết định kế hoạch sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm, Nhà nước Việt Nam không can thiệp hay áp đặt điều gì tới kế hoạch và quá trình sản xuất kinh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0057.doc
Tài liệu liên quan