Đề tài Các công cụ chính sách tiền tệ

MỤC LỤC

Lời mở đầu 1

A. Giới thiệu chung về chính sách tiền tệ. 2

B. Các công cụ chính sách tiền tệ 3

1. Hạn mức tín dụng 3

1.1. Giới thiệu chung 3

1.2. Thực tế vận dụng trong điều kiện kinh tế thị trường ở VN 4

1.3. Hiệu quả 5

2. Ấn định lãi suất 5

2.1. Giới thiệu chung 5

2.2. Thực tế vận dụng trong điều kiện kinh tế thị trường ở VN 6

2.3. Hiệu quả 7

3. Ấn định tỉ giá 9

3.1. Giới thiệu chung về tỉ giá hối đoái 9

3.2. Thực tế về diễn biến tỉ giá 9

3.3. Đánh giá 11

4. Dự trữ bắt buộc 12

4.1. Giới thiệu chung 12

4.2. Quá trình sử dụng dự trữ bắt buộc ở Việt Nam 13

4.3. Đánh giá 14

5. Tái chiết khấu 14

5.1. Giới thiệu chung 14

5.2. Thực tế vận dụng trong điều kiện kinh tế thị trường ở VN 16

5.3. Đánh giá 17

6. Thị trường mở 18

6.1. Giới thiệu chung 18

6.2. Thực tế vận dụng trong điều kiện kinh tế thị trường ở VN 19

6.3. Giải pháp khắc phục 21

C. Kết luận. 22

Tài liệu tham khảo 23

Mục lục

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1425 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các công cụ chính sách tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tắc lãi suất cho vay không vượt quá lãi suất USD trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng Singapore kỳ hạn 3 tháng đối với cho vay ngắn hạn, kỳ hạn 6 tháng đối với cho vay trung dài hạn tại thời điểm cho vay và biên độ do thống đốc ngan hàng qui định trong từng thời kỳ. Với cơ chế điều hành lãi suất mới này, về mặt bản chất cũng giống như cơ chế lãi suất trần, bởi vì lãi suất cho vay bị khống chế bởi lãi suất cơ bản cộng với biên độ, chỉ khác là nó mang tính hướng dẫn, chỉ đạo cho các TCTD hình thành lãi suất hoạt động cho mình một cách dễ dàng hơn. tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay khi mà nhà nước chưa thể thả nổi lãi suất thì việc qui định biên độ dao động là nhằm đảm bảo quản lý của nhà nước truớc khi chuyển hẳn sang lãi suất thị trường, lúc đó việc điều hành chính sách tiền tệ chủ yếu bằng công cụ lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị truờng mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Chính vì vậy mà tình hình lãi suất ngân hàng đến nay hầu như không biến động so với thời điểm truớc khi điều chỉnh. Ngày 29-5-2001, thống đốc NHNN đã ra quyết định số 718 về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng USD. Theo đó, các TCTD được quyền chủ động ấn định lãi suất cho vay bằng USD trên cơ sở lãi suất thị truờng quốc tế và cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ trong nước. Đây là một bước đi tự tin táo bạo và sáng suốt, đặt tiền đề hết sức quan trọng cho quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam. 2.3. Hiệu quả: Từ năm 1991 trở về truớc, lãi suất âm tuyệt đối nhưng mức tăng trưởng lại thấp hơn các năm sau đó. Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng không phải lãi suất cho vay thấp mà có được tăng truởng cao mà vấn đề là ở chỗ lãi suất phải phù hợp với qui luật cung cầu về vốn, thì công cụ bổ trợ này mới có ý nghĩa. Lãi suất tín dụng Việt Nam hiện tại đang giải quyết các mục tiêu mâu thuẫn với nhau là : - Huy động được nhiều vốn trong dân chúng để đáp ứng cho nền kinh tế. - Tỉ lệ lãi suất phải kéo thấp xuống để phù hợp với thế giới, đồng thời phù hợp với qui luật hình thành và phân chia lợi nhuận bình quân toàn xã hội. Chúng ta không đánh giá mặt đúng mặt sai trong việc thực hiện các biện pháp tình thế về lãi xuất, để gây tác động mạnh, tức thời, nhằm giảm nhanh tốc độ lạm phát, mà phải gánh chịu một khoản lỗ do lãi xuất cho vay bình quân thấp hơn lãi xuất tiền gửi. Ơ đây, chúng ta chỉ quan tâm đến khía cạnh sức mạnh của công cụ lãi suất mà trước đây chưa từng sử dụng trong việc điều hành chính sách tiền tệ, thì nay kết quả của việc sử dụng công cụ nàylà đã làm thay đổi lớn khối lượng tiền trong lưu thông. Tính theo con số tương đối thì, năm 1991, khối lượng tiền trong lưu thông bằng 71,88% so với năm 1990, năm 1992 bằng 64,81% so với năm 1991 và 1993bằng 34,4% so với1992. Khi nâng lãi xuất tiền gửi để rút bớt lượng tiền từ lưu thông, buộc phải nâng lãi xuất cho vay. Nhưng từng vùng kinh tế có mức phát triển khác nhau. Vì vậy, nếu như các doanh nghiệp phía nam sẵn sàng chấp nhận vay vốn với mức lãi xuất cao ( 1992 họ đã chấp nhận vay với lãi xuất 5%tháng) thì các doanh nghiệp phía bắc không chịu nổi mức lãi suất đó. Thực trạng này đã và đang làm hạn chế tác dụng của công cụ lãi suất tín dụng nếu chúng ta không tính toán đến quan hệ cung cầu về vốn trong khi hoạch định chính sách lãi suất. Mặt khác công cụ lãi suất kém tác dụng vì một lí do khác nữa.Ngân hàng Trung ương đã sử dụng các phương pháp toán số học để tính toán nhằm thực hiện nguyên tắc lãi suất cho vay phải bằng lãi suất tiền gửi cộng trượt giá cộng thêm một vài yếu tố về chi phí ngân hàng. Đồng thời khẳng định con số có tính chất ấn định trần trên và sàn dưới của lãi suất, để qui định mức lãi suất bình quân về tiền gửi và cho vay một thời kì nhất định với một khung hẹp về biên độ và không có chênh lệch lớn giữa các Ngân hàng thương mại, tuy các NH này có những điều kiện rất khác nhau. Như vậy, trong những trường hợp cung về nguồn vốn lớn hơn cầu, các Ngân hàng thương mại khó sử dụng công cụ lãi suất một cách nhạy cảm. Biên độ chênh lệch giữa "đầu vào" và "đầu ra" hẹp (khoảng 0,35%), có tác dụng giúp cho Ngân hàng Trung ương điều khiển chính sách tiền tệ thuận lợi. Bởi vì biên độ hẹp của lãi suất có thể dễ dàng điều hành chính sách tín dụng "nới lỏng" hay "hạn chế".Do các Ngân hàng thương mại dù rất khác nhau về điều kiện, về môi trường hoạt động cũng phải chịu sự khống chế của biên độ hẹp về khung lãi suất, nên vai trò cạnh tranh giữa các NH, một yếu tố cần thiết trong nền kinh tế thị trường đã không phát huy được. Để thực thi chính sách tiền tệ có hiệu quả, cần phải hoàn thiện công cụ lãi suất theo hướng tiến tới tự do hoá lãi suất, cụ thể là trong giai đoạn tới là nhằm vào sự hoàn thiện nguyên tắc xác định lãi suất cơ bản. Như chúng ta đã biết, lãi suất vừa phải đáp ứng lợi ích của người đi vay và người cho vay; đối với người cho vay thì lãi suất phải bao gồm lạm phát dự kiến, rủi ro và mức lợi nhuận mong đợi;còn người đi vay thì mức lãi suất phải nhỏ hơn mức lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy, về phía NH cần xác định chính xác mức lạm phát dự kiến, rủi ro và lợi nhuận mong đợi. Theo như hiện nay NHNN xác định lãi suất cơ bản chỉ dựa trên một sốNgân hàng thương mại là rất phiến diện, chưa phản ánh hết quan hệ cung cầu tín dụng thực của thị trường; trong khi đó, thành phố Hồ Chí Minh hiện đã có gần 100 TCTD hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. 3. ấn định tỉ giá. 3.1.Giới thiệu chung về tỉ giá hối đoái. Phạm trù tỉ giá hối đoái phản ánh quan hệ so sánh giá trị giữa đồng tiền trong nước với đồng tiền nước ngoài. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng tiền trong nước và đồng thời cũng biểu hiện tương quan cung cầu ngoại tệ. Chính sách tỉ giá là một công cụ của chính sách tiền tệ quốc gia, đã được các Ngân hàng Trung ương của các nước tiến hành theo điều kiện của mỗi nước, phù hợp với tình hình cụ thể của từng thời kì. Ơ nước ta, trong thời kì dài chuyển sang kinh tế thị trường, việc thực hiện chính sách tỉ giáđang được đi theo những tiến trình hoà hợp với xu thế chung. Tỉ giá là một yếu tố quan trọng, do đó, Ngân hàng Trung ương tìm cách can thiệp khi tỉ giá biến động, chống nguy cơ khủng hoảng tỉ giá dẫn đến khủng hoảng tiền tệ Tỷ giá hối đoái được sử dụng như một công cụ điều tiết đối với quan hệ kinh tế đối ngoại, từ đó có ảnh hưởng tới tình trạng cán cân thanh toán quốc tế, tới dự trữ ngoại tệ. Cụ thể là: Nếu tỷ giá hối đoái quá thấp sẽ hạn chế đối với xuất khẩu khuyến khích nhập khẩu, từ đó ảnh hưởng bất lợi tới cán cân thanh toán và tới dự trữ ngoại hối. Ngược lại, tỷ giá hối đoái cao sẽ tác dụng khuyến khích xuất khẩu , ảnh hưởng tới tình trạng cán cân thanh toán quốc tế và dự trữ ngoại hối. 3.2.Thực tiễn về diễn biến tỉ giá. ở nước ta, khi bắt đầu chuyển sang kinh tế thị trường, cũng là lúc lạm phát còn ở mức độ rất cao, thì vàng và ngoại tệ có sức chi phối rất mạnh đến việc điều hành chính sách tiền tệ cũng như liên quan trực tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông.Trong thời kì đó, đồng bản tệ không thể làm tròn chức phận của nó trong lưu thông, trong khi sản xuấtvà lưu thông xã hội không thể ngừng lại, nên khi chưa có được một chính sách ngoại hối thích hợp như ở Việt Nam trong những năm 1990 đầu năm 1991, buộc vàng và ngoại tệ phải xuất hiện trên vũ đài lưu thông để thực vai trò của tiền tệ như một tất yếu khách quan.Chính sách ngoại hối lúc đó chỉ đọng lại trên các văn bản và bị bật ra khỏi thựctiễn, càng không có ý nghĩa trong việcđạt được mục tiêu chính sách tiền tệ. Chỉ đến cuối năm 1992, khi mức độ lạm phát ở mức 17,5%/năm, lúc đó Việt nam mới thực sự áp dụng một tỉ giá linh hoạt với sự quản lí và can thiệp của Ngân hàng Trung ươngthông qua các trung tâm giao dịch ngoại tệ, thay thế cho hệ thống tỉ giá cứng , tỉ giá kết toán trước đây, thì khi đó việccan thiệp trên thị trường ngoại hối đã có tác dụng thực sự như một công cụ hỗ trợ cho các công cụ khác. Tỉ giá hối đoái thời kì đó đã tương đối ổn định, bước đầu qua tỉ giá mà điều khiển được khối lượng tiền trong lưu thông. Ngày nay, thị trường ngoại tệ trong một nước không thoát li thị trường quốc tế. Không một ai có thể ngăn cản được những cuộc mua bán ngoại tệ ở một NH nước mình , do một NH nước ngoài tiến hành thông qua một cuộc thương lượng qua điện thoại, điện báo , vì vậy tỉ giá linh hoạt , chính sách đúng đắn, sẽ tạo thuận lợi cho việc giao dịch và mua bán ngoại tệ thông qua các NH theo tỉ giá thị trường. "Mục tiêu chủ yếu là tạo dự trữ ngoại tệ ngày càng lớn để điều tiết thị trường ngoại hối, làm cho tỉ giá hối đoái phản ánh đúng hơn sức mua thực tế của đồng VN, tiến tới làm cho đồng tiền có khả năng chuyển đổi. Nhằm thực hiện mục tiêu nói trên, qua nhiều năm đúc rút kinh nghiệm thực tiễn của các nước có điều kiện tương tự, Việt nam đang thực hiện một chính sách tỉ giá linh hoạt có điều chỉnh theo phương pháp "tỉ giá nguội". Tỉ giá chính thức đượcNgân hàng Trung ương công bố hàng ngày.Căn cứ tỉ giá chính thức đó, các Ngân hàng thương mại qui định tỉ giá giao dịch trên cơ sở dưới phép giao động với biên độ 0,7 % so với tỉ giá chính thức. Với một chính sách và phương thức vận hành như vậy cho đến nay, thực tế đã cho thấy, nó phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. Chưa có một biến động lớn nào về kinh tế và lưu thông tiền tệ do chính sách tỉ giá gây ra. Giai đoạn từ 25/2/1999 đến nay, chính sách tỷ giá hối đoái cũng hoàn toàn giống như giai đoạn trước; tuy nhiên, điểm khác biệt ở đây là biên độ được điều chỉnh giảm từ 0,7% xuống còn 0,1% và hàng ngày, NHNN sẽ công bố tỷ giá liên NH của ngày giao dịch trước đó làm cơ sở cho các TCTD quy định tỷ giá mua và bán ngoại tệ, áp dụng để tính thuế xuất nhập khẩu.Việc thay đổi về cơ chế quản lí, điều hành tỷ giá đã tạo quyền chủ động cho các Ngân hàng thương mại trong việc tự qui định tỷ giá giữa VNĐ với các ngoại tệ khác (không phải USD) Kể từ đó đến nay, tỷ giá liên NH vẫn luôn tăng kịch trần nhưng do biên độ chỉ có 0,1%, nên tỷ giá hối đoái thường giao động từ 10-20 đ/USD. Tuy nhiên, nhiều lúc tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên NH ngày hôm sau mà NH công bố vẫn ở mức cũ, điều này chứng tỏ tỷ giá liên ngân hàng mà NH công bố vẫn là tỷ giá theo ý muốn chủ quan của Ngân hàng Trung ương. Khi phân tích quá trình thực hiện chính sách tỷ giá của VN trong những năm gần đây, tỷ giá chính thức VNđ được cho ít căn cứ vào tình hình giá cả nội địa và chỉ số lạm phát của VN. Ví dụ, năm 1990 và 1991 lạm phát cùng chỉ số 67%/ năm. Tỷ giá so với USD lại theo 2 chỉ số khác nhau là1990, 7050 VNĐ/1USD năm 1991 là 12500VNĐ/USD. Như vậy việc hoạch địnhvà thực thi chính sáchtỷ giá ở nước ta đã tính toán đếnnhiều yếu tố và cũng bị chi phối bởi nhiều mối quan hệ kinh tế và lưu thông tiền tệ. 3.3.Đánh giá. Trong thời gian tới khi mà lãi suất chưa được tự do hoá vẫn còn sự can thiệp của Nhà nước, dự trữ ngoại tệ còn quá ít, kinh tế tăng trưởng nhưng chưa vững chắc, thị trường tiền tệ chưa phát triển thì việc duy trì tỷ giá công bố và biên độ giao dịch như hiện nay vẫn là cần thiết. Hiện nay, nhu cầu về ngoại tệ còn rất cao do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong khi đó, cung ngoại tệ thì rất hạn chế. Nhiều người thừa nhận VNĐ đang bị đánh giá cao, nếu cứ để tỷ giá hối đoái theo quan hệ cung cầu thị trường sẽ tất yếu dẫn đến một sự tăng vọt không lường, nguy cơ lạm phát và khủng hoảng sẽ xảy ra. Mặt khác, trong nước đang trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhập khẩu đang chiếm tỉ trọng lớn hơn xuất khẩu. Cơ cấu xuất khẩu của nước ta chủ yếu là hàng nông sản, may mặc, giày da...những mặt hàng có hàm lượng chất xám thấp, trong khi đó, cơ cấu nhập khẩu thường là may móc thiết bị hiện đại, các nguyên liệu đầu vào... Do đó, lợi ích của việc nhập khẩu hiện nay là lớn hơn xuất khẩu, ngoài ra nếu tỉ giá tăng vọt sẽ làm cho các khoản nợ nước ngoài tăng. Chính vì vậy mà việc duy trì một tỷ giá hối đoái linh hoạt sẽ làm cho Nhà nước chủ động hơn trong việc điều hành. Với cơ chế điều hành mới từ ngày 25/2/99, tỷ giá của đồng Việt nam được hình thành trên cơ sở giao dịch trên thị trường và phản ánh tương đối khách quan sức mua của đồng Việt nam so với ngoại tệ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động hơn trong kinh doanh đồng thời vẫn đảm bảo được vai trò kiểm soát của nhà nước. Điều hành tỷ giá trong năm 1999 đã mang lại những kết quả khả quan: tỷ giá ổn định cả trên thị trường chính thức và thị trường tự do, chênh lệch tỷ giá ở hai thị trường này ngày càng được thu hẹp, doanh số giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên NH đạt ở mức khá cao đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nền kinh tế, góp phần khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. 4.Dự trữ bắt buộc. 4.1. Giới thiệu chung. Ta biết rằng, khi ngân hàng trung gian huy động vốn và cho vay sẽ có khả năng tạo ra tiền gửi mới cho hệ thống, tạo ra hệ số tín dụng. Để có thể kiểm soát được tình hình này, Ngân hàng Trung ương sử dụng cơ chế dự trữ tối thiểu bắt buộc, nhằm điều hoà khối lượng tín dụng. Số tiền dự trữ tối thiểu bắt buộc phụ thuộc 2 yếu tố:Số tiền gửi huy động được và tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tiền dự trữ bắt buộc = Tỷ lệ dự trữ bắt buộc x Tổng số tiền gửi nhận được Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là hệ số giữa số lượng phương tiện thanh toán cần vô hiệu hoá trên tổng số tiền gửi không kì hạn và có kì hạn, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho vay) của các ngân hàng trung gian. Nếu khả năng thanh toán quá lớn (Các ngân hàng trung gian đang dư thừa tiền trung ương), Ngân hàng Trung ương sẽ tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giảm khối lượng tiền tệ, giảm khả năng cung ứng tín dụng của các ngân hàng trung gian. Ngược lại, nếu khả năng thanh toán thấp, Ngân hàng Trung ương sẽ giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tăng khả năng cung ứng tín dụng của các NH trung gian. Theo thuyết tạo tiền, một khối lượng tiền gửi tăng thêm sẽ dẫn tới khả năng cung ứng tín dụng của toàn bộ hệ thống các NH trung gian tăng lên nhiều lần. Ngược lại, khi giảm đi một khối lượng tiền gửi ban đầu thì khả năng cho vay của toàn bộ hệ thống ngân hàng trung gian cũng giảm đi nhiều lần. Có thể thấy: Khả năng mở rộng tiền gửi ngân hàng = Số tiền gửi huy động ban đầu x 1 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc Thông qua công cụ dự trữ tối thiểu bắt buộc, Ngân hàng Trung ương có thể tác động cả về khối lượng và giá cả tín dụng của các ngân hàng trung gian. Từ đó tạo ra yếu tố kích thích mở rộng hoặc hạn chếcung ứng tín dụng của các ngân hàng trung gian. Ngân hàng Trung ương thường ấn định mức dự trữ bắt buộc khác nhau đối với các loại tiền gửi khác nhau. Về nguyên tắc, mức dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kì hạn ao hơn đối với tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kì hạn. Về cơ cấu dự trữ bắt buộc, bao gồm tiền gửi trên tài khoản của ngân hàng trung gian tại Ngân hàng Trung ương và tiền mặt tại quĩ của các ngân hàng trung gian. Ngoài ra, ở một số nước Ngân hàng Trung ương cũng cho phép tính vào tiền dự trữ bắt buộc cả các khoản tiền mua tín phiếu kho bạc, nhằm giảm bớt gánh nặng cho ngân hàng trung gian. ` 4.2.Qúa trình sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc ở Việt nam. Đây là một loại công cụ của chính sách tiền tệ lần đầu tiên được sử dụng ở nước ta. Tại điều 45 Pháp lệnh NHNN đã qui định "NHNN qui định tỷ lệ dự trữ bắt buộc ít nhất ở mức 10% và nhiều nhất ở mức 30% trên toàn bộ tiền gửi ở các tổ chức tín dụng. Trong trường hợp cần thiết Hội đồng quản trị NHNN quyết định tăng tỷ lệ dự trữ trên mức 30% và NHNN trả lãi cho mức tăng đó." Trên thực tế công cụ này được bắt đầu sử dụng từ cuối năm 1989, với tổng số tiền các Ngân hàng thương mại phải ký gửi hơn 100 tỷ đồng, năm 1990 là 356 tỷ đồng và các năm sau vẫn được thực hiện theo mức 10% tính trên số tiền gửi của khách hàng. Trong một thời gian dài, tỷ lệ 10% được duy trì một cách cố định, mặc dù chính sách tín dụng từ năm 1989 đến nay đã trải qua nhiều thời kì khác nhau theo chủ trương lúc thì thắt chặt, khi thì nới lỏng. Trong một năm cũng có quí , tháng tín dụng được mở rộng hơn các quí, các tháng khác. Tức là việc thực hiện bơm tiền vào lưu thông, điều khiển khối lượng tiền lưu thông luôn luôn được thực hiện theo những dự kiến nhất định, bằng những công cụ khác nhau, nhưng công cụ dự trữ bắt buộc chưa được sử dụng nhạy bén, tỷ lệ dự trữ bắt buộc vẫn luôn ở mức cố định. Đầu năm 1994 Ngân hàng Trung ương đã có quy định bổ sung: tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi không kì hạn là 13%, đối với loại tiền gửi có kì hạn là 7%, nhưng cũng là để thi hành trong một thời gian dài. Sự ổn định như vậy đã nói lên rằng, nước ta mới bước đầu sử dụng công cụ này nên chưa có khả năng điều khiển nó một cách linh hoạt theo tình hình tiền tệ luôn biến động trong lưu thông, nên chưa thực hiện được đầy đủ vai trò điều khiển khối lượng tiền lưu thông, hạn chế bội số tín dụng của các Ngân hàng thương mại, như chức năng vốn có của công cụ này. Tháng 2 năm 1999, Thống đốc NHNN đã ban hành Quy chế dự trữ bắt buộc có bổ sung thêm một số điểm cho phù hợp với Luật NHNN như sau: - Đối tượng áp dụng được mở rộng thêm quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng hợp tác, hợp tác xã tín dụng. -Qui định tiền dự trữ bắt buộc là số tiền phải gửi tại NHNN để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia thay cho qui định về cơ cấu tiền dự trữ bắt buộc gồm 70% gửi tại NHNN và 30% tiền mặt, ngân phiếu còn thời hạn thanh toán. -Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho từng loại hình TCTD, từng loại tiền gửi. -Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 0% đối với các trường hợp miễn và chưa phải dự trữ bắt buộc trước đây. -việc trả lãi tiền dự trữ bắt buộc do chính phủ quy định. Trong những năm gần đây, để thực hiện mục tiêu nới lỏng tiền tệ nhằm kích cầu, tạo đà phát triển kinh tế, NHNN thường điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Điều này đã góp phần nhất định vào việc mở rộng tín dụng, giảm chi phí hoạt độngvà tăng khả năng sinh lời của các TCTD. Tuy nhiên, do những khó khăn về cơ cấu kinh tế nên tác dụng tích cực của công cụ này còn chưa biểu hiện rõ nét. 4.3.Đánh giá. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có tính chất hai mặt: -Mặt tích cực là khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc càng cao thì mức độ an toàn trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại càng cao. -Mặt tiêu cực là công cụ này sẽ kém hiệu lực khi tỷ lệ này cao, đồng thời dẫn đến hệ số sử dụng vốn của các Ngân hàng thương mại quá thấp, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chính sách lãi suất, thậm chí bất lợi cho kinh doanh và huy động vốn của các Ngân hàng thương mại, đình đốn tín dụng.Vì khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc quá cao sẽ làm các Ngân hàng thương mại mất hẳn khả năng tạo tiền, một khả năng cần phải có của ngân hàng. Một tỷ lệ dự trữ bắt buộc hợp lí sẽ làm cho các Ngân hàng thương mại có thể thực hiện được việc tạo tiền, một hoạt động cần thiết cho công việc kinh doanh, sản xuất cũng như hạn chế được khả năng tạo tiền khi cần. Tỷ lệ đặt ở mức phù hợp khi sử dụng nó có thể thực hiện được việc "rung chuyển" mạnh bội số mức cung tiền tệ. Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 35% sẽ làm cho công cụ này giảm đi sức mạnh của nó. Dự trữ bắt buộc hiện nay được áp dụng có tính chất cào bằng cho tất cả các loại tiền gửi có kì hạn dưới 12 tháng cũng như không kì hạn, trong khi đó rủi ro về khả năng thanh toán thường chỉ rơi vào tiền gửi không kì hạn. Chính vì vậy Ngân hàng Nhà ưnước cần linh hoạt hơn trong việc qui định loại tiền gửi cần phải dự trữ bắt buộc, chẳng hạn như muốn mở rộng M1 thì có thể qui định chỉ có tiền gửi không kì hạn mới dự trữ bắt buộc hoặc dự trữ bắt buộc đối với các khoản tiền gửi dưới 3 tháng,6 tháng...chứ không nhất thiết muốn mở rộng tiền gửi là giảm dự trữ bắt buộc. 5.Tái chiết khấu. 5.1. Giới thiệu chung. Khi Ngân hàng Trung ương thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng, một trong các hoạt động mà nó thực hiện là việc cấp tín dụng cho các ngân hàng và thông qua đó điều tiết khối lượng tiền cung ứng. Mục đích tín dụng của Ngân hàng Trung ương là cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế theo từng thời kì, đồng thời thông qua sử dụng tín dụng và lãi suất tín dụng để điều tiết lượng tiền cung ứng theo yêu cầu, mục tiêu của chính sách tiền tệ. Việc cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp tái cấp vốn, tức là tín dụng được cấp dưới các hình thức: Tái chiết khấu các thương phiếu, trái phiếu ngắn hạn và tín dụng có thế chấp bằng các thương phiếu, trái phiếu ngắn hạn mà các chứng từ nợ đó có khả năng hoán chuyển thành tiền theo hạn định. Việc tái chiết khấu được Ngân hàng Trung ương thực hiện bằng cách mua lại các giấy tờ có giá đã chiết khấu chưa đến hạn thanh toán của Ngân hàng thương mại. Đối tượng tín dụng của Ngân hàng Trung ương là các NH kinh doanh. Để được vay tín dụng tại Ngân hàng Trung ương, các NH phải có đủ các điều kiện theo qui định của Ngân hàng Trung ương. Tuy nhiên những yêu cầu tín dụng của các NH có được thoả mãn hay không còn phụ thuộc vào mức kế hoạch cung ứng tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. Để thực hiện chức năng kiểm soát, điều tiết Ms của mình, Ngân hàng Trung ương ra các quy định về cho vay chiết khấu đối với các TCTD như quy định về lãi suất, loại chứng khoán, thời hạn chiết khấu... Thông thường Ngân hàng Trung ương quy định 2 chỉ tiêu: hạn mức tái chiết khấu và lãi suất tái chiết khấu. Lãi suất tái chiết khấu tác động vào giá tín dụng nên khi lãi suất tái chiết khấu tăng sẽ tác động vào mặt bằng giá vốn đầu vào của Ngân hàng thương mại, lãi suất nền kinh tế sẽ tăng theo, dẫn đến thu hẹp khả năng cho vay của Ngân hàng thương mại, dẫn đến hệ số tạo tiền giảm và ngược lại. Việc tăng lãi suất tái chiết khấu cũng gây hiệu ứng thông báo, nhà kinh doanh sẽ biết tác động của Ngân hàng Trung ương thông qua chính sách tái chiết khấu tới thị trường. Người đầu tư theo dõi sự thông báo lãi suất của Ngân hàng Trung ương để dự tính được xu hướng thay đổi lãi suất sẽ tìm biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn ảnh hưởng làm thay đổi lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay đồng thời tác động vào giá chứng khoán. Đi kèm với lãi suất TCK Ngân hàng Trung ương còn qui định hạn mức TCK tức là qui định mức cho vay tối đa trên cơ sở lãi suất đã ấn định để gây ảnh hưởng về lượng vốn mà các TCTD vay của Ngân hàng Trung ương. Các NH trung gian tìm đến Ngân hàng Trung ương xin tái cấp vốn bằng cách xin tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác mà mình đã chiết khấu trước đó.Tái cấp vốn là đầu mối phát sinh tiền trung ương, tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Vì vậy nghiệp vụ tái chiêt khấu thường được Ngân hàng Trung ương xem xét giải quyết rất thận trọng trong phạm vi chỉ tiêu tín dụng cho nền kinh tế và hạn mức tín dụng đã phân phối cho từng Ngân hàng thương mại còn chưa sử dụng tính đến thời điểm tái chiết khấu. Nghiệp vụ và biện pháp tác động nhằm thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương rất đa dạng phong phú. Chẳng hạn, tuỳ theo yêu cầu mở rộng hoặc thu hẹp tín dụng (và qua đó tăng hay giảm lượng tiền cung ứng) Ngân hàng Trung ương có thể hạ hoặc tăng lãi suất tái chiết khấu. Hoặc thông qua biện pháp kiểm soát (tín dụng chọn lọc), Ngân hàng Trung ương tác động vào cơ cấu tín dụng của các ngân hàng trung gian. Cũng có thể, Ngân hàng Trung ương thay đổi tỷ lệ giá trị ( phần tái cấp vốn) trên thương phiếu, tuỳ theo yêu cầu mở rộng hay thu hẹp khối tiền. 5.2.Thực tiễn. Lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu là một công cụ khá nhạy cảm trong quá trình điều hành khối lượng tiền tệ và đã được Nhà nước cho phép sử dụng tại điều 41 và 43 Pháp lệnh Ngân hàng Nhà ưnước Việt nam. Nhưng trong giai đoạn trước 3/1997, do đang thừa hưởng tiềm thế của một nền lưu thông, trong đó không được phép tồn tại tín dụng thương mại, vì vậy không có các công cụ truyền thống trực tiếp để thực hiện việc chiết khấu và tái chiết khấu như các loại kì phiếu và thương phiếu...Do đó việc tái chiết khấu đang được thực hiện dựa trên căn cứ các chứng từ do Ngân hàng thương mại đã cho vay, nhưng chưa đến hạn các doanh nghiệp phải trả nợ. Căn cứ vào các chứng từ đó, NHNN cho các Ngân hàng thương mại vay lại những khoản nợ mà các Ngân hàng thương mại đã cho các doanh nghiệp vay. Bên cạnh phương pháp tái chiết khấu kiểu này,Ngân hàng Trung ương còn thực hiện phương thức mua lại các dự án đã được các ngân hàng thẩm định trước khi đầu tư, nhưng Ngân hàng thương mại không đủ nguồn vốn. Do chưa có những công cụ nghiệp vụ để thực hiện công cụ lãi suất tái chiết khấu, nên Ngân hàng Nhà ưnước Việt nam đã sử dụng hình thức cho vay cầm cố. Hình thức này được thực hiện bằng cách: các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng đem một số loại giấy tờ có giá trị đến Ngân hàng Trung ương làm vật thế chấp để vay tiền. Loại tín dụng này nhằm giải quyết khó khăn tài chính tạm thời cho các Ngân hàng thương mại. Hình thức mua lại các dự án đầu tư và tái cấp vốn theo hình thức cho vay thế chấp cùng với việc phối hợp với công cụ lãi suất tín dụng trong thời gian khá dài cũng đã giúp Ngân hàng Trung ương đưa tỉ lệ lạm phát ở nước ta từ mức hai con số ở các năm trước xuống mức một con số ở năm 1993. Tuy nhiên thực tế thời gian qua việc cho vay cầm cố và mua lại các dự án chưa thực hiên được nhiều. Trong giai đoạn trước 3-1997 NHNN Việt nam quy định lãi suất lãi suất tái cấp vốn theo lãi suất cho vay trên từng khế ước xin tái cấp vốn, chính v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35145.doc
Tài liệu liên quan