LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 2
1.1 Quá trình hình thành và đặc thù của ngân hàng trung ương 2
1.1.1 Quá trình hình thành Ngân Hàng Trung Ương 2
1.1.2 Đặc thù của Ngân Hàng Trung Ương 4
1.2 Chức năng của ngân hàng trung ương 6
1.2.1 Phát hành giấy bạc ngân hàng và điều tiết lượng tiền cung ứng 6
1.2.2 Là ngân hàng của các ngân hàng: 7
1.2.3 Là ngân hàng của nhà nước: 9
1.3 Tổng quan về chính sách tiền tệ 10
1.3.1 Vị trí và nhiệm vụ của chính sách tiền tệ: 10
1.3.2 Khái niệm và đặc trưng của chính sách tiền tệ 11
1.3.3 Mục tiêu và nội dung của chính sách tiền tệ: 13
CHƯƠNG 2: CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 20
2.1 Công cụ tái cấp vốn: 20
2.1.1 Cơ chế tác động: 20
2.1.2 Ưu, nhược điểm 21
2.2 Công cụ tỉ lệ dự trữ bắt buộc 22
2.2.1 Cơ chế tác động 22
2.2.2 Ưu, nhược điểm 23
2.3 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở 23
2.3.1 Cơ chế tác động 24
2.3.2 Ưu, nhược điểm 25
2.4 Công cụ lãi suất tín dụng 25
2.4.1 Cơ chế tác động 26
2.5 Công cụ hạn mức tín dụng 28
2.5.1 Cơ chế tác động 28
2.5.2 Ưu, nhược điểm 28
CHƯƠNG 3: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 30
3.1 Những đổi mới về điều hành chính sách tiền tệ 30
3.1.1 Mục tiêu 30
3.1.2 Điều hành và quyết định chính sách tiền tệ quốc gia 30
3.1.3 Sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ 31
3.2 Định hướng 38
3.2.1 Đối với công cụ nghiệp vụ thị trường mở 38
3.2.2 Đối với công cụ dự trữ bắt buộc 38
3.2.3 Đối với công cụ tái cấp vốn 39
3.2.4 Đối với công cụ hỗ trợ như lãi suất, tỉ giá 39
KẾT LUẬN 40
42 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 3957 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân Hàng Trung Ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
..Giá trị đối nội và đối ngoại của đồng bản tệ có quan hệ mật thiết với nhau. Muốn ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế - xã hội, nhà nước phải có biện pháp ổn định giá cả hàng hóa, dịch vụ trong nước và ổn định tỉ giá hối đoái. Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền cũng không đồng nghĩa với tỉ lệ lạm phát bằng không. Bởi lẽ, trong thực tế, để giảm được tỉ lệ lạm phát thì thường phải chấp nhận một tỉ lệ thất nghiệp gia tăng nhất định nào đó. Trong các chính sách kinh tê vĩ mô của nhà nước, không thể có được một sự ổn định giá trị đồng tiền, khi nền kinh tế đang có một tỉ lệ thất nghiệp quá cao.
Tạo việc làm: Việc làm cho người lao động luôn là một vần đề quan trọng đối với bất kì quốc gia nào trên thế giới. Nếu có thất nghiệp sẽ đẩy người lao động và gia đình của họ đến kho khăn về tài chính, và sẽ là nguyên nhân gây nên tệ nạn xa hội, không những thế, cón dẫn đến việc lãng phí tài nguyên như nhà máy thiết bị... và làm cho GDP giảm xuống. Thông qua chính sách tiền tệ có thể tác động đến việc làm, tỉ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế. Nếu chính sách tiền tệ của NHTW nhằm mở rộng lượng tiền cung ứng sẽ tạo điều kiện mở rộng đầu tư sản xuất, các doanh nghiệp và nền kinh tế cần nhiều lao động hơn, công ăn việc làm cao, tỉ lệ thất nghiệp thấp. Ngược lại, cung ứng tiền tệ giảm sẽ dẫn đến thu hẹp các hoạt động sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp và nhà nước cần ít lao động hơn, công ăn việc làm giảm, tỉ lệ thất nghiệp tăng. Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu công ăn việc làm cao không đồng nghĩa với mức tỉ lệ thất nghiệp bằng không mà ở mức tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên. Trong thực tế, một số người thất nghiệp là có lợi cho nền kinh tế, đó là khi người lao động quyết định đi tìm một công việc khác tốt hơn, phù hợp hơn, thì người lao động đó bị thất nghiệp trong thời gian đi tìm việc làm. Hoặc một số người lao động tự nguyện rời bỏ công việc của mình đẻ theo đuổi các hoạt động khác như học tập, du lịch...và khi họ quyết định gia nhập trở lại thị trường lao động, họ sẽ mất thời gian để tìm được công việc như ý. Mặt khác, thông thường để có một tỉ lệ thất nghiệp thấp thì phải chấp nhận một tỉ lệ lạm phát gia tăng nhất định, hai mục tiêu này luôn triệt tiêu nhau trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ.
Tăng trưởng kinh tế: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn gắn với mục tiêu việc làm cao. Chính sách tiền tệ có thể tác động đồng thời đến 2 mục tiêu này. Khi cung ứng tiền tệ tăng lên, trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm sẽ khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh, nhà nước và doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng lao động nhiều hơn, làm tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi cung tiền tệ giảm, trong ngắn hạn lãi suất tăng sẽ hạn chế đầu tư, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà nước và doanh nghiệp se cần ít lao động hơn, làm cho mức sản lượng giảm, tăng trưởng kinh tế chậm lại.
Quan hệ giữa các mục tiêu: Nhìn tổng quát, thì các mục tiêu của chính sách tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Điêu đó cho thấy, trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ không thể tuyệt đối hóa một mục tiêu nào, không thể giải quyết các mục tiêu độc lập trên tầm vĩ mô. Tuy nhiên, có nơi có lúc, trong thời gian ngắn có thể xảy ra sự xung đột, thậm chí triệt tiêu lân nhau giữa các mục tiêu. Điều thường gặp và dễ thấy nhất đó là sự mâu thuẫn giữa tỉ lệ lạm phát và thất nghiệp. Tuy vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau, song nhìn chung, mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng bản tệ, trên cơ sở đó để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Thực tiễn các nước phát triển theo cơ chế thị trường cho thấy, vận hành chính sách tiền tệ, để đạt được các mục tiêu của nó cần có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Trước hết, phải phối hợp với chinh sách tài khóa trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. Vì mục tiêu của chính sách tài khóa là nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của chính phủ, hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và sử dụng nhân lực ở mức tiềm năng. Song điều đó còn phụ thuộc vào tình hình thu chi của ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước vững vàng là cơ sở cho quan trọng bậc nhất cho giá trị đồng bản tệ được ổn định. Ngược lại, sự thiếu hụt ngân sách nhà nước, bất kể được bù đắp bằng con đường nào đều trực tiếp, gián tiếp làm cho đồng tiền mất ổn định. Thông thường chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ đều phát huy tác dụng của nó thông qua ảnh hưởng của nó với tổng cầu. Trong khi đó, theo cơ chế thị trường thì tiền lương và giá cả lại được quyết định bởi các yếu tố của thị trường. Trong thực tế, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có thể có thể làm tăng nhu cầu, giảm thất nghiệp, nhưng sẽ gia tăng lạm phát. Giải quyết mâu thuẫn này, cần có sự phối hợp chặt chẽ của chính sách phân phối thu nhập trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. Đối với các nước kém và đang phát triển, thường bội chi ngân sách nhà nước lớn và kéo dài, cán cân thanh toàn thâm hụt, tăng trưởng kinh tế chưa cao...ở đó đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ với chính sách kinh tế đối ngoại trong quá trinh thực thi chính sách tiền tệ. Đó phảI là một chính sách kinh tế mở, hướng xuất khẩu, mặt khác phải tranh thủ tối đa trình độ khoa học công nghệ và kĩ thuật và mọi nguồn vốn từ bên ngoài. Trong đó đặc biệt là các quan hệ với các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế như Ngân Hàng Thế Giới, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân Hàng Phát Triển Châu á...
-Nội dung của chính sách tiên tệ: Chính sách tiền tệ là một bộ phận quan trọng cấu thành chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước. Do vậy việc xây dựng và thực thi chính sách tài chính tiền tệ phải phục vụ đắc lực cho quá trình phát triển nền kinh tế Quốc Gia cả ở trước mắt và tương lai. Về thực chất, chính sách tiền tệ hướng vào điều chỉnh mối quan hệ giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, giữa tiền và hàng trên 4 lĩnh vực quan trọng nhất: kiểm soát lượng tiền cung ứng, kiểm soát hoạt động tín dụng trong nền kinh tế, kiểm soát ngoại hối, kiểm soát việc tạm ứng cho ngân sách nhà nước.
a)Kiếm soát cung ứng tiền tệ và điều hòa lưu thông tiền tệ: Việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ phải khống chế sao cho lượng tiền tệ cung ứng trong một thời kì nhất định phải cân đối với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa và vòng quay tiền tệ trong thời kì đó. Tuy nhiên, khối lượng tiền tệ tăng thêm hay giảm đi chỉ là tiền định lượng. Điều quan trọng là NHTW phải theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, của giá cả và tỉ giá hối đoái, khuynh hướng chi tiêu của dân chúng, về mức độ hoạt động thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế...Từ đó điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền sao cho khối lượng tiền tệ tăng hay giảm mà không làm tăng giá cả hoặc thiếu phương tiên thanh toán cho nền kinh tế.
b)Kiểm soát hoạt động tín dụng: Khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mai cung ứng cho nền kinh tế chủ yếu từ 3 nguồn sau: vốn tự có của ngân hàng, vốn huy động từ các nguồn nhàn rỗi trong nền kinh tế, vay tái cấp vốn tại NHTW. Khi ngân hàng cấp phát tín dụng sẽ diễn ra quá trình tạo tiền gửi và phát sinh bội số tín dụng. Để điều tiết tín dụng và khối lượng tiên tệ, NHTW sẽ sử dụng một số công cụ như lãi suất, tỉ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở...Từ khối lượng tiền tệ có thể cung ứng thêm cho nền kinh tế, NHTW sẽ giành chủ yếu cho hoạt động tín dụng ngắn hạn phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế, có dự tính đến tỉ lệ lạm phát. Hoạt động tín dụng này chỉ xuất hiện khi nền kinh tế thực sự có nhu cầu. Khi các ngân hàng thương mại thiếu phương tiện thanh toán thì họ mới đến NHTW xin vay táI cấp vốn. NHTW luôn đóng vai trò là chủ nợ và là người cho vay cuối cùng đối với hệ thống ngân hàng thương mại, nhằm kiểm soát chất lượng và số lượng tín dụng, kiểm soát các nguồn tiền gửi của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.
c)Kiểm soát ngoại hối: Ngoại hối bao gồm ngoại tệ(thường là các ngoại tệ mạnh), vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ và các công cụ tiền tệ khác. Để ổn định giá trị đồng bản tệ, NHTW thực hiện các giao dịch về tài chính - tiền tệ và sử dụng một số chính sách để tác động đến khối lượng tiền tệ trên các phương diện sau:
Xây dựng và quản lí dự trữ ngoại hối của nhà nước nhằm đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế và bảo toàn dự trữ ngoại hối.
Lập và theo dõi diễn biến cán cân thanh toán quốc tế.
Thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức và điều tiết thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và tham gia vào thị trường ngoại hối quốc tế.
ổn định tỉ giá hối đoái để kìm giữ lạm phát, ổn định tỉ giá trong nước.
Quan hệ với các NHTW khác, với các tổ chức tài chính – tiền tệ quốc tế... nhằm tìm kiếm nguồn tài trợ có điều kiện ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài và thu hút kiều hối.
Tổ chức quản lí nợ nước ngoài.
d)Chính sách với Ngân sách Nhà Nước: Để có thể đạt được tác dụng như mong muốn,chính sách tiền tệ cần xử lí mối quan hệ của nó với chính sách tài khóa, trước hết là chính sách thu chi ngân sách. Cách xử sự của chính sách tiền tệ với ngân sách tùy thuộc vào tình trạng cán cân ngân sách có cân bằng không, ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực và mức độ như thế nào vào lưu thông tiền tệ.
Trường hợp ngân sách thăng bằng: Khi chính phủ thu ngân sách có nghĩa là đã lấy ra khỏi lưu thông một số lượng tiền tệ và song song với việc đó là chính phủ chi số tiền đó vào nền kinh tế. Khối lượng tiền tệ sẽ không thay đổi vì nó được tăng giảm với một lượng như nhau. Tuy nhiên, nó có thể làm thay đổi kết cấu giữa tiêu dùng và tiết kiệm. Trong khi chính phủ dùng số tiền thu được để cấp phát cho những người có thu nhập thấp thì số tiêu thụ chung lại tăng lên. Nếu chính phủ dùng số chi ngân sách để đầu tư thì đầu tư nhà nước tăng lên, đầu tư tư nhân giảm đi nhưng tổng đầu tư chung không thay đổi. Cần lưu ý 2 trường hợp sau:
Chính sách tiền tệ chống suy thoái: Ngân sách thăng bằng, có thể dịch chuyển thu nhập tiền tệ theo hướng góp phần chống suy thoái bằng cách làm tăng mức tiêu thụ.
Chính sách tiền tệ chống lạm phát: Ngân sách thăng bằng, vẫn có thể tác dụng ngược với chính sách tiền tệ, làm tăng vật giá.
Cho nên, ngay trong trường hợp ngân sách thăng bằng, cơ cấu thu và chi ngân sách không cùng chiều vẫn có khả năng gây mất cân đối cục bộ trong quan hệ tiên - hàng.
Trường hợp ngân sách thiếu hụt: Lúc này, chính phủ phải đi vay để bù đắp cho sự thiếu hụt ngân sách.Tác động của nó thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào chính phủ vay ở đâu. Có 4 nguồn chỉnh phủ có thể vay để bù đắp thiếu hụt ngân sách: vay dân cư, vay nước ngoài, vay hệ thống tín dụng và tài chính trong nước, vay NHTW. Trường hợp vay NHTW thì tiền sẽ được phát hành thêm, làm tăng khối lượng tiền trong nền kinh tế. Khi chính phủ vay nước ngoài, thường là bằng vàng hoặc ngoại tệ thì phải kí quỹ số vay được tại NHTW để rút tiền mặt ra chi tiêu, làm khối lượng tiền tệ trong lưu thông tăng lên. Như vậy, cả hai trường hợp đều làm tăng khối lượng tiền tệ, gây áp lực lạm phát tiềm tàng. Do vậy, cách tốt nhất là phấn đấu một ngân sách thăng bằng,không nên bội chi để bù đắp chi phí hành chính tối thiểu mà ngân sách phải phấn đấu thu để trang trải các nhu cầu chi tiêu thường xuyên. Chi cho đầu tư, nếu thiếu thì phải tài trợ bằng cách phát hành tráI phiếu chính phủ để vay nhân dân, các ngân hàng thương mại trên thị trường tiền tệ(ngắn hạn) và thị trường vốn( dài hạn).
Trường hợp ngân sách thặng dư: Đây là trường hợp rất đặc biệt vì nó rút bớt khối lượng tiền tệ dư thừa, tác động có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ.
CHƯƠNG 2: CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Trên cơ sở dự án chính sách tiền tệ đã được phê chuẩn và điều kiện thực tế của nền kinh tế, NHTW sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để điều tiết lượng tiền cung ứng. Nghĩa là NHTW sẽ thực hiện việc đưa tiền vào lưu thông hay rút tiền từ lưu thông về nếu lượng tiền trong lưu thông là thiếu hay dư thừa. Các công cụ mà NHTW thường hay sử dụng là: Tái cấp vốn, Lãi suất, Tỉ giá hối đoái, Dự trữ bắt buộc, Nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ khác.
2.1 Công cụ tái cấp vốn:
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHTW đối với các NHTM. Khi cấp một khoản tín dụng cho NHTM, một mặt, NHTW tăng lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo cơ sở cho các NHTM tạo bút tệ cũng như khai thông được năng lực thanh toán cho họ.
Tuỳ từng quốc gia mà công cụ này được áp dụng dưới các hình thức khác nhau. Đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, tái cấp vốn được thực hiện dưới hình thức tái chiết khấu. Vì vậy đối với các quốc gia này, công cụ nay được gọi là tái chiết khấu. Tại nhiều quốc gia khác ( trong đó có Việt Nam) , hoạt động tái cấp vốn của NHTW đối với các NHTM được thực hiện không chỉ được thực hiện dưới hình thức tái chiết khấu mà còn dưới nhiều hình thức khác nữa, thí dụ:
Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Cho vay dưới hình thức cầm cố, thế chấp các chứng từ có giá ngắn hạn.
Cho vay trong thanh toán bù trừ
Cho vay theo hình thức chỉ định.
Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng.
2.1.1 Cơ chế tác động:
Với công cụ này NHTW sẽ điều chỉnh tăng giảm lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu phụ thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ là thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, từ đó làm giảm hay tăng lượng tiền trong lưu thông.
Khi NHTW thấy rằng cần tăng thêm tiền cho lưu thông, họ sẽ hạ thấp lãi suất tái cấp vốn xuống. Điều này sẽ khuyến khích các nhtm đến NHTW để vay vì giá cả tín dụng giảm, mặt khác khối lượng tín dụng được cấp tăng lên. Ngược lại, khi NHTW cần giảm khối lượng tiền trong lưu thông, họ sẽ tăng lãi suất tái cấp vốn lên, Lúc này, một mạt làm tăng chi phí tín dụng nhằm hạn chế các NHTM có ý định vay, mặt khác làm giảm khối lượng tín dụng được cấp xuống nếu NHTM vẫn quyết định vay.
Bên cạnh tác động thông qua lãi suất tái cấp vốn, NHTW còn sử dụng hạn mức tái cấp vốn để tác động trực tiếp về mặt lượng đối với dự trữ của hệ thống NHTM, cụ thể : khi NHTW tăng tổng hạn mức tái cấp vốn, điều đó có nghĩa là các NHTM có thể được vay ở NHTW nhiều hơn. Điều này sẽ làm tăng vốn khả dụng cho nền kinh tế, tăng khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng. Những tác động trên sẽ hoàn toàn ngược lại nếu NHTW giảm hạn mức tái cấp vốn xuống.
Ưu, nhược điểm
Ưu điểm:
Qua công cụ tái cấp vốn, NHTW là người cho vay cuối cùng, kiểm tra chất lượng tín dụng của các NHTM, bơm tiền ra lưu thông theo mức độ đã được khống chế để kìm chế lạm phát hoặc kích thích tăng trường kinh tế. đối với các NHTM, với tư cách là người đi vay để cho vay, khi vốn khả dụng bị đe doạ thì NHTW là chỗ dựa, là cứu tinh của họ. Bởi vì với số tiền NHTW cung ứng, họ có khả năng điều tiết được vốn khả dụng, phục hồi khả năng sẵn sàng thanh toán.
Nhược điểm :
NHTW không thể nắm chắc được kết quả của sự điều tiết. Trong trường hợp này, quyền lực của NHTW và NHTM hầu như là ngang nhau. NHTW có quyền cho vay và để khuyến khích vay, họ hạ lãi suất tái cấp vốn xuống. Nhưng NHTM lại có quyền quyết định vay hoặc không vay và nếu NHTM không vay thì mục đích điều tiết của công cụ tái cấp vốn không thực hiện được.
2.2 Công cụ tỉ lệ dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lương phương tiện thanh toán vần vo hiệu hoá trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán và cho vay của các NHTM. Nếu khả năng thanh toán quá lớn ( NHTM đang dư thừa tiền) thì việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giảm quy mô tín dụng từ đó giảm khối lượng tiền tệ. Ngược lại , nếu khả năng thanh toán thấp thì giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tăng khả năng cho vay của các NHTM( bành trướng khối tiền tệ).
2.2.1 Cơ chế tác động
Thông qua công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW tác động đến khối lượng và giá cả tín dụng của các NHTM từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng và khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM.
Về số lượng: Tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc có nghĩa là giải phóng hay phong toả , cho hoặc không cho các NHTM sử dụng khối lượng tiền tệ trung ương bị coi là thiếu hay dư thừa, cũng tức là thắt chặt hay nới lỏng khả năng tạo tiền của các NHTM.
Về chi phí: Giảm hay tăng dự trữ bắt buộc ( dự trữ bắt buộc không được hưởng lãi, nếu có thì thường là rất thấp) sẽ làm giảm hoặc tăng chi phí tín dụng của các NHTM.
Tăng hay giảm số lượng tín dụng kép: do tăng , giảm chi phí, tăng giảm lãi suất cho vay, dẫn đến giảm hoặc tăng dung lượng tín dụng.
Công cụ này được áp dụng lần đầu tiên ở Mỹ(1913) Nhằm đảm bảo vốn khả dụng tối ưu cho hệ thống NHTM, để các NHTM này có thể thoả mãn nhu cầu rút tiền mặt từ các khoản tiền gửi. Dự trữ bắt buộc nhanh chóng được áp dụng với vai trò là một công cụ của chính sách tiền tệ. Sau đó nhiều nước khác như Đức , Anh, Pháp... cũng áp dụng công cụ này vì tính hiệu quả của nó. Việt Nam sử dụng công cụ này từ năm 1992.
Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc do Thống đốc NHNN quyết định tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của nền kinh tế. Theo Luật NHNN, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình tổ chức tín dụng và từng loại tiền gửi với mức từ 0% đến 20% tổng số dư tiền gửi tại mỗi tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ.
2.2.2 Ưu, nhược điểm
Ưu điểm:
Tác động đầy quyền lực đến lượng tiền cung ứng.
Tạo nên mối quan hệ máy móc giữa tạo tiền do NHTM thực hiện và nhu cầu tái cấp vốn tại NHTW.
Tăng cường quyền lực cho NHTW vì tuỳ theo mục đích của chính sách tiền tệ và tuỳ theo mức vốn khả dụng của các NHTM, NHTW có quyền điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc và các NHTM có trách nhiệm thực hiện.
Tôn trọng sự cạnh tranh giữ các ngân hàng vì nó áp dụng không phân biệt mọi ngân hàng trong toàn hệ thống ngân hàng.
Đảm bảo khả năng thanh toán cho NHTM giúp NHTM tránh được rủi ro do mất khả năng thanh toán.
Nhược điểm:
Mặc dù có thể đạt những thay đổi trong cung ứng tiền tệ bằng những thay đổi nhỏ trong dự trữ bắt buộc nhưng lại khá tốn kém về phí quản lý.
Việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với một ngân hàng có dự trữ vượt mức thấp.
Việc không ngừng thay đổi dự trữ bắt buộc cũng gây ra tình trạng kém ổn định cho các ngân hàng và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của những ngân hang đó khó khăn hơn.
2.3 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động NHTW mua, bán giấy tờ có giá chủ yếu là ngắn hạn ( Tín phiếu Kho bạc, Tín phiếu NHTW, Chứng chỉ tiền gửi...) trên thị trường tiền tệ, điều hoà cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến cung ứng tín dụng của các ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ , cụ thể:
Bằng cách bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, NHTW có thể thu hẹp tín dụng, giảm khối lượng tiền tệ theo ý muốn để ngăn chặn lạm phát.
Ngược lại, khi NHTW mua các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, tăng khối lượng tiền tệ, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng thanh khoản của các NHTM.
Công cụ thị trường mở đã được các nước có nền kinh tế tiên tiến như Anh, Mỹ, Thuỵ Sĩ áp dụng từ những năm đầu thế kỷ 20. Cho đến nay nó đã trở thành công cụ quan trọng bậc nhất để điều hoà lưu thông tiền tệ nhiều quốc gia.
2.3.1 Cơ chế tác động
a)Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng.
Hành vi mua, bán các loại chứng khoán trên thị trường mở của NHTW có khả năng ảnh hưởng ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các ngân hàng thương mại thông qua ảnh hưởng đến tiền gửi của các ngân hàng tại NHTW và tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Khi NHTW bán chứng khoán cho các đối tác, NHTW có thể làm giảm đi một khối lượng dự trữ tương ứng (giả thiết các yếu tố khác không đổi), dù người mua là ngân hàng thương mại hay khách hàng của nó, khi tiền thanh toán cho lượng chứng khoán này được ghi nợ vào tài khoản của ngân hàng tại NHTW. Nếu người mua là khách hàng của ngân hàng thương mại thì số dư tiền gửi của người đó sẽ giảm. Sự giảm về dự trữ sẽ dẫn đến sự giảm về khả năng cho vay của hệ thống ngân hàng và đồng thời cũng làm giảm khối lượng tiền cung ứng theo bội số, được đo lường bằng số nhân tiền. Hành vi mua chứng khoán của NHTW sẽ có tác động ngược lại.
b) NVTTM tác động vào lãi suất thị trường
Hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường mở của NHTW co ảnh hưởng gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua hai con đường:
Thứ nhất: Khi dự trữ của các ngân hàng bị ảnh hưởng, nó có tác động đến cung cầu vốn NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Từ chỗ cung cầu tiền trung ương thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền Ngân hàng trung ương thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này, thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động arbitrage về lãi suất, sẽ truyền tác động của nó đến các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Tại một mức lãi suất thị trường xác định, tổng cầu AD nền kinh tế sẽ quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai: Việc mua bán chứng khoán sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu về loại chứng khoán đó trên thị trường mở và giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi, tỷ lẹ sinh lời của chúng cũng thay đổi.Nếu đó là loại chứng khoán chiếm tỷ trong lớn trong giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường ,tổng cầu AD và sản lượng.
2.3.2 Ưu, nhược điểm
Công cụ nghiệp vụ thị trường mơ đã thể hiện tính ưu việt của nó so với các công cụ khác của chính sách tiền tệ:
- NHTW có thể chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ từ đó tác động trực tiếp vào khả năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng.
- Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ nào. Mong muốn mức thay đổi của dự trữ hoặc cơ số tiền tệ dẫu lớn hay nhỏ thế nào,NHTW cũng có thể thực hiện được bằng cách mua, bán một khối lượng lớn, nhỏ chứng khoán.
- NHTW dễ dàng đảo ngược tình thế khi có một quyết đinh sai lầm về việc sử dụng công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. Thí dụ, nếu NHTW thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh nó mua quá nhiều giấy tờ có giá trên thị trường mở thì nó có thể sử chữa ngay được bằng cách tiến hanh nghiệp vụ bán trên thị trường mở.
- Việc thực hiện có thể được hoàn thành nhanh chóng, không gây nên những chậm trễ về mặt hành chính. Khi muốn thay đổi cơ số tiền hoặc dự trữ, NHTW có thể quyết định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch.
2.4 Công cụ lãi suất tín dụng
Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ trong việc điều khiển mức cung ứng tiền cho nền kinh tế. Sở dĩ nói rằng lãi suất là công cụ gián tiếp, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Nhưng sự tăng , giảm lãi suất có thể kích thích sản xuất hoặc kìm hãm sản xuất. Vì vậy, nó là một công cụ rất lợi hại , có sức phản công ghê gớm. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trường , chính sách và giải pháp cụ thê cua NHTW nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
2.4.1 Cơ chế tác động
a)Cơ chế điều hành gián tiếp: thông qua cơ chế tái cấp vốn ( chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay cầm cố chứng từ có giá...) của NHTW đối với các tổ chức tín dụng, NHTW thực hiện quan lý gián tiếp lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế.
Cơ chế này được thực hiện theo nguyên tắc: Trong điều hành chính sách lãi suất, NHTW chỉ công bố mức lãi suất áp dụng đối với các khoan cho vay tái chít khấu hoặc cho vay cầm cố chứng từ có giá của mình đối với các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thẻ theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ do tổ chức tín dụng ấn định, dựa trên cơ sơ cung cầu về vốn và sự cạnh tranh trên thị trường.
Khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ từng giai đoạn, NHTW sẽ thực hiện thông qua việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu của mình đối với các tổ chức tín dụng. Từ đó tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Và cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ ngân hàng . Và cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với các chủ thể trong nền kinh tế.
Cơ chế điều hành lãi suất này được áp dụng phổ biến đối với các nền kinh tế có hệ thống tài chính phát triển. Cơ chế này cũng trở lên linh hoạt hơn, khi bên cạnh các loại lãi suất trên, NHTW chấp nhận lãi suất do thị trường hình thành và tác động vào lãi suất này để duy trì ở mức mong muốn như lãi suất Repo của ngân hàng Anh, ngân hàng liên bang Đức, NHTW Châu Âu, lãi suất tiền gửi liên bang của Cục dự trữ liên bang Mỹ...
b)Cơ chế điều hành trực tiếp:
Thông qua các hình thức quản lý lãi suất của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế , như quy định các mức lãi suất cụ thể về tiền gửi, cho vay, khung lãi suất , trần lãi suất cho vay, biên độ chênh lệch loã suất bình quân... Thực chất là NHTW quy định mức lãi suất cho vay tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong phạm vi lãi suất được phép, các tổ chức tín dụng được quyền ấn định lãi suất kinh doanh phù hợp. Khi có các thay đổi về kinh tề vĩ mô, NHTw có thể xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa hợp lý. Nhìn chung, trong các nền kinh tế phát triển, lãi suất ngày càng được t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6198.doc