MỤC LỤC
I _ LỜI NÓI ĐẦU 1
II_NỘI DUNG
A_Lý Thuyết 3
1. Thị trường chứng khoán 3
2. Công ty chứng khoán 3
a. Khái niệm và phân loại công ty chứng khoán¬¬¬¬ 4
b. Vai trò của công ty chứng khoán 5
c. Thành lập công ty chứng khoán 7
d. Nguyên tắc hoạt động của công ty chứng khoán 10
e. Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán 11
3. Các nghiệp vụ của công ty chứng khoán 11
a. Các nghiệp vụ chính 11
b. Các nghiệp vụ phụ trợ 16
B_Thực Tiễn 17
1. Đặc điểm của các công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay 17
2. Thực trạng của các công ty chứng khoán hiện na 18
a. Ảnh hưởng của luật chứng khoán tới việc thành lập các công ty chứng khoán hiện nay 18
b. Các công ty nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam 19
3. Giải pháp để phát triển các công ty chứng khoán Việt Nam 20
III_KẾT LUẬN 26
VI_TÀI LIỆU THAM KHẢO
VII_ PHỤ LỤC
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1463 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các công ty chứng khoán trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g ty chứng khoán là trung gian trong giao dịch mua bán cổ phiếu cho nên nó đòi hỏi phải có đầy đủ cơ sở vật chất để thực hiện các lệnh trong giao dịch. Hiện nay nước ta có trung tâm giao dịch thực hiện khớp lệnh thông qua hệ thống máy tính công nghệ cao để khớp lệnh. Vấn đề khớp lệnh đã được máy tính làm thay. Tuy nhiên để đưa được lệnh của nhà đầu tư từ công ty chứng khoán về sàn giao dịch để khớp lệnh thì phải thực hiện thông qua hệ thống mạng lưới điện thoại. Điều này làm hạn chế các rủi ro trong quá trình giao dịch bằng mạng Internet, khắc phục khả năng tấn công của tin tặc vào hệ thống mạng máy tính đánh cắp dữ liệu, phá hoại các giao dịch. Sử dụng đường truyền điện thoại để khớp lệnh đòi hỏi phải hệ thống cơ sở vật chất hiện đại để tăng khả năng khớp lệnh cho nhà đầu tư.
Hoàn thành xong các lựa chọn, điều kiện các nhà sáng lập phải xin cấp phép của Uỷ ban chứng khoán nhà nước. Hồ sơ thông thường bao gồm các tài liệu sau : đơn xin cấp phép, giấy phép thành lập doanh nghiệp, phương án nhân sự, phưong án hoạt động, điều lệ công ty, các tài liệu minh chứng về vốn, tình hình sản xuất kinh doanh, cơ sở vật chất và trình độ chuyên môn của đội ngũ quản lý và các giấy tờ khác theo quy định. Từ sau khi nộp đơn cho đến khi nhận được cấp phép hoạt động nhà đầu tư phải đợi chờ khoảng ít nhất là hai đến ba tháng. Và công việc cuối cùng của công ty chứng khoán sau khi được thành lập đó là công bố thông tin trên đại chúng theo quy định của luật.
d_Nguyên tắc hoạt động của công ty chứng khoán.
Hoạt động trên thị trường chứng khoán rất là phức tạp, có rất nhiều điều hạn chế đối với công ty chứng khoán trong quá trình kinh doanh. Điều đó đòi hỏi các công ty chứng khoán hoạt động theo những nguyêng tắc nhất định để khắc phục những sai sót, khiếm khuyết. Để khắc phục điều đó công ty chứng khoán hoạt động dựa trên hai nguyên tắc cơ bản đó là nhóm nguyên tắc đạo đức và nhóm nguyên tắc mang tính tài chính.
* Trước hết nói về nhóm nguyên tắc đạo đức, công ty chứng khoán là trung gian trong giao dịch của khách hàng, và do đó công ty phải đảm bảo giao dịch trung thực và công bằng vì lợi ích của khách hàng. Đồng thời có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng về các thông tin liên quan đến khách hàng như thông tin về tài khoản, khi chưa được sự cho phép của khách hàng hoặc có chỉ thị của các cơ quan quản lý nhà nước. Công ty chứng khoán khi hoạt động tư vấn yêu cầu phải có các thông tin về mức độ rủi ro của hoạt động, và khả năng sinh lời của nó. Để đảm bảo cho khách hàng không bị lừa gạt trong các dịch vụ của công ty. Các công ty chứng khoán không được phép nhận bất kì một khoản hoa hồng thêm nào khác ngoài các khoản hoa hồng thông thường. Đồng thời với việc tư vấn đó là công ty chứng khoán không được dùng các thông tin nội bộ để giao dịch phục vụ cho lợi ích của mình, một số công ty ngoài các hoạt động như môi giới, tư vấn...còn có hoạt động tự doanh là việc công ty chứng khoán thực hiện các giao dịch cho mình để thu lợi nhuận từ kinh doanh chứng khoán. Điều đó dẫn đến các bất đồng về quyền lợi trong giao dịch giữa khách hàng và công ty chứng khoán. Theo nguyên tắc đạo đức thì các công ty chứng khoán sẽ phải ưu tiên thực hiện lệnh cho khách hàng trước rồi mới đến lượt mình. Công ty chứng khoán cũng là một nhà kinh doanh do đó nó không được phép tiến hành các hoạt động gây ra sự hiểu lầm về giá cả của khách hàng từ đó kiếm lời. Tuy nhiên, hoạt động tự doanh không phải là hoạt động chính của công ty do đó hoạt động phá hoại thị trường của các công ty sẽ rất ít hoặc không có. Bản thân các công ty chứng khoán đều muốn mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho khách hàng của mình, có như vậy công ty mới thu hút được sự chú ý của khách hàng. Hiện nay một số nơi các công ty chứng khoán còn đóng góp thành một quỹ để đề phòng rủi ro mất khả năng thanh toán của công ty cho khách hàng, góp phần bảo vệ lợi ích cho nhà đẩu tư. Thông qua đó tạo ra một cảm giác an toàn cho khách hàng, từ đó thu hút được nhiều nhà đẩu tư mở tài khoản giao dịch tại công ty.
* Nhóm nguyên tắc mang tính tài chính có tác dụng làm tách biệt các quan hệ về tài sản giữa công ty với tài sản của khách hàng. Các công ty chứng khoán để có thể thực hiện được điều trên trước hết cần phải bảo đảm được các yêu cầu về vốn, cơ cấu vốn và nguyên tắc hạch toán, báo cáo kết quả kinh doanh theo quy định của uỷ ban chứng khoán nhà nước. Đồng thời phải bảo đảm các nguồn tài chính trong cam kết kinh doanh với khách hàng. Trong đó công ty chứng khoán không được dùng tiền của khách hàng gửi trong tài khoản tại công ty. Ngoại trừ các trường hợp phục vụ kinh doanh của khách hàng. Các công ty cũng không được phép dùng các chứng khoán cùa khách hàng để đi thế chấp vay tiền phục vụ cho các hoạt động của công ty, điều đó rất nguy hiểm cho công ty và khách hàng, và cả tổ chức mà công ty thế chấp chứng khoán. Nhưng công ty có thể thực hiện các hoạt động trên nếu được sự đồng ý của khách hàng bằng các văn bản.
e_Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán:
Các công ty chứng khoán tổ chức cơ cấu của công ty theo các loại hình nghiệp vụ chứng khoán mà công ty thực hiện và theo quy mô hoạt động kinh đoanh chứng khoán. Tuy nhiên các công ty chứng khoán đều có đặc điểm chung về cơ cấu tổ chức là gồm có hai khối : nghiệp vụ và phụ trợ. Trong đó khối nghiệp vụ là khối thực hiện các giao dịch kinh doanh và dịch vụ chứng khoán. Khối này đem lại thu nhập cho công ty bằng cách đáp ứng các nhu cầu của khách hàng, đồng thời cung cấp các sản phẩm dịch vụ đáp ứng các nhu cầu của khách hàng. Tương ứng với mỗi nghiệp vụ trong khối này sẽ là một phòng, ban của công ty như phòng môi giới, phòng tư vấn, phòng tự doanh, phòng quản lý doanh mục đầu tư, phòng ký quỹ, phòng bảo lãnh phát hành. Căn cứ vào quy mô thị trường cũng như sự chú trọng vào các nghiệp vụ mà công ty sẽ chuyên sâu theo từng lĩnh vực nghiệp vụ nhất định.
Khối phụ trợ là khối không thể thiếu được trong các công ty chứng khoán, mặc dù nó không thực hiện trực tiếp các nghiệp vụ chứng khoán cũng như không tạo ra thu nhập. Nhưng nó lại khối điều hành các hoạt động của công ty, nó vận hành mang tính chất hỗ trợ khối nghiệp vụ. Khối này bao gồm các phòng ban như : phòng nghiên cứu phát triển, phân tích và thông tin thị trường, kế hoạch công ty ...Do xu hướng phát triển và hội nhập mà công ty chứng khoán có thêm các phòng ban về mạng lưới, chi nhánh, văn phòng, đại lý. Các công ty ngoài việc phát triển thị trường và quy mô mà các công ty còn có xu hướng mở rộng thêm các hoạt động của ngành khác như bảo hiểm, ngân hàng.
3. Các nghiệp vụ của công ty chứng khoán :
Tương tự như cơ cấu tổ chức của công ty, các nghiệp vụ của công ty cũng được phân thành hai nhóm là nhóm nghiệp vụ chính và nhóm nghiệp vụ phụ trợ.
a. Các nghiệp vụ chính:
- Nghiệp vụ môi giới chứng khoán :
Đây là một hoạt động phổ biến nhất ở các công ty chứng khoán, gần như công ty chứng khoán nào cũng có hoạt động này. Môi giới chứng khoán là việc công ty chứng khoán đứng làm trung gian hoặc đại diện mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Thông qua công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng giao dịch mua bán chứng khoán tại các sàn giao dịch hoặc trên thị trường OTC, và khách hàng sẽ phải chịu trách nhiệm đối với các kết quả giao dịch đó. Thông qua hoạt động môi giới, công ty chứng khoán sẽ cung cấp cho khách hàng các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán và nhà đầu tư mua chứng khoán với nhau. Trong một số trường hợp nhất định hoạt động môi giới còn giúp cho nhà đầu tư lấy lại tinh thần, tỉnh táo, sáng suốt trong việc đưa ra quyết định. Thực hiện nghiệp vụ môi giới này rất là khó khăn và vất vả, các nhân viên môi giới phải vừa có kiến thức tinh thông về thị trường chứng khoán, vừa cần phải có các kỹ năng giao tiếp tốt. Nhân viên môi giới phải có kiến thức về chứng khoán giỏi, giúp cho khách hàng có được thông tin chính xác và hoàn hảo từ đó đưa ra được quyết định chính xác. Nhưng nhân viên môi giới ngoài kiến thức ra cũng cần có các tiêu chuẩn nhất định về phẩm chất, tư cách đạo đức, kỹ năng mẫn cán trong công việc và sự công tâm cung cấp cho khách hàng dịch vụ tốt nhất.
- Nghiệp vụ tự doanh :
Tự doanh là việc công ty chứng khoán tiến hành giao dịch mua bán chứng khoán cho chính mình. Các hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán nhà nước hoặc trên thị trường OTC. Tại một số thị trường thực hiện cơ chế khớp giá, thì hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Khi đó công ty chứng khoán sẽ là nhà tạo lập thị trường và hoạt động mua bán chứng khoán với các khách hàng để hưởng trênh lệch giá cả của hoạt động mua bán chứng khoán. Đây là điều khác với hoạt động môi giới chứng khoán công ty chứng khoán không nhận được hoa hồng mà thu được lợi nhuận từ hoạt động mua bán chứng khoán để thu được chênh lệch. Hoạt động này công ty chứng khoán phải tự bỏ tiền, còn đối hoạt động môi giới công ty chứng khoán không phải bỏ tiền mua bán chứng khoán. Tuy nhiên công ty thực hiện hoạt động này vì mục đích lợi nhuận từ chính hoạt động mua bán chứng khoán của mình, đồng thời còn vì mục đích nhằm làm ổn định thị trường hạn chế các biến động trên thị trường sẽ dẫn đến những tác động tệ hại. Nhưng mà hoạt động này gắn với lợi nhuận trực tiếp của công ty do đó có thể dẫn đến những tiêu cực từ phía công ty chứng khoán trong việc thực hiên các lệnh giao dịch. Do hoạt động tự doanh song hành cùng với hoạt động môi giới, và công ty chứng khoán là đầu mối có khả năng tiếp cận thông tin nhanh chóng và kịp thời .Từ đó các công ty chứng khoán có được những dự báo thích hợp về thị trường từ đó có được các quyết định chính xác Như vậy các công ty chứng khoán sẽ cạnh tranh với khách hàng trong quá trình thực hiện các giao dịch.Do đó cần phải có biện pháp bảo đảm quyền lợi của khách hàng trong các giao dịch. Hiện nay các công ty chứng khoán khi khớp lệnh đều ưu tiên thực hiện các lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của công ty trong hoạt động tự doanh. Điều đó đã trở thành luật và một số nơi thì hoạt động này yêu cầu phải thành lập hai loại công ty chứng khoán riêng biệt là công ty môi giới và công ty tự doanh. Điều này nhằm đáp ứng các vấn đề về tính minh bạch của công ty chứng khoán trong hoạt động của mình, sự minh bạch này được thể hiện qua sự tách biệt về mặt vốn, tài sản, chứng khoán giữa khách hàng và công ty. Thông qua hoạt động tự doanh công ty chứng khoán tạo lập thị trường cho các chứng khoán mới bằng cách mua bán chứng khoán trên thị trường cấp hai. Trên thế giới, các nhà tạo lập thị trường cho các chứng khoán dựa trên cơ chế giao dịch trên thị trường OTC. Trên thị trường OTC các nhà tạo lập thị trường liên tục báo giá để mua bán chứng khoán giữa các nhà đầu tư khác nhau. Họ duy trì liên tục thị trường này trên 24 giờ để phục vụ nhu cầu mua bán cùa khách hàng và của các công ty với nhau.
Nghiệp vụ tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện theo hai hình thức giao dịch trực tiếp và giao dịch gián tiếp:
~ Giao dịch trực tiếp là giao dịch tay đôi giữa hai công ty chứng khoán, công ty chứng khoán với khách hàng thông qua thương lượng. Hoạt động này chủ yếu thực hiện các giao dịch đối với các chứng khoán trên thị trường OTC.
~ Giao dịch gián tiếp, công ty chứng khoán giao dịch giống như mọi nhà đầu tư trên thị trường tập trung, để khớp lệnh. Lệnh của họ được thực hiện bất cứ lúc nào mà họ cũng không xác định được trước. Đây là hoạt động của nghiệp vụ tự doanh các công ty chứng khoán không tự thực hiện các lệnh của họ theo giá thoả thuận, yêu cầu của họ. Còn đối với hoạt động giao dịch trực tiếp của nghiệp vụ tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện dựa trên nguyên tắc thương lượng trên thị trường OTC.
- Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành :
Để thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoàn ra công chúng thì tổ chức phát hành phải thông qua công ty chứng khoán để bảo lãnh, tư vấn phát hành, phân phối chứng khoán ra công chúng. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công chúng là hoạt động mang lại thu nhập nhiều nhất, nó chiếm tỉ trọng cao nhất trong tổng doanh thu. Nghiệp vụ bảo lãnh chứng khoán là việc các công ty chứng khoán giúp cho tổ chức phát hành hoàn thành các thủ tục yêu cầu để được phát hành chứng khoán. Công ty chứng khoán sau khi bảo lãnh cho tổ chức phát hành, họ cũng thực hiện phân phối chứng khoán đó hoặc bán lại cho một công ty chứng khoán khác để họ phân phối chứng khoán. Trong giai đoạn đầu khi phân phối các công ty chứng khoán có vai trò là một nhà tạo lập thị trường, làm bình ổn giá cả. Hiện nay để bảo lãnh phát hành cho các tổ chức phát hành chứng khoán thì ngoài các công ty chứng khoán, còn có các tổ chức trung gían tài chính khác như ngân hàng, bảo hiểm. Do quy mô phát hành lớn mà một công ty chứng khoán thì không thể thực hiện được với quy mô vốn như hiện nay. Tuy nhiên các ngân hàng sẽ đứng ra bảo lãnh phát hành sau đó họ sẽ phân phối lại cho các công ty chứng khoán tự doanh hoặc các thành viên khác. Quy trình để một công ty chứng khoán thực hiện bảo lãnh phát hành cho một tổ chức gồm có các bước như sau. Tổ chức phát hành ban đầu đề nghị các công ty chứng khoán bảo lãnh phát hành. Sau đó công ty chứng khoán sẽ ký hợp đồng tư vấn quản lý để tư vấn cho tổ chức phát hành về loại chứng khoán, số lượng, định giá chứng khoán, phương thức phát hành chứng khoán ra công chúng đầu tư. Để được bảo lãnh phát hành tổ chức bảo lãnh phải đệ trình phương án bảo lãnh lên uỷ ban chứng khoán nhà nước. Sau khi được uỷ ban chứng khoán chấp thuận thì các công ty chứng khoán sẽ ký kết trực tiếp hoặc lập ra nghiệp đoàn bảo lãnh để ký kết với tổ chức phát hành. Uỷ ban cấp giấy phép phát hành cho công ty chứng khoán khi giấy phép có hiệu lực thì công ty chứng khoán hay nghiệp đoàn bảo lãnh mới được phép phân phối chứng khoán. Các hình thức phân phối chứng khoán chủ yếu là:
* Bán riêng cho các tổ chức đầu tư tập thể, các quỹ đầu tư, các quỹ bảo hiểm, các quỹ hưu trí.
* Bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hoặc các nhà đầu tư có liên quan trực tiếp tới tổ chức phát hành.
* Bán rộng rãi ra công chúng.
Khi đến ngày ký kết trên hợp đồng công ty chứng khoán phải thanh toán cho tổ chức phát hành tiền bán chứng khoán. Nhưng tuỳ thuộc theo cách thức bảo lãnh giữa công ty chứng khoán và tổ chức phát hành mà khi kết thúc hợp đồng công ty chứng khoán phải thực hiện các nhiệm vụ nhất. Như bảo lãnh theo phưong thức cố gắng cao nhất, cam kết chắc chắn, theo phương thức dự phòng, bán tất cả hoặc không, phương thức tối thiểu hoặc tối đa.
- Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư :
Đây là nghiệp vụ quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào chứng khoán thông qua các danh mục đầu tư nhằm mục đích sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở bảo toàn và tăng lợi nhuận. Đây là một nghiệp vụ tư vấn mang tính chất tổng hợp có kèm đầu tư. Các khách hàng uỷ thác cho công ty trong việc quyết định các hoạt động đẩu tư dựa trên chiến lược đầu tư và những nguyên tắc mà khách hàng đặt ra như lợi nhuận kỳ vọng, mức độ rủi ro... Quy trình của nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư có thể được khái quát bao gồm các bước :
* Xúc tiến tìm hiểu và nhận quản lý là công ty chứng khoán và khách hàng tiếp xúc và tìm hiểu về khả năng tài chính, chuyên môn từ đó đưa ra các yêu cầu về quản lý vốn uỷ thác.
* Ký hợp đồng quản lý là việc công ty ký hợp đồng quản lý với khách hàng theo yêu cầu, nội dung về vốn, thời gian uỷ thác, mục tiêu đầu tư, quyền và trách nhiệm của các bên,phí quản lý danh mục đầu tư.
* Thực hiện hợp đồng quản lý, công ty chứng khoán thực hiện đầu tư theo uỷ thác của khách hàng như trong cam kết đã ghi nhận và phải đảm bảo các nguyên tắc về quản lý vốn và tài sản giữa khách hàng và công ty.
* Kết thúc hợp đồng quản lý thì khách hàng có nghĩa vụ thanh toán các chi phí quản lý theo hợp đồng ký kết và xử lý các trường hợp khi công ty chứng khoán bị ngưng hoạt động, giải thể hay phá sản công ty.
- Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán :
Nghiệp vụ này cũng giống như các hoạt động tư vấn khác, tư vấn đầu tư chứng khoán là việc công ty chứng khoán sử dụng trình độ chuyên môn của mình trong lĩnh vực chứng khoán để đưa ra các lời khuyên, phân tích cho các nhà đầu tư. Trước các tình huống phức tạp nhà đầu tư đang đắn đo, họ có thể sử dụng đến hoạt động tư vấn của công ty để hỗ trợ trước khi đưa ra được quyết định cuối cùng. Hoạt động tư vấn chứng khoán được phân loại theo các tiêu thức sau :
* Thứ nhất, theo hình thức của hoạt động tư vấn, thì gồm hai loại là tư vấn trực tiếp và tư vấn gián tiếp. Tư vấn trực tiếp là hoạt động tư vấn của công ty thực hiện trực tiếp thông qua tiếp xúc, qua các phương tiện như thư từ điện thoại. Tư vấn gián tiếp thông qua sách báo của công ty phát hành, hoạt động này chỉ đem lại cho khách hàng các thông tin để từ đó khách hàng phải tự tổng hợp phân tích và tự đưa ra quyết định, như vậy các quyết định sẽ không có được sự đúng đắn.
* Theo mức độ uỷ quyền của tư vấn thì hoạt động được phân thành tư vấn gợi ý và tư vấn ủy quyền. Trong đó tư vấn gợi ý là người tư vấn chỉ gợi ý cho khách hàng về phương thức đầu tư hợp lý còn quyền quyết định đầu tư là của khách hàng. Tư vấn uỷ quyền là người tư vấn vừa tư vấn, vừa có quyền quyết định theo phân cấp uỷ quyền của khách hàng.
* Theo đối tượng của hoạt động tư vấn thì bao gồm tư vấn phát hành và tư vấn đầu tư. Tư vấn phát hành là các hoạt động tư vấn cho các tổ chức có nhu cầu phát hành về cách thức phát hành, hình thức phát hành, xây dựng hồ sơ, bản báo cáo bạch... Tư vấn đầu tư là tư vấn cho các khách hàng đầu tư chứng khoán trên thị trường thứ cấp về giá, thời gian, định hướng đầu tư vào các loại chứng khoán...
Hoạt động tư vấn là việc nhà tư vấn sử dụng kiến thức của mình để kinh doanh dem lại lợi nhuận cho khách hàng. Nhà tư vấn đưa ra lời khuyên để hỗ trợ nhà đầu tư trong các quyết định đầu tư, sau các quyết định thì nhà đầu tư sẽ thu về được một khoản lợi nhuận hoặc là sẽ mất hết. Còn nhà tư vấn thì họ không phải chịu tổn thất như nhà đầu tư, do đó nó đòi hỏi hoạt động tư vấn phải tuân thủ một số nguyên tắc để đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư. Nguyên tắc thứ nhất là các các nhà tư vấn sẽ không đảm bảo chắc chắn rằng về giá chứng khoán. Vì giá chứng khoán không phải là cố định vĩnh viễn, nó luôn thay đổi theo những biến động của thị trường. Do đó việc các chứng khoán có thể tăng, giảm giá bất cứ lúc nào mà chính các nhà tư vấn cũng không thể tính trước được. Như vậy mà đòi hỏi nguyên tắc tiếp theo là phải luôn nhắc nhở khách hàng rằng lời tư vấn chỉ có cơ sở phân tích các yếu tố lý thuyết và những diễn biến trong quá khứ. Vì vậy khôngthể hoàn toàn chính xác và khách hàng chính là người đưa ra quyết định cuối cùng trong việc sử dụng các thông tin của nhà tư vấn để đầu tư.Nhưng nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm về những thiệt hại kinh tế do lời khuyên đưa ra. Do nhà tư vấn không phải chịu trách nhiệm gì trong việc đưa ra lời khuyên, do vậy họ không được phép dụ dỗ, mời chào khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào đó. Những lời phân tích đòi hỏi phải dựa trên các cơ sở khách quan, tổng hợp khoa học, lôgic các vấn đề nghiên cứu.
b. Các nghiệp vụ phụ trợ:
Các nghiệp vụ phụ trợ là những hoạt động hỗ trợ cho các nghiệp vụ chính của công ty chứng khoán. Các nghiệp vụ phụ trợ giúp cho các nghiệp vụ chính được thực hiện tốt hơn, an toàn hơn.Các nghiệp vụ phụ trợ là các nghiệp vụ như :lưu ký chứng khoán, quản lý thu nhập của khách hàng, các nghiệp vụ tín dụng, các nghiệp vụ quản lý quỹ.
- Lưu ký chứng khoán là việc lưư giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán. Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng khoán, bởi vì giao dịch trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các công ty chứng khoán hay ký gửi chứng khoán. Khi thực hiện lưu ký chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng khoán sẽ nhận được các khoản phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán .
- Quản lý thu nhập của khách hàng hay quản lý cổ tức. Xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng khoán sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
- Nghiệp vụ tín dụng phát sinh ở các thị trường chứng khoán phát triển, bên cạnh các nghiệp vụ môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, công ty chứng khoán còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán. Thông qua đó khách hàng có thể thực hiện các hoạt động mua bán khống hoặc cho khách hàng thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ. Cho vay ký quỹ là hình thức cấp tín dụng của công ty chứng khoán cho khách hàng mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do công ty chứng khoán ứng trước tiền thanh toán. Đến kỳ hạn thoả thuận, khách hàng phải hoàn trả đủ cả gốc vay, cùng với lãi cho công ty chứng khoán. Trường hợp khách hàng không trả được nợ thì công ty chứng khoán sẽ phát mại số chứng khoán đã mua để thu hồi nợ. Còn đối với hoạt động mua bán khống hiện nay các nước đều cấm do nó dẫn đến tình trạng các khách hàng sẽ thâu tóm toàn bộ thị trường bằng việc vay vốn mua bán khống. Thực tế các khách hàng không phải trả một khoản nào để mua chứng khoán, và ngân hàng sẽ là người bỏ tiền ra. Khi chứng khoán đó mất giá thì sẽ làm ảnh hưởng đến công ty chứng khoán cho vay và đến thị trường tài chính.
- Nghiệp vụ quản lý quỹ là hoạt động mà các công ty chứng khoán cử đại diện của mình để quản lý quỹ và sử dụng vốn và tài sản của quỹ để đầu tư chứng khoán. Công ty chứng khoán được thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu tư. Ở một số thị trường chứng khoán, pháp luật về thị trường chứng khoán đó cho phép công ty chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư. Nghiệp vụ này làm tăng thêm sản phẩm cho thị trường chứng khoán. Thông qua việc mua chứng chỉ quỹ của công ty chứng khoán thì nhà đầu tư cũng thu được một khoản lợi nhuận từ việc sở hữu các chứng chỉ quỹ.
B_ Thực Tiễn :
1. Đặc điểm của các công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay :
Công ty chứng khoán Việt Nam đã trải qua 6 năm phát triển và trưởng thành cùng với thị trường chứng khoán. Chúng ta đă được những thành tựu rất khả quan so giai đoạn ban đầu khi thị trường mới hình thành. Ban đầu khi thị trường mới được hình thành thì các công ty chứng khoán vẫn còn nhỏ bé về quy mô và chất lượng hoạt động. Công ty chứng khoán ban đầu có quy mô vốn rất nhỏ mà hoạt động kinh doanh chứng khoán là hoạt động tài chính phức tạp, kỹ năng chuyên sâu và có tác động mang tính dây chuyền trên bình diện rộng. Đòi hỏi công ty chứng khoán phải có quy mô vốn lớn và có đội ngũ cán bộ quản lý, nhân viên điều hành, tác nghiệp có kiến thức tốt về quản lý vốn đầu tư, phân tích, phán đoán diễn biến tình hình thị trường. Điều kiện của Việt Nam lúc bấy giờ thị trường vốn chưa phát triển cho nên chúng ta đã cho phép các ngân hàng thương mại và công ty tài chính, bảo hiểm, các tổng công ty mạnh tham gia vào thị trường chứng khoán. Nhưng việc các tổ chức tài chính tham gia vào thị trường chứng khoán sẽ gây ra những rủi ro cho thị trường, do đó mà các tổ chức trên không được tham gia trực tiếp vào thị trường mà phải tổ chức dưới hình thức công ty chứng khoán độc lập. Thời kỳ đàu chúng ta có rất ít công ty chứng khoán nhưng đến nay đã có 15 công ty chứng khoán đã có giấy phép hoạt động. Các công ty chứng khoán hiện nay của nước ta là:
Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Công ty cổ phần chứng khoán Sài gòn
Công ty chứng khoán Đệ Nhất
Công ty TNHH chứng khoán Thăng Long
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Á Châu
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng công thương Việt Nam
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam
Công ty cổ phần chứng khoán Mê Kông
Công ty cổ phần chứng khoán TP Hồ Chí Minh
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Đông Á
Công ty cổ phần chứng khoán Hải phòng
Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần nhà HN
Công ty cổ phần chứng khoán Đại Việt
Các công ty chứng khoán ngày nay đã phát triển và trưởng thành hơn trước rất nhiều, và các công ty mới thành lập thì càng ngày càng có quy mô lớn hơn. Xu thế đó là hoàn toàn hợp lý với bối cảnh hội nhập WTO hiện nay. Và chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào sự phát triển của thị trường chứng khoán của chúng ta.
2. Thực trạng của các công ty chứng khoán hiện nay :
a. Ảnh hưởng của Luật Chứng Khoán tới việc thành lập các công ty chứng khoán :
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới đòi hỏi chúng ta phải đổi mới hệ thống của mình để có thể cạch tranh và đương đầu với các tổ chức nước ngoài. Thị trường chứng khoán cũng không phải là đối tượng ngoài lề của các cuộc đổi mới, và đạo luật mới quy định về các vấn đề của thị trường chứng khoán như chào bán chứng khoán, công ty đại chúng, thị trường giao dịch c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36109.doc