Đề tài Các giải pháp cho công tác triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện tại Việt Nam

BHXH tự nguyện được triển khai sẽ đem lại nhiều lợi ích. Bởi hiện nay, nhiều người vẫn mang nặng tâm lý muốn có chế độ ổn định khi hết tuổi lao động (lương hưu). Vì vậy, một khi mọi người lao động đều được hưởng lương hưu, chắc chắn, áp lực về công việc trong khối doanh nghiệp Nhà nước sẽ được giảm đáng kể. Người lao động cũng sẽ yên tâm làm việc ở mọi thành phần kinh tế, kể cả kinh tế hộ gia đình. Riêng đối với BHXH Việt Nam, khi triển khai BHXH tự nguyện, quỹ BHXH tự nguyện sẽ có nguồn thu rất lớn và là nguồn tài chính quan trọng, bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đất nước.

Hơn nữa việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) sẽ tác động mạnh mẽ vào lĩnh vực lao động, việc làm. Đặc biệt, nhu cầu về việc làm của thị trường lao động sẽ tăng lên do nhiều người tự chuyển đổi hoặc bắt buộc phải chuyển đổi vị trí làm việc. Yếu tố này sẽ ảnh hưởng tới đối tượng tham gia BHXH, BHYT và từ đó ảnh hưởng tới quỹ BHXH cũng như việc giải quyết chính sách. Và để lấp được khoảng trống này, chỉ có BHXH tự nguyện mới có thể đáp ứng và bảo vệ quyền lợi người lao động khi họ thất nghiệp hoặc tạm thời mất việc làm. Vì vậy, sự ra đời của BHXH tự nguyện hoàn toàn thích ứng với quá trình hội nhập.

Cũng theo một nghiên cứu về khả năng tham gia BHXH tự nguyện của người dân trong quá trình xây dựng Luật, Viện Khoa học LĐTB&XH, Bộ LĐTB&XH, đã đưa ra con số 41% số người trong độ tuổi lao động thuộc khu vực phi chính thức cho biết, họ sẽ tham gia BHXH tự nguyện. Đây là con số có nhiều ý nghĩa, bởi nếu làm tốt công tác tuyên truyền, cộng với hiệu ứng dây chuyền, BHXH tự nguyện ở nước ta sẽ thành công trong triển khai.

 

doc17 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2472 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Các giải pháp cho công tác triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
): Mức đóng hàng tháng = Tỷ lệ phần trăm đóng BHXH tự nguyện x Mức thu nhập tháng người tham gia BHXH tự nguyện lựa chọn Trong đó: -) Mức thu nhập tháng người tham gia BHXH tự nguyện lựa chọn thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung, cao nhất bằng 20 tháng lương tối thiểu chung. + Lmin: mức lương tối thiểu chung; + m = 0, 1, 2, … n -) Tỷ lệ phần trăm đóng BHXH tự nguyện: Từ tháng 01/2008 đến tháng 12/2009 bằng 16%; từ tháng 01/2010 đến tháng 12/2011 bằng 18%; từ tháng 01/2012 đến tháng 12/2013 bằng 20% và từ tháng 01/2014 trở đi bằng 22%. 4.3. Đăng ký lại phương thức đóng BHXH tự nguyện: - Người tham gia BHXH tự nguyện được đăng ký lại phương thức đóng hoặc mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng BHXH với tổ chức BHXH - Thời hạn đăng ký: sau 6 tháng kể từ lần đăng ký trước. 4.4. Tạm dừng đóng BHXH tự nguyện: - Người tham gia BHXH tự nguyện được coi là tạm dừng đóng khi không tiếp tục đóng BHXH và không có yêu cầu nhận BHXH một lần, - Trường hợp nếu tiếp tục đóng BHXH tự nguyện thì phải đăng ký lại phương thức đóng và mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng BHXH với tổ chức BHXH ít nhất là sau 3 tháng kể từ tháng người tham gia BHXH tự nguyện dừng đóng. 5. Các chế độ BHXH tự nguyện: 5.1. Chế độ hưu trí: 5.1.1. Điều kiện hưởng lương hưu hàng tháng: Người tham gia BHXH tự nguyện được hưởng lương hưu hàng tháng thuộc một trong các trường hợp sau: a) Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên (kể cả thời gian đã đóng BHXH bắt buộc được bảo lưu, nếu có). b) Trường hợp người tham gia BHXH tự nguyện mà trước đó đã có tổng thời gian đóng BHXH bắt buộc đang được bảo lưu đủ 20 năm trở lên, trong đó có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên thì được hưởng lương hưu khi nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi c) Nếu trước đó thuộc đối tượng quy định tại Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 hoặc nam từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi, nữ từ đủ 45 tuổi đến đủ 50 tuổi nếu trước đó thuộc đối tượng quy định tại Nghị định số 68/2007/NĐ-CP ngày 19/4/2007. d) Trường hợp người tham gia BHXH tự nguyện mà trước đó đã có tổng thời gian đóng BHXH bắt buộc đang được bảo lưu đủ 20 năm trở lên, bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên, được hưởng lương hưu với mức thấp hơn khi nam đủ 50 tuổi trở lên, nữ đủ 45 tuổi trở lên hoặc có đủ 15 năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm (không kể tuổi đời). e) Trường hợp nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi nhưng thời gian đóng BHXH còn thiếu không quá 5 năm mới đủ 20 năm, kể cả những người đã có từ đủ 15 năm đóng BHXH bắt buộc trở lên mà chưa nhận BHXH một lần có nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện thì được đóng tiếp cho đến khi đủ 20 năm để hưởng lương hưu. Việc xác định điều kiện về thời gian đóng BHXH để tính hưởng chế độ hưu trí thì một năm phải tính đủ 12 tháng. 5.1.2. Mức lương hưu hàng tháng: a) Tỷ lệ hưởng lương hưu hàng tháng: Tỷ lệ hưởng lương hưu hàng tháng được tính bằng 45% tương ứng với 15 năm đóng BHXH, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH thì tính thêm 2% đối với nam, 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%. Khi tính lương hưu hàng tháng, trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, BHXH một lần và tiền tuất một lần, nếu thời gian đóng BHXH có tháng lẻ dưới 3 tháng thì không tính; từ đủ 3 tháng đến đủ 6 tháng tính là nửa năm; từ trên 6 tháng đến 12 tháng tính là một năm. Trường hợp người hưởng lương hưu quy định tại trường hợp d thuộc các trường hợp có điều kiện hưởng lương hưu hàng tháng, tỷ lệ lương hưu được tính như nêu trên nhưng cứ mỗi năm (đủ 12 tháng) nghỉ hưu trước tuổi theo quy định bị giảm đi 1% mức lương hưu (mốc tuổi nghỉ hưu làm căn cứ để tính giảm tỷ lệ lương hưu của từng đối tượng cụ thể theo Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 và Nghị định số 68/2007/NĐ-CP ngày 19/4/2007). b) Mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH; mức bình quân tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đóng BHXH làm căn cứ tính lương hưu hàng tháng, trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, BHXH một lần và trợ cấp tuất một lần được tính như sau: * Đối với trường hợp có toàn bộ thời gian tham gia BHXH hội tự nguyện thì mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH tính như sau: Mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH (Mbqtn) = Tổng các mức thu nhập tháng đóng BHXH/Tổng số tháng đóng BHXH Mức thu nhập tháng đóng BHXH từng giai đoạn để làm căn cứ tính mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH được điều chỉnh trên cơ sở chỉ số giá sinh hoạt của từng thời kỳ theo quy định của Chính phủ. * Đối với trường hợp người tham gia BHXH tự nguyện mà trước đó có thời gian đóng BHXH bắt buộc (đang được bảo lưu) thì mức bình quân tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đóng BHXH hội tính như sau: Mức bình quân tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đóng BHXH (Mbqtl,tn) = [(Mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bắt buộc x Tổng số tháng đóng BHXH bắt buộc) + Tổng số tháng đóng BHXH bắt buộc]/ (Tổng các mức thu nhập tháng đóng BHXH tự nguyện + Tổng số tháng đóng BHXH tự nguyện) Trong đó: Mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bắt buộc được tính theo quy định tại Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 hoặc Nghị định số 68/2007/NĐ-CP ngày 19/4/2007 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thực hiện chế độ BHXH bắt buộc hiện hành. Mức tiền lương, tiền công đối với đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định và thu nhập tháng đóng BHXH tự nguyện từng giai đoạn để làm căn cứ tính mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH được điều chỉnh trên cơ sở chỉ số giá sinh hoạt của từng thời kỳ theo quy định của Chính phủ. c) Mức lương hưu hàng tháng: Mức lương hưu hàng tháng được tính bằng tích số của tỷ lệ hưởng lương hưu hàng tháng với mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH hoặc mức bình quân tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đóng BHXH. Người tham gia BHXH mà trước đó có tổng thời gian đóng BHXH bắt buộc đủ 20 năm trở lên, nếu mức lương hưu hàng tháng sau khi tính mà thấp hơn mức lương tối thiểu chung thì được điều chỉnh bằng mức lương tối thiểu chung. 5.1.3. Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu: Người đủ điều kiện hưởng lương hưu nêu tại điểm 5.1.1 khoản 5.1 trên, nếu đóng BHXH trên 30 năm đối với nam, trên 25 năm đối với nữ, thì khi nghỉ hưu, ngoài lương hưu còn được hưởng trợ cấp một lần. Mức trợ cấp một lần được tính theo số năm đóng BHXH kể từ năm thứ 31 trở đi đối với nam và năm thứ 26 trở đi đối với nữ, cứ mỗi năm đóng BHXH được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng hoặc mức bình quân tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đóng BHXH nêu tại tiết b điểm 5.1.2 khoản 5.1 trên (nếu có tháng lẻ thì làm tròn theo quy định). 5.1.4. Thời điểm hưởng lương hưu: Người tham gia BHXH tự nguyện khi đủ điều kiện hưởng lương hưu thì thời điểm hưởng lương hưu được tính kể từ tháng liền kề sau tháng tổ chức BHXH nhận đủ hồ sơ hợp lệ theo quy định từ người tham gia bảo BHXH tự nguyện. 5.1.5. Người tham gia BHXH tự nguyện đang hưởng lương hưu hàng tháng được hưởng BHYT do quỹ BHXH tự nguyện bảo đảm. 5.1.6. Tạm dừng hưởng lương hưu hàng tháng: a) Người tham gia BHXH tự nguyện đang hưởng lương hưu hàng tháng bị tạm dừng hưởng lương hưu khi chấp hành hình phạt tù nhưng không được hưởng án treo, hoặc khi xuất cảnh trái phép, hoặc khi bị Toà án tuyên bố là mất tích. Thời điểm tạm dừng hưởng lương hưu hàng tháng được tính từ tháng liền kề với tháng người hưởng lương hưu hàng tháng chấp hành hình phạt tù nhưng không được hưởng án treo hoặc xuất cảnh trái phép hoặc bị toà án tuyên bố là mất tích. b) Lương hưu hàng tháng được tiếp tục thực hiện kể từ tháng liền kề khi người bị phạt tù đã chấp hành xong hình phạt tù hoặc khi người được Toà án tuyên bố là mất tích trở về hoặc người xuất cảnh trở về định cư hợp pháp. Trường hợp nếu Toà án có kết luận bị oan thì được truy hoàn tiền lương hưu trong thời gian bị tạm dừng. 5.1.7. BHXH một lần đối với người không đủ điều kiện hưởng lương hưu: a) Điều kiện hưởng: Người tham gia BHXH tự nguyện được hưởng BHXH một lần khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi có dưới 15 năm đóng BHXH. - Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm đóng BHXH mà không tiếp tục đóng BHXH. - Ra nước ngoài để định cư. - Chưa đủ 20 năm đóng BHXH mà không tiếp tục đóng BHXH và có yêu cầu nhận BHXH một lần (Trường hợp người vừa có thời gian tham gia BHXH bắt buộc vừa có thời gian tham gia BHXH tự nguyện thì có thêm điều kiện sau 12 tháng kể từ khi dừng đóng BHXH bắt buộc). b) Mức hưởng BHXH một lần: - Mức hưởng BHXH một lần được tính theo số năm đã đóng BHXH, cứ mỗi năm (đủ 12 tháng) tính bằng 1,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng hoặc mức bình quân tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đóng BHXH nêu tại tiết b điểm 5.1.2 khoản 5.1 trên (nếu có tháng lẻ thì làm tròn theo quy định). - Người tham gia BHXH tự nguyện có thời gian đóng BHXH chưa đủ một năm thì mức hưởng BHXH bằng số tiền đã đóng; mức tối đa bằng 1,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH nêu tại tiết b điểm 5.1.2 khoản 5.1 trên. 5.2. Chế độ tử tuất Người tham gia BHXH tự nguyện khi chết thì thân nhân được hưởng chế độ tử như sau: 5.2.1. Trợ cấp mai táng: a. Đối tượng và điều kiện hưởng: Các đối tượng sau đây khi chết bị hoặc Toà án tuyên bố là đã chết thì người lo mai táng được nhận trợ cấp mai táng: - Người tham gia BHXH tự nguyện có ít nhất 05 năm đóng BHXH tự nguyện; - Người tham gia BHXH tự nguyện mà trước đó có thời gian đóng BHXH bắt buộc; - Người đang hưởng lương hưu. b. Mức trợ cấp mai táng: Mức trợ cấp mai táng bằng 10 tháng lương tối thiểu chung tại tháng đối tượng nêu trên chết hoặc Tòa án có quyết định tuyên bố là đã chết. 5.2.2. Trợ cấp tuất một lần: a. Đối tượng: Các đối tượng sau đây khi chết thì thân nhân được hưởng trợ cấp tuất một lần: - Người đang đóng BHXH tự nguyện; - Người đang bảo lưu thời gian đóng BHXH tự nguyện; - Người đang hưởng lương hưu. b. Mức trợ cấp tuất một lần: * Mức trợ cấp tuất một lần đối với thân nhân người đang đóng, người đang bảo lưu thời gian đóng BHXH tự nguyện: - Trường hợp có toàn bộ thời gian đóng BHXH tự nguyện và thời gian đã đóng từ đủ 1 năm trở lên: Mức trợ cấp tuất một lần được tính theo số năm đã đóng BHXH, cứ mỗi năm (đủ 12 tháng) tính bằng 1,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH (nếu có tháng lẻ thì làm tròn theo quy định). - Trường hợp có toàn bộ thời gian đóng BHXH tự nguyện nhưng thời gian đã đóng chưa đủ 1 năm: Mức trợ cấp tuất một lần được tính bằng số tiền đã đóng, nhưng mức tối đa chỉ bằng 1,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH. - Trường hợp vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng BHXH tự nguyện mà thời gian đóng BHXH bắt buộc dưới 15 năm hoặc từ đủ 15 năm trở lên mà không có thân nhân đủ điều kiện hưởng trợ cấp tuất hàng tháng: Mức trợ cấp tuất một lần được tính theo số năm đã đóng BHXH, cứ mỗi năm (đủ 12 tháng) tính bằng 1,5 tháng mức bình quân tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đóng BHXH (nếu có tháng lẻ thì làm tròn theo quy định). Mức trợ cấp tuất một lần thấp nhất bằng 3 tháng mức bình quân tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đóng BHXH (trường hợp có thời gian đóng BHXH dưới 3 tháng thì chưa thuộc diện được tính mức hưởng trợ cấp tiền tuất một lần). * Mức trợ cấp tuất một lần đối với thân nhân của người đang hưởng lương hưu có toàn bộ thời gian đóng BHXH tự nguyện chết được tính theo thời gian đã hưởng lương hưu, nếu chết trong hai tháng đầu hưởng lương hưu thì tính bằng 48 tháng lương hưu đang hưởng; nếu chết vào những tháng sau đó, cứ hưởng thêm một tháng lương hưu thì mức trợ cấp giảm đi 0,5 tháng lương hưu. Trường hợp người đang hưởng lương hưu có thời gian đóng BHXH bắt buộc dưới 15 năm hoặc có từ đủ 15 năm trở lên nhưng không có thân nhân thuộc diện hưởng tiền tuất hàng tháng thì khi chết, thân nhân được hưởng trợ cấp tuất một lần với cách tính hưởng như nêu trên, nhưng mức thấp nhất bằng 3 tháng lương hưu đang hưởng trước khi chết. 5.2.3. Trợ cấp tuất hàng tháng: a) Đối tượng: Người đã có thời gian đóng BHXH bắt buộc từ đủ 15 năm trở lên (bao gồm người đang đóng BHXH tự nguyện; người đang bảo lưu thời gian đóng BHXH tự nguyện và người đang hưởng lương hưu), khi chết thì thân nhân sau được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng: - Con chưa đủ 15 tuổi (bao gồm con đẻ, con nuôi hợp pháp, con ngoài giá thú được pháp luật công nhận, con đẻ mà khi người chồng chết người vợ đang mang thai); con chưa đủ 18 tuổi nếu còn đi học; con từ đủ 15 tuổi trở lên nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên. - Vợ từ đủ 55 tuổi trở lên hoặc chồng từ đủ 60 tuổi trở lên; vợ dưới 55 tuổi, chồng dưới 60 tuổi nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên và không có thu nhập hoặc có thu nhập hàng tháng nhưng thấp hơn mức lương tối thiểu chung. - Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng, người khác mà đối tượng này có trách nhiệm nuôi dưỡng nếu từ đủ 60 tuổi trở lên đối với nam, từ đủ 55 tuổi trở lên đối với nữ không có thu nhập hoặc có thu nhập hàng tháng thấp hơn mức lương tối thiểu chung; Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng, người khác mà đối tượng này có trách nhiệm nuôi dưỡng nếu dưới 60 tuổi đối với nam, dưới 55 tuổi đối với nữ bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên và không có thu nhập hoặc có thu nhập hàng tháng nhưng thấp hơn mức lương tối thiểu chung. b) Mức trợ cấp tuất hàng tháng đối với mỗi thân nhân bằng 50% mức lương tối thiểu chung. Trường hợp thân nhân không có người trực tiếp nuôi dưỡng thì mức trợ cấp tuất hàng tháng bằng 70% mức lương tối thiểu chung. c) Số thân nhân được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng không quá 4 người đối với 1 người chết. Trường hợp có từ 2 người chết trở lên thì thân nhân của những người này được hưởng 2 lần mức trợ cấp hàng tháng. d) Thời điểm thân nhân được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng kể từ tháng liền kề sau tháng mà người tham gia BHXH tự nguyện chết. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN TẠI VIỆT NAM I. Tính khả thi của chế độ BHXH tự nguyện BHXH tự nguyện được triển khai sẽ đem lại nhiều lợi ích. Bởi hiện nay, nhiều người vẫn mang nặng tâm lý muốn có chế độ ổn định khi hết tuổi lao động (lương hưu). Vì vậy, một khi mọi người lao động đều được hưởng lương hưu, chắc chắn, áp lực về công việc trong khối doanh nghiệp Nhà nước sẽ được giảm đáng kể. Người lao động cũng sẽ yên tâm làm việc ở mọi thành phần kinh tế, kể cả kinh tế hộ gia đình. Riêng đối với BHXH Việt Nam, khi triển khai BHXH tự nguyện, quỹ BHXH tự nguyện sẽ có nguồn thu rất lớn và là nguồn tài chính quan trọng, bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đất nước. Hơn nữa việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) sẽ tác động mạnh mẽ vào lĩnh vực lao động, việc làm. Đặc biệt, nhu cầu về việc làm của thị trường lao động sẽ tăng lên do nhiều người tự chuyển đổi hoặc bắt buộc phải chuyển đổi vị trí làm việc. Yếu tố này sẽ ảnh hưởng tới đối tượng tham gia BHXH, BHYT và từ đó ảnh hưởng tới quỹ BHXH cũng như việc giải quyết chính sách. Và để lấp được khoảng trống này, chỉ có BHXH tự nguyện mới có thể đáp ứng và bảo vệ quyền lợi người lao động khi họ thất nghiệp hoặc tạm thời mất việc làm. Vì vậy, sự ra đời của BHXH tự nguyện hoàn toàn thích ứng với quá trình hội nhập. Cũng theo một nghiên cứu về khả năng tham gia BHXH tự nguyện của người dân trong quá trình xây dựng Luật, Viện Khoa học LĐTB&XH, Bộ LĐTB&XH, đã đưa ra con số 41% số người trong độ tuổi lao động thuộc khu vực phi chính thức cho biết, họ sẽ tham gia BHXH tự nguyện. Đây là con số có nhiều ý nghĩa, bởi nếu làm tốt công tác tuyên truyền, cộng với hiệu ứng dây chuyền, BHXH tự nguyện ở nước ta sẽ thành công trong triển khai. Tuy nhiên trong thời gian đầu triển khai vẫn chưa thu hút được đông đảo người dân tham gia, cụ thể như sau 1 tháng triển khai, theo BHXH thành phố HCM trên toàn TP mới có 67 người tham gia BHXH tự nguyện với tổng thu trên 153 triệu đồng, hầu hết là những người đã có quá trình đóng BHXH bắt buộc chỉ có 3 đối tượng tham gia mới. Phần lớn người nông dân còn chưa tham gia vào lĩnh vực này bởi hai nguyên nhân cơ bản:   -Thứ nhất, đó là thu nhập thực tế của người nông dân còn thấp, họ phải sử dụng nguồn tài chính hạn hẹp của mình cho các nhu cầu được coi là cấp thiết đối với cuộc sống hàng ngày của gia đình, và một phần để tích trữ cho các chi tiêu đột xuất.   -Thứ hai, nhận biết của người dân về các dịch vụ BHXH tự nguyện còn chưa đầy đủ. Như khi tham gia BHYT nhưng không bị ốm đau và không cần sử dụng dịch vụ BHYT, người nông dân cho rằng như vậy là tham gia BHYT không có lợi và họ không tham gia tiếp.  II. Thuận lợi và khó khăn trong triển khai BHXH tự nguyện tại Việt Nam a) Thuận lợi - Đầu tiên, một trong những thuận lợi lớn nhất của BHXH tự nguyện là không bị phá sản. Người dân luôn luôn yên tâm rằng mình đóng góp vào đó thì đã nhận được sự bảo hộ của Nhà nước, kể cả khi đồng tiền có sự thay đổi, có biến động thì Nhà nước vẫn sẽ có trách nhiệm với người tham gia. - Thứ hai, bảo hiểm xã hội tự nguyện có một phương thức đóng góp rất cơ động. Không như những loại hình bảo hiểm khác, bảo hiểm xã hội tự nguyện phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế và điều kiện lao động của người tham gia bảo hiểm. Vì thế mức phí sẽ rất phù hợp với khả năng đóng góp và nguyện vọng thụ hưởng sau này của người tham gia. Trong đó, tổng số tiền đóng trong quá trình tham gia BHXH tự nguyện cho đến khi 60 tuổi sẽ được cộng toàn bộ cùng với tiền lãi, rồi chia ngược trở lại cho số năm dự kiến được hưởng (xác định dựa trên tuổi thọ bình quân của người VN, loại trừ những người tử vong sớm do tai nạn, bệnh tật...) để tính ra số lương hưu hằng tháng. - Thứ ba, BHXH tự nguyện có sự khác biệt so với BHXH bắt buộc là người tham gia BHXH bắt buộc khi nghỉ hưu sẽ được hưởng 75% lương cho đến khi mất, nhưng có người chưa kịp cầm sổ, hoặc mới được hưởng lương hưu vài năm đã mất thì gia đình chỉ được trợ cấp tiền tuất. Nhưng với BHXH tự nguyện, những trường hợp này gia đình sẽ được trả lại toàn bộ số tiền đã đóng. -Thứ tư, thuận lợi của loại hình BHXH tự nguyện là... tự nguyện tham gia! Loại hình BHXH tự nguyện này rất ''mở'' đối với những người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn như nông dân, thợ thủ công. Đó là các mức đóng góp ''nhẹ nhàng'', người tham gia như nông dân không quá ngại trước các mức 20.000 đồng/tháng, 30.000 đồng/tháng, 50.000 đồng/tháng, 70.000 đồng/tháng, 100.000 đồng/tháng. Theo tinh thần của Nghị định, người tham gia BHXH tự nguyện được lựa chọn mức đóng phụ hợp với thu nhập của mình và có thể thay đổi mức đóng từ mức thấp lên mức cao hơn hoặc ngược lại. Một trong những thuận lợi nữa cho khách hàng tham gia BHXH tự nguyện là trong trường hợp rủi ro, bị giảm thu nhập thì người tham gia BHXH tự nguyện có thể tạm ngừng đóng BHXH, sau đó được đóng bù. - Thứ năm, khi nhận sổ hưu, người tham gia BHXH tự nguyện sẽ được nhận luôn thẻ bảo hiểm y tế miễn phí và được hưởng các chính sách tương tự như những người hưu trí hiện nay. -Thứ sáu, có sự liên thông giữa BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện.NLĐ trước đây tham gia BHXH bắt buộc, vì lý do nào đó phải nghỉ việc, nếu sau đó chuyển sang tham gia BHXH tự nguyện, hoặc đối với trường hợp chuyển từ BHXH tự nguyện sang BHXH bắt buộc thì được bảo lưu thời gian đã đóng để làm cơ sở tính hưởng chế độ BHXH. Với sự phát triển của thị trường lao động, việc di chuyển lao động từ khu vực này sang khu vực khác là một tất yếu, cách tính trên sẽ đáp ứng được tình hình chu chuyển lao động và đảm bảo quyền lợi của NLĐ tham gia BHXH. - Thứ bảy, nhờ có các kênh truyền thông đại chúng hiện nay thông qua công tác tuyên truyền, quảng cáo linh hoạt đã đưa các lợi ích tối đa mà BHXH tự nguyện đem lại đi sâu vào tư tưởng của người dân. Đây là một thuận lợi không nhỏ, các tư vấn bảo hiểm có thể dẫn dắt được người dân tin tưởng tham gia BHXH tự nguyện. - Thứ tám, dân số của nước ta hiện nay đang là dân số vàng. Quy mô lao động lớn chiếm khoảng 59.3 % dân số cả nước. Tạo nên môi trương thuận lợi cho việc triển khai BHXH tự nguyện. - Thứ chín, phạm vi đối tượng tham gia BHXH tự nguyện nói chung là rất rộng, có thể bao hàm cả các đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Phạm vi đối tượng tham gia rộng tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai BHXH tự nguyện một cách dễ dàng. Trên đây là các thuận lợi đem lại trong việc triển khai BHXH tự nguyện tại Việt Nam.  b) Những khó khăn thách thức khi triển khai BHXH tự nguyện tại Việt Nam - Thứ nhất là khả năng mở rộng độ bao phủ. BHXH tự nguyện có đối tượng điều chỉnh rất lớn Để mở rộng độ bao phủ cho đối tượng này phải có lộ trình và thời gian rất dài. Đến năm 2015, nếu tổ chức triển khai tốt cũng chỉ có khả năng thực hiện cho 8% đối tượng ( khoảng gần 3 triệu người ), số chưa tham gia BHXH tự nguyện trong một thời gian dài là rất lớn khoảng trên 90%. - Thứ hai là điều kiện thu nhập thấp và không ổn định Nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện khá cao, khả năng tham gia hạn chếdo phần lớn lao động khu vực này có thu nhập thấp, khả năng tiết kiệm không cao là một thách thức rất lớn. Trong khi đó mức đóng khá cao ( thấp nhất là 16% mức lương tối thiểu ), lại có xu hướng tăng lên ( do mức lương tối thiểu sẽ tăng theo lộ trình cải cách tiền lương và tăng tỷ lệ đóng theo luật định để đạt 22% ) thì có thể số người tham gia sẽ giảm đi. Hơn nữa thu nhập của từng người lao động là rất khác nhau nên BHXH tự nguyện khó triển khai hơn so với BHXH bắt buộc. Vì BHXH bắt buộc có thể thu tại cơ quan, doanh nghiệp còn bảo hiểm xã hội tự nguyện là phải thu của từng người một. Và nếu triển khai như vậy thì chi phí cho hoạt động của bộ máy sẽ rất lớn. - Thứ ba là khả năng nhận thức của người dân còn yếu Người tham gia BHXH tự nguyện chưa nắm được chính sách ưu việt của BHXH tự nguyện đem lại cho mình. Kèm theo, điều kiện kinh tế của các gia đình đại đa số còn ở mức độ thấp, trình độ dân trí không đồng đều có khoảng cách lớn giữa nông thôn và thành thị, do vậy bước đầu người dân chưa thấy hết được những lợi ích to lớn khi tham gia BHXH tự nguyện. Điển hình có một số nơi không được tiếp cận với bảo hiểm, thậm chí còn không biết bảo hiểm là gì thì nói gì đến BHXH tự nguyện. Người tham gia BHXH tự nguyện sẽ được hưởng chế độ lương hưu tối thiểu 15 năm sau khi hết tuổi lao động. Nếu chết trước thời hạn này thì được trả phần lương hưu còn lại. Ngoài ra người lao động còn được cấp thẻ bảo hiểm y tế. Song theo tính toán, với quy định này, mức chi trả có thể sẽ vượt quá đầu vào của quỹ bảo hiểm. - Thứ tư là khả năng hỗ trợ của Nhà nước BHXH tự nguyện khác với các loại hình bảo hiểm kinh doanh khác là nó không được phép phá sản do bản chất xã hội của BHXH tự nguyện. Nhà nước phải bảo đảm hoạt động ổn định cho quỹ BHXH tự nguyện và có thể phải hỗ trợ những khi cần thiết. Để triển khai được chính sách BHXH tự nguyện, ngân sách Nhà nước sẽ phải “gánh” thêm một phần không nhỏ trong khi đó ngân sách Nhà nước hiện đang rất khó khăn. BHXH tự nguyện còn là lưới an toàn xã hội theo nguyên tắc đóng hưởng. Tuy nhiên, người nghèo, nhóm xã hội yếu thế, người dân tộc miền núi khó khăn..... là những đối tượng sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi này trước tiên. Muốn mở rộng độ bao phủ cho nhóm đối tượng này phải có chính sách hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng. Đây là một thách thức lớn đối với nước ta khi mà ngân sách Nhà nước eo hẹp, khả năng xã hội hóa còn khó khăn. - Thứ năm là khả năng tiếp cận khi mở rộng độ bao phủ - Khi thực hiện BHXH bắt buộc cho NLĐ chỉ triển khai tới từng đơn vị, bây giờ triển khai BHXH tự nguyện tới từng NLĐ thì phải xây dựng được một quy trình quản lý mới. Quy trình này phải vừa quản lý quỹ chặt chẽ, vừa đơn giản, thuận lợi, linh hoạt, chính xác cho người tham gia, bởi vì những người tham gia hôm nay, nhưng đến tận 20 năm sau hoặc hơn nữa họ mới thụ hưởng. Hơn nữa, quy trình phải mang tính khoa học, chặt chẽ để phòng khi có nhiều người đang bảo lưu chế độ BHXH bắt buộc chuyển sang tham gia BHXH tự nguyện vẫn được thực hiện liên thông và thanh toán đầy đủ, thuận tiện (2 quỹ này đang hoạt động độc lập với nhau). CHƯƠNG III CÁC GIẢI PHÁP CHO CÔNG TÁC TRIỂN KHAI BẢO HIẺM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN TẠI VIỆT NAM II. Các biện pháp triển khai BHXH tự nguyện. - BHXH tỉnh,huyện phải phối hợp với các ngành chức năng, cơ quan báo chí, tuyên truyền của tỉnh, huyện làm tốt công tác thông tin tuyên truyền để mọi người hiểu và tham gia BHXH tự nguyện, vì đối tượng của BHXH tự nguyện rất đa dạng, phần lớn trong số đó chưa từng tham gia BHXH bao giờ. Đặc biệt là phải vận động được nhiều người thay đổi thói quen “tới đâu hay tới đó”, xem nhẹ việc tham gia BHXH để lúc khó khăn sẽ được cơ quan BHXH trợ cấp. - Đối với  cơ quan BHXH cố gắng vận dụng được phương thức vận động các nhóm đối tượng theo yêú tố thuận lợi và có số đối tượng tham gia BHXH tự nguyện nhiều nhất. Cụ thể, tuỳ thuộc vào yếu tố: Về nhận thức, nhu cầu, sự mong muốn tham gia của từng nhóm đối tượng mà lần lượt triển khai thực hiện. Theo nguyên tắc dễ trước- khó sau. Điển hình như:  Đối tượng cán bộ, xã, phường, thị trấn không chuyên trách hiện nay thể hiện r

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhững thuận lợi và khó khăn trong việc triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện tại Việt Nam Một số kiến nghị và giải pháp.doc
Tài liệu liên quan