MỤC LỤC
1. Mở đầu: 3
1.1. Tính cấp thiết của đề tài: 3
1.2. Mục đích của đề tài: 4
2. Nội dung: 4
Chương 1: Cơ sở lý luận 4
2.1.1. Quan niệm về con người: 4
2.1.1.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông.4
2.1.1.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước Mác. 5
2.1.1.3. Quan niệm của triết học Mác- Lênin về bản chất
con người. 7
2.1.2. Vai trò của con người trong đời sống xã hội, đặc biệt trong sản xuất xã hội 9
Chương 2: Vấn đề xây dựng con người để đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam 11
2.2.1. Thực chất quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam: 11
2.2.2. Mục tiêu cơ bản của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam: 13
2.2.3. Tại sao cần phải xây dựng con người việt nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa? 14
2.2.4. Những yêu cầu đối với con người Việt Nam để đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa 16
2.2.5. Thực trạng xây dựng con người Việt Nam từ khi đổi mới đến nay 17
2.2.6. Một số vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng con người Việt Nam theo yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa 21
Chương 3: Các giải pháp chủ yếu để xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa 24
2.3.1. Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục- đào tạo 24
2.3.2. Nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ: 29
2.3.3. Xây dựng con người Việt Nam kết hợp với quá trình đổi mới kinh tế- xã hội 31
2.3.4. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu quả hoạt động của Nhà nước trong quá trình xây dựng con người 35
3. Kết luận.38
Chú thích.40
Danh mục tài liệu tham khảo.41
41 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2263 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp chủ yếu để xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cần phải có những con người có đầy đủ phẩm chất cách mạng. Và, chính Người là một mẫu mực tuyệt vời về một con người chân chính. Đã có rất nhiều cán bộ của Đảng, những chiến sĩ cộng sản trung kiên đã nêu những tấm gương sáng ngời, những hình ảnh tiêu biểu cho con người Việt Nam mới. Song chỉ khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội thì mới có điều kiện xây dựng con người mới trong đông đảo quần chúng. Ngày nay, trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hướng vào mục đích "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" theo định hướng xã hội chủ nghĩa, con người Việt Nam- mục tiêu và động lực của phát triển kinh tế- xã hội cũng phải có những đặc trưng mới, theo yêu cầu mới để có thể góp phần tốt nhất vào sự nghiệp xây dựng đất nước, phát huy nhiều nhất những tiềm năng của bản thân. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải xây dựng con người Việt Nam hiện đại như thế nào để không rơi vào ảo tưởng, để tiến hành và đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa sự nghiệp đó đến thành công?
Đảng ta đã định hướng phát triển con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới là xây dựng con người Việt Nam với những đức tính sau:
- "Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mĩ và thể lực(4)".
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Chính vì vậy, con người Việt Nam cần phải có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức, tư cách tốt; có ý thức tổ chức kỷ luật cao; chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm. Định hướng đó không chỉ nhằm xây dựng một nền tảng tinh thần vững chắc cho công cuộc xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, mà còn nhằm tạo ra một nguồn lực mạnh mẽ, bền vững cho công cuộc xây dựng đất nước.
2.2.5. Thực trạng xây dựng con người Việt Nam từ khi đổi mới đến nay
Trong suốt quá trình phát triển cách mạng nước ta, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo những quan điểm của trỉết học Mác- Lênin về con người vào việc xây dựng con người Việt Nam mới phù hợp với điều kiện nước ta. Những định hướng phẩm chất của con người Việt Nam được đề cập trong các văn kiện của Đảng ta trong việc đẩy mạnh công tác giáo dục. Trên thực tế Đảng ta đã thường xuyên đổi mới công tác giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách các thế hệ con người Việt Nam phục vụ công cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước.
Ngay từ những ngày đầu bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, Đảng ta đã khẳng định "con người là vốn quý nhất", chăm lo cho hạnh phúc của tất cả mọi người là sự nghiệp lớn lao của Đảng. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, khi thông qua đường lối chính sách đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa tại Đại hội VI(1986), Đảng ta đã khẳng định vai trò quan trọng của "nhân tố con người" trong toàn bộ sự phát triển kinh tế- xã hội. Đại hội VII(1991) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000.Tại đại hội này, Đảng ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược kinh tế- xã hội, xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư( khóa VII) đã nâng tầm nhận thức của Đảng ta lên cao hơn về vai trò của con người. Sự phát triển con người được xem như là nhân tố quyết định mọi sự phát triển- phát triển xã hội, phát triển, phát triển kinh tế, phát triển văn hóa... Trong các quan điểm về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta đã đúc kết và khẳng định "lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững".Khẳng định này, một lần nữa, đã được Đảng ta nhấn mạnh tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
"Đổi mới" là một quá trình cải biến cách mạng. Đặc điểm cơ bản của quá trình này là chủ thể của nó phải thay đổi chính bản thân mình, xóa bỏ những lực cản trong xã hội và trong mỗi con người. Thực tiễn chứng minh, không phải bộ máy, cũng không phải khâu nào khác trong hệ thống chính trị với tầm quan trọng của nó, mà chính là con người với phẩm chất và năng lực nhất định quyết định sức mạnh của đổi mới.
Chặng đường đổi mới vừa là một giai đoạn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự phát triển đất nước. Đảng ta khẳng định:"Đến nay, thế và lực của đất nước ta đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo ra tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước".
Về một số thành tựu cơ bản: nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nhịp độ tăng GDP hàng năm trong thời kỳ 1991-1995 là 8,2%. Lạm phát bị đẩy lùi từ 77,4%(1986) xuống còn 12,7%(1995). Sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường đã giải phóng sức sản xuất. Nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và tiếp cận với công nghệ sản xuất tiên tiến của nhiểu nước trên thế giới. Đại bộ phận nhân dân có đời sống vật chất và tinh thần được cải thiện, trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa khá hơn trước. ở đây, người lao động đã được giải phóng từng bước khỏi sự ràng buộc của cơ chế cũ, phát huy được quyền làm chủ và tính năng động, sáng tạo trong các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội. Việc thực hiện chế độ dân chủ trong Đảng và trong xã hội được đẩy mạnh đã phát huy được trí tuệ tập thể, phát huy sức mạnh đoàn kết, sức mạnh tổng hợp của nhân dân. Chính sách xã hội ngày càng được hoàn thiện và hướng vào con người, tạo ra những động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế, phát triển đất nước.
Lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ ngày càng được khẳng định. Những thành tựu trên cho thấy công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó đổi mới tư duy là khâu đột phá, đổi mới kinh tế là trọng tâm, đổi mới chính trị từng bước, đã tạo nên bước nhảy vọt lớn. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xét về lĩnh vực phát huy nguồn lực con người, công cuộc đổi mới đã đạt những thành tựu đáng kể và vô cùng quan trọng. Khảo sát tình hình phát triển con người Việt Nam trong những năm đổi mới vừa qua cho thấy:
Về thể lực và sức khỏe, khi nền kinh tế- xã hội có bước phát triển thì tình trạng sức khỏe của con người ngày càng được cải thiện. Theo đánh giá của tổ chức Y tế thế giới, tuy Việt Nam có thu nhập bình quân theo đầu người vào nhóm thấp nhất thế giới, nhưng về mặt sức khỏe đạt loại trung bình(73/150 nước). Chúng ta đều hiểu rằng sự phát triển về mặt thể lực, sức khỏe là cơ sở để phát triển toàn diện toàn diện con người, sự lành mạnh về thể xác và tâm hồn là điều kiện quan trọng cho sự phát triển hài hòa các phẩm chất, năng lực của con người.
Về sự phát triển trí tuệ của con người Việt Nam:
Sự phát triển này được biểu hiện qua nhiều chỉ số như: trình độ học vấn, kiến thức văn hóa, khoa học kỹ thuật, khoa học nhân văn, kỹ năng nghề nghiệp...Hiện nay, cả nước có gần 20 triệu học sinh các cấp. Hiện tại ta đã có 35 sinh viên trên 10.000 dân. Cả nước có số lượng 8.000 tiến sĩ và hàng vạn thạc sĩ. Biểu hiện đáng mừng là chúng ta liên tiếp giành được nhiều giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc tế về toán, lý, hóa, tin học, sinh vật...
Mặt khác, trình độ chuyên môn không ngừng được nâng cao, kỹ năng nghề nghiệp ngày càng tinh thông. Con người Việt Nam đã từng bước làm chủ được những dây chuyền công nghệ, giải pháp kỹ thuật đòi hỏi tay nghề cao...
Tuy nhiên, sự phát triển về mặt trí tuệ của con người Việt Nam hiện nay cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết như: trí lực con người đã có bước phát triển, song không đều và chất lượng chưa cao, mức chênh lệch về trình độ học vấn giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn, cán bộ khoa học kỹ thuật, khoa học nhân văn, số người thật sự có năng lực về trí tuệ, đủ sức đáp ứng yêu cầu đặt ra của thực tiễn .
Đến nay, cả nước chưa phổ cập xong trình độ tiểu học. Độ vênh giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội-nhân văn khá lớn trong mỗi con người, nhất là tầng lớp trẻ do sớm học lệch, học tủ, học để đi thi; do nội dung, phương thức đào tạo chưa phù hợp, thiếu đồng bộ. Điều đó đã hạn chế sự phát triển về năng lực trí tuệ con người Việt Nam, nhất là thanh niên.
Nhìn chung, sau những năm đổi mới, sự đầu tư của Nhà nước vào giáo dục- đào tạo, vào chính sách xã hội ngày càng nhiều. Sự cạnh tranh về việc làm trong nền kinh tế thị trường ngày càng căng thẳng, xã hội ngày càng đánh giá cao giá trị của lao động trí tuệ cũng như sự vươn lên của cá nhân để chiếm lĩnh tri thức tiên tiến. Tất cả những điều đó là những yếu tố tạo nên trí lực của con người Việt Nam, làm cho trí lực ấy được phát triển ở mức độ nhất định. Đó là con người năng động, nhạy bén, nắm bắt những cái mới, có nhiều cách làm sáng tạo để giải quyết các vấn đề đặt ra; dám nghĩ , dám làm, dám chịu trách nhiệm, ngày càng trưởng thành trong các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, văn hóa, xã hội.
Về tư tưởng, đạo đức cách mạng
Lý tưởng và đạo đức cách mạng là vấn đề vô cùng quan trọng, không thể thiếu trong nhân cách của con người Việt Nam hiện nay.Thành tựu lớn lao trong sự nghiệp giáo dục- đào tạo, xây dựng con người Việt Nam là chúng ta đã từng bước tạo lập, xây dựng những con người có lý tưởng cách mạng, đạo đức trong sáng, từng bước đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng.
Sự biến đổi to lớn, sâu sắc của đời sống kinh tế- xã hội đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức và hành động của con người Việt Nam, ảnh hưởng đến lý tưởng và hành vi đạo đức của họ. Các kết quả điều tra, nghiên cứu xã hội những năm qua cho thấy, cùng với quá trình đổi mới, mở cửa, hội nhập, giao lưu với con người, thang giá trị của con người Việt Nam cũng bị biến đổi, khúc xạ theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Bên cạnh mặt tích cực trong việc định hướng vào các giá trị chung của nhân loại( hòa bình, tự do, sức khỏe, việc làm, công lý, học vấn, an ninh, niềm tin, nghề nghiệp...), các giá trị của truyền thống dân tộc( lòng yêu nước, nhân ái, tính tập thể, cộng đồng, tình nghĩa, hiếu học, càn cù, sáng tạo...) đã xuất hiện xu hướng xem nặng vật chất, xem nhẹ giá trị tinh thần; xem nặng giá trị hiện đại, ngoại lai, xem nhẹ giá trị truyền thống, thuần phong, mỹ tục của dân tộc; coi trọng vai trò của kỹ thuật, xem nhẹ vai trò của con người; đặt lên quá cao lợi ích cá nhân mà xem nhẹ lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng.
2.2.6. Một số vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng con người VIệt Nam theo yêu cầu đẩy mạnh Công nghiệp hóa- hiện đại hóa
Từ thực trạng trên, trước yêu cầu của sự nghiệp đầy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nước ta đang đứng trước nhiều thách thức. Xét từ góc độ con người, ở đây đang bộc lộ nhiều mặt hạn chếm yếu kém. Điều này thể hiện ở một số vấn đề sau:
Thứ nhất, cơ cấu lao động còn bất hợp lý và lạc hậu về nhiều mặt
Sự mất cân đối giữa các ngành còn lớn, phân bố giữa các miền, các vùng không đều. Chẳng hạn, vùng có lực lượng lao động làm việc trong nhóm ngành nông- lâm- ngư nghiệp có tỷ lệ cao nhất là miền núi- trung du phía Bắc( 83,8%), thấp nhất là Đông Nam Bộ( 32,12%). Vùng có lực lượng lao động làm việc trong công nghiệp- xây dựng cơ bản và dịch vụ cao nhất là Đông Nam Bộ: 23,64% và 44,24%.
Cơ cấu lao động ở nông thôn rất lạc hậu và quá trình chuyển dịch diễn ra rất chậm. Lực lượng lao động nông thôn đang tăng nhanh trong khi diện tích đất canh tác đang thu hẹp, bình quân 0,3 ha/1 lao động . hệ số sử dụng đất mới đạt 1,1 lần.
Thị trường lao động diễn biến phức tạp, luôn mất cân đối giữa cung và cầu, do chưa đủ các điều kiện cho thị trường lao động phát triển. ở nước ta, thị trường lao động hình thành tự phát, chưa hoàn chỉnh, chưa được điều tiết và quản lý từ cẫp vĩ mô, quy mô nhỏ, chưa giải phóng hết tiềm năng lao động.
Hiện nay, đang có sự cạnh tranh gay gắt trong thị trường sức lao động. Nguyên nhân là do lực lượng lao động bổ sung hàng năm vẫn lớn hơn số việc làm được tạo ra: do cơ cấu kinh tế thay đổi dẫn đến sự thay đổi về cơ cấu lao động. Số người thiếu lao động ở nông thôn chiếm 25,4% lực lượng lao động. Số người trong lực lượng lao động không hoạt động hoạt động kinh tế thường xuyên tính chung trong cả nước là 27,7%.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, riêng 1996, cả nước có 2.042.685 người đủ 15 tuổi trở lên ở nông thôn ra thành thị tìm việc làm, chiếm 7,14% lực lượng lao động, trong đó, lao động trong độ tuổi chiếm 93,98%. Vùng có tỉ lệ cao nhất là đồng bằng sông Hồng(12,94%), tiếp đến là Bắc Trung Bộ( 8,43%).
Trên thị trường lao động, cung vẫn vượt quá cầu. Số người chưa có việc làm tập trung vào lứa tuổi thanh niên. Hiện tượng thất nghiệp trong giới có học có xu hướng tăng ở khu vực thành thị. Việc di dân tự do từ nông thôn ra thành thị, tứ phía Bắc vào Đông Nam Bộ, Tây Nguyên chưa được kiểm soát chặt chẽ. Quyền lợi người lao động cũng như người thuê lao động chưa rõ ràng, chưa đảm bảo.
Thứ hai, trình độ học vấn và trình độ chuyên môn còn thấp
Thống kê năm 1997 cho thấy: toàn quốc, số người chưa biết chữ chiếm 5,1%, đã tốt nghiệp cấp 1 chiếm 28,13%, cấp 2: 32,27%, cấp 3: 14,14% trong tổng lực lượng lao động. Đồng bằng sông Hồng có tỉ lệ tốt nghiệp cấp 2 cao nhất: 74,48%; thấp nhất là đồng bằng sông Cửu Long: 54,33%. Mức chênh lệch về trình độ học vấn ngày càng lớn giữa lực lượng lao động ở thành thị tốt nghiệp cấp 2, 3 là:61,85% so với nông thôn là 42,62%.
Toàn quốc, số người thuộc lực lượng lao đông không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 87,18%; có chuyên môn kỹ thuật: 12,82%. Trong đó, công nhân kỹ thuật( có bằng và không có bằng) và sơ cấp chiếm 5,58%; trung học chuyên nghiệp: 3,8%; cao đẳng và đại học: 2,5%; trên đại học: 0,04%. ở khu vực thành thị, tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo chiếm 29,37%, trong đó công nhân kỹ thuật và sơ cấp chiếm 12,14%; trung học chuyên nghiệp:8,34%; cao đẳng và đại học 8,69%; trên đại học:0,2%. Khu vực nông thôn, tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo chiếm 9,3%; và tương ứng với các chỉ số của thành thị là:2,41%; 5,84%; 0,94%; 0,01%. Mức chênh lệch này có xu hướng ngày càng tăng.
Thứ ba, chính sách xã hội ở nước ta còn bộc lộ nhiều bất cập, chưa hợp lý
Những chính sách xã hội trong thời kỳ chiến tranh, thời kỳ kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp còn được sử dụng trong thời kỳ đổi mới, chậm khắc phục, có mặt còn kéo dài, gây trở ngại nhiều đến nền kinh tế, nhiều khi triệt tiêu mất những động lực lợi ích của người lao động.
Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế thì chính sách xã hội không thay đổi kịp với sự phát triển của đất nước. Nhu cầu, lợi ích của các tầng lớp nhân dân, sự quản lý nhà nước, sự thay đổi cơ cấu xã hội...làm cho chính sách xã hội bị động, lúng túng.
Thứ tư, quyền dân chủ của nhân dân còn nhiều vấn đề tiếp tục phải giải quyết
Qua 15 năm đổi mới, nhân dân đã phát huy quyền làm chủ trên nhiều lĩnh vực: được đóng góp ý kiến vào các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội quan trọng của đất nước, xây dựng các dự án luật, tiếp xúc, chất vấn các đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân về những vấn đề thiết thân của mình; trực tiếp tham gia các phong trào, như cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư", phong trào "Đền ơn đáp nghĩa", phong trào "Xóa đối giảm nghèo"... Đó là còn chưa kể các hình thức nhân dân tham gia tự quản tại cơ sở bằng việc tái lập các quy ước, hương ước- một phương tiện hỗ trợ cho pháp luật trong việc xử lý, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Bên cạnh các thành tựu đã đạt được, vẫn còn bộc lộ những yếu kém, tiêu cực trong quá trình dân chủ hóa xã hội: hiện tượng mất dân chủ không chỉ xảy ra ở cấp trên, mà còn ở cả cơ sở, nơi chính quyền ở trong lòng dân. Mặt khác, lại đang diễn ra tình trạng phân tán cục bộ, kỷ luật lỏng lẻo, phép nước không nghiêm, kỷ cương xã hội bị buông lỏng; hiện tượng tham ô, lãng phí, quan liêu, cửa quyền, sách nhiều, ức hiếp nhân dân không những chưa bị ngăn chặn, giảm bớt mà có lúc, có nơi, còn trầm trọng hơn. Điều đó gây bất bình trong dư luận, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với chế độ. Trong quản lý kinh tế, hiện tượng nắm quá chặt những cái cân mở rộng, trong khi lại buông lỏng những cái cần nắm vững đã gây sức ỳ, cản trở sự phát triển sản xuất. Bên cạnh đó có sự suy thoái đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Biểu hiện cụ thể của sự suy thoái này là: tham nhũng, dùng tiền Nhà nước tiêu xài phuùng phí, lãng phí của công, ăn chơi sa đoạ, bất chính; kèn cựa địa vị, cục bộ, bè phái, mất đoàn kết, độc đoán chuyên quyền, mê tín dị đoan.
Như vậy bên cạnh những biểu hiện tích cực cũng xuất hiện những biểu hiện tiêu cực về đạo đức cần giải quyết.
Con người Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải khắc phục được những hạn chế của lối sống, sinh hoạt, tác phong lạc hậu, hình thành con người mới với những chuẩn mực giá trị của văn hóa công nghiệp tiên tiến.
Chương 3: Các giải pháp chủ yếu để xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa
2.3.1.Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục- đào tạo
Sự nghiệp Giáo dục- đào tạo được Đảng ta xác định đóng vai trò hàng đầu trong việc xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa.
Ngày nay, khoa học- công nghệ đang tác động mạnh mẽ vào chính cuộc sống con người. Thế giới đang đổi thay, phát triển và cạnh tranh quyết liệt, tận dụng thời cơ và những thách thức của thời đại không phải là công việc của riêng một quốc gia nào. Nhật Bản đã xây dựng 19 thành phố công nghệ rải rác khắp đất nước, với ý định dẫn đầu loài người vào làn sóng văn minh mới; Mĩ đang cố níu lại vị trí siêu cường về kinh tế của mình bằng mọi cách, kể cả thủ đoạn sử dụng vũ lực quân sự. Các nước thuộc cộng đồng kinh tế châu Âu cũng đang cố gắng bứt lên sánh ngang với Nhật Bản và Mĩ. Các "con rồng" châu á tuy đi sau nhưng cũng đạt được những tiến bộ phi thường về kinh tế...Tất cả các quốc gia đó có thể đạt được những sự phát triển phi thường đó là do sớm nhận thức được vai trò của tri thức và triệt để khai thác kho tài nguyên vô tận này. Để có được những con người với trí tuệ phát triển không có cách nào khác là giáo dục- đào tạo.Thực tiễn lịch sử, nhất là trong thời đại ngày nay đã chứng minh rằng trong tất cả các yếu tố tạo nên sự thành công của một quốc gia không có yếu tố nào quan trọng hơn giáo dục- đào tạo.
Có điều đó là vì: Trước tiên, giáo dục- đào tạo ngày nay đã trở thành động lực hàng đầu cho phát triển kinh tế. Theo tính toán, nếu phổ cập giáo dục nâng lên một bậc thì năng suất lao động bình quân trên toàn xã hội tăng tới 5%. Sở dĩ như vậy là vì giáo dục- đào tạo tạo ra cho nền kinh tế quốc dân của một dân tộc những nhà bác học, những chuyên gia, những kỹ sư, những người lao động có kỹ thuật trên các lĩnh vực mà nhờ họ, mới có thể sáng tạo, tiếp thu kỹ thuật tiên tiến, công nghệ mới, những nguyên liệu không có sẵn trong tự nhiên, những hình thức quản lý mới đạt hiệu quả kinh tế cao. Giáo dục- đào tạo trực tiếp quyết định việc nâng cao trình độ học vấn, trình độ khoa học kỹ thuật, tổ chức quản lý, năng lực thực tiễn của người lao động. Giáo dục- đào tạo không chỉ là yếu tố hàng đầu để phát triển kinh tế mà còn tạo ra nhân cách con người. Một số nhà nghiên cứu giáo dục và xã hội đã khẳng định rằng: con người chỉ sinh ra con người con giáo dục sinh ra cả năng lực và nhân cách con người.
Lịch sử càng tiến lên, vai trò của yếu tố trí tuệ trong nguồn lực con người càng trở nên quan trọng. Vai trò của trí tuệ không chỉ tăng lên trong lĩnh vực sản xuất vật chất, mà còn tăng lên trong tất cả mọi lĩnh vực, mọi hoạt động của cuộc sống; ý nghĩa to lớn của giáo dục- đào tạo là ở chỗ: giáo dục- đào tạo là một nhân tố rất cơ bản đối với sự phát triển của văn hóa, là một trong những hiện tượng tiềm ẩn, có khả năng "hóa thân", "thẩm thấu" không chỉ vào từng yếu tố của lực lượng sản xuất, mà cả quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Vì vậy giáo dục- đào tạo luôn là nền móng đối với toàn bộ chiến lược phát triển con người và chiếm vị trí trọng yếu trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội.
Ngày nay, đặc biệt là ở các nước phát triển, nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế chính là tiềm năng khoa học, giâo dục và khả năng huy động chất xám của đất nước. Riêng Nhật Bản, 1/4 mức tăng trưởng kinh tế sau chiến tranh là nhờ vào giáo dục- đào tạo.
Như vậy, nói đến vai trò của sự nghiệp giáo dục- đào tạo trong giai đoạn hiện hay là phải nói đến vai trò động lực hàng đầu của nó trong tăng trưởng kinh tế. Bài học của sự thành công trong tăng trưởng kinh tế của các nước công nghiệp mới (NIC) là tài trợ cho các dự án phát triển nguồn lực con người, chia sẻ tổng sản phẩm thu nhập quốc dân ngày một nhiều thêm cho giáo dục- đào tạo. Có thể nói, để tránh tụt hậu xa hơn về kinh tế thì trước tiên phải tránh tụt hậu xa hơn về sự đầu tư cho giáo dục- đào tạo và khoa học- công nghệ.
Giáo dục- đào tạo có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế- xã hội nói chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng. ở Việt Nam ta, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự nghiệp giáo dục- đào tạo đang đứng trước những yêu cầu mới, cao hơn. Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khóa VII về định hướng chiến lược phát triển giáo dục- đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta chỉ tõ mục tiêu của của giáo dục- đào tạo hiện nay là:"Xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ thuật thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật; có sức khỏe"
Hơn nửa thế kỷ qua, đặc biệt là từ khi chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, nền giáo dục nước ta đã có những bước tiến đáng kể. Từ chỗ 95% dân số mù chữ, đến nay, đã có khoảng 90% dân số biết chữ. Đại bộ phận nhân dân có trình độ từ tiểu học trở lên; nước ta từ chỗ chỉ có ba trường phổ thông trung học đến nay đã có hơn 20.000 trường phổ thông các cấp. Năm học 1996-1997, cả nước có hơn 20 triệu học sinh với hơn 130 trườngĐại học, cao đẳng, gần 500 trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, gần 90 cơ sở được giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học... Cho đến nay, các loại hình trường lớp từ phổ thông, trung học chuyên nghiệp đến đại học tương đối đa dạng và phát triển rộng khắp, đội ngũ giáo viên được đào tao chính quy, có tâm huyết, luôn gắn bó với nghề và phát huy được trách nhiệm trong công tác giáo dục và đào tạo. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác đào tạo bước đầu đã được tăng cường, đáp ứng một phần nhu cầu đào tạo của các tập thể, cá nhân và các thành phần kinh tế khác. Hợp tác quốc tế về giáo dục- đào tạo được mở rộng...
Thành tựu của sự nghiệp giáo dục nước ta trong những năm qua là không thể phủ nhận, nhưng cũng còn những yếu kém, thể hiện ở chỗ chất lượng và hiệu quả của giáo dục- đào tạo chưa cao, duy mô còn nhỏ và manh mún, chưa đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao về nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới đất nước. Cơ cấu ngành nghề không cân đối, đào tạo và sử dụng chưa hình thành một cấu trúc chặt chẽ, dẫn đến hiện tượng trôi nổi chất xám. Đầu ra của đào tạo thì thừa, đầu vào của sử dụng thì thiếu...
Sở dĩ như vậy là vì một số nguyên nhân:
Thứ nhất, quy mô giáo dục- đào tạo mở rộng nhưung thiếu định hướng về chiều sâu, thiếu quy hoach ngành nghề đào tạo cho các trường, thiếu sự chỉ đạo đồng bộ về nội dung, chương trình đào tạo.
Thứ hai, phương pháp đào tạo chậm đổi mới, chưa phát huy được tính chủ động sáng tạo của học sinh.
Thứ ba, nội dung giáo dục- đào tạo chưa gắn chặt với lao động sản xuất. Nhà trường- gia đình- xã hội chưa kết hợp chặt chẽ với nhau.
Thứ tư, chưa có chính sách cụ thể đối với giáo viên để khuyến khích họ nâng cao trình độ.
Thứ năm, đầu tư cơ sở vật chất- kỹ thuật cho các trường thiếu đồng bộ. Trang thiết bị và đồ dùng học tập chưa hiện đại, chậm cải tiến so với sự phát triển khoa học-kỹ thuật trên thế giới.
Từ thực trạng của sự nghiệp giáo dục- đào tạo nước ta hiện nay, để làm cho g
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50678.doc