Đề tài Các giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh quá trình hình thành các công ty cổ phần ở nước ta, và để nâng cao vai trò của công ty cổ phần trong phát triển kinh tế Việt Nam thời gian tới

Thời gian gần đây, tốc độ CPH diễn ra có nhanh hơn so với trước đây. Tính riêng 8 tháng đầu năm 1999 đã CPH được 98 doanh nghiệp,trong khi hơn 7 năm trước (từ tháng 5-1990 đến hết năm 1998) chỉ CPH được 108 doanh nghiệp. Có thể nói đây là tiến bộ vượt bậc về CPH. Tuy nhiên so với chỉ tiêu mà chính phủ đề ra cho năm 1999 là 400 doanh nghiệp thì mới chỉ đạt 24,5%. Như vậy tiến độ CPH vẫn còn rất chậm. Vậy những nguyên nhân nào khiến cho việc CPH lại chậm như vậy?

 

doc46 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh quá trình hình thành các công ty cổ phần ở nước ta, và để nâng cao vai trò của công ty cổ phần trong phát triển kinh tế Việt Nam thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khi đất nước đã chuyển sang thời kì hoà bình, tập trung vào việc xây dựng kinh tế, thì việc kéo dài quá lâu cơ chế quản lí này sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, và đẩy nền kinh tế rơi vào sự khủng hoảng. Vậy có cách giải quyết nào đối với vấn đề này? Câu trả lời hay nhất là cổ phần hoá các doanh nghiệp. Sự đổi mới tư duy về phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, có sự điều tiết, định hướng của nhà nước đã cho phép từng bước thực hiện việc xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế quản lí mới thích ứng với điều kiện phát triển hiện nay.Từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế nước ta đã thực sự bước sang hoạt động theo cơ chế thị trường. Các chính sách về kinh tế, tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước đã được thay đổi theo hướng tự do hoá giá cả. Nhờ có sự thay đổi mới này mà chi phí ngân sách nhà nước cho bù lỗ bù giá cho khu vực kinh tế nhà nước đã giảm đi đáng kể. Năm 1992, nhà nước đã có chủ trương tiến hành thí điểm cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước và ban hành những quyết định quan trọng làm cơ sở pháp lí cho việc triển khai thực hiện cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước là chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta về đổi mới, nhằm góp phần thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết cuộc họp thứ IV Quốc hội khoá IX (tháng 12/1993) đã ghi rõ phải: “đổi mới cơ bản tổ chức và cơ chế quản lí doanh nghiệp, thực hiện các hình thức cổ phần hoá thích hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất để thu hút thêm các nguồn vốn, tạo thêm động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả ”. Với định hướng đó, nhà nước ta đã thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp, giảm bớt số lượng các doanh nghiệp nhà nước từ trên 12.000 năm 1991 xuống còn hơn 6.000 năm 1995. Đến cuối năm 1999 nước ta đã có gần 400 doanh nghiệp cổ phần. Cổ phần hoá doanh nghiệp là một hướng đi hoàn toàn đúng đắn của nước ta trong giai đoạn hiện nay, thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Chúng ta không nên quá vội vàng xoá bỏ sở hữu tư nhân như giai đoạn trước đây, làm kìm hãm sự phát triển của đất nước. Trước hết chúng ta phải xây dựng lực lượng sản xuất phát triển, không thể làm trái với quy luật:”quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất vàtrình độ phát triển của lực lượng sản xuất ”. Do vậy, muốn tiến đến một quan hệ sản xuất cao hơn, trước hết chúng ta phải nâng cao trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đưa nền kinh tế nước ta phát triển cao hơn. Sự lựa chọn cổ phần hoá doanh nghiệp là một bước đi đúng đắn của nước ta. Sự phát triển cổ phần hoá là một tất yếu khách quan, nhưng ngoài ra, ở nước ta còn có một số yếu tố thuận lợi tác động đến việc hình thành các công ty cổ phần: + Điều kiện và môi trường pháp lí về cơ bản đã được xác lập đặt tất cả các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Việc thực hiện “thương mại hoá” các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế là tiền đề cơ bản cần thiết để từng bước thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. + Tình hình kinh tế của đất nước đang biến đổi theo chiều hướng tích cực. Giá cả thị trường đã được duy trì tương đối ổn định, mức lạm phát đã được kiềm chế, đồng tiền Việt Nam đã giữ được giá, lãi suất đã ở mức khuyến khích các hoạt động đầu tư vào sản xuất kinh doanh...Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi về tâm lý cho mọi người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu trong các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá. + Nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của nhà nước mấy năm qua, thu nhập của dân cư được nâng cao. Số người khá giả ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là lượng cầu tiềm năng có thể đáp ứng cho các chứng khoán phát hành ở những doanh nghiệp được cổ phần hoá. + Hoạt động trong cơ chế thị trường với thời gian chưa lâu nhưng ở nước ta đã xuất hiện đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp cá khả năng kinh doanh lớn, người lao động trong các doanh nghiệp đã thích ứng được về ý thức,tác phong và hiệu quả công việc trong điều kiện cạnh tranh về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Điều này sẽ làm cho nhà đầu tư yên tâm bỏ vốn, góp phần thuận lợi cho việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. + Với luật đầu tư nước ngoài và sự xuất hiện của nhiều chi nhánh ngân hàng kinh doanh của nước ngoài tại Việt Nam đã góp phần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư bằng cổ phiếu vào các doanh nghiệp nhà nước sẽ được tiến hành cổ phần hoá. + Ngoài ra, với những kinh nghiệm thực tế phong phú từ các nước trên thế giới trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sẽ là những bài học quý giá và bổ ích để nhà nước tiến hành hoạch định chính sách và tổ chức trực hiện công việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Với những điều kiện thuận lợi như vậy, cùng với sự quyết tâm của nhà nước ta thì chắc chắn trong một thời gian ngắn nữa, công ty cổ phần sẽ phát triển mạnh mẽ ở nước ta. Vậy có những cách nào để tiến tới cổ phần hoá một doanh nghiệp? Hay con đường nào để hình thành công ty cổ phần? 2- Con đường hình thành công ty cổ phần 2.1- Lựa chọn hình thức cổ phần hoá Tuỳ theo tình hình và yêu cầu cụ thể, các doanh nghiệp nhà nước có thể lựa chọn và vận dụng một trong bốn hình thức cổ phần hoá dưới đây: Giữ nguyên giá trị phần vốn hiện có của Nhà nước tại các doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu, thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp. Theo hình thức này thì giá trị cổ phần của Nhà nước góp vào công ty bằng giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp trừ chi phí cổ phần hoá, giá trị ưu đãi cho người lao động và giá trị phần trả dần của người lao động nghèo theo quy định của Nhà nước. Bán một phần giá trị vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. Theo hình thức này thì Nhà nước sử dụng một phần giá trị thực tế vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để bán cho các cổ đông. Tách một bộ phận của doanh nghiệp để cổ phần hoá. Theo hình thức này thì một bộ phận của doanh nghiệp có thể hoạt động độc lập và hạch toán riêng giá trị tài sản, được tách ra để cổ phần hoá (phân xưởng sản xuất, cửa hàng, bộ phận dịch vụ..). Bán toàn bộ giá trị vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần. Theo hình thức này, Nhà nước không tham gia cổ phần ở công ty cổ phần. 2.2- Các bước tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước gồm 3 bước chủ yếu: - Bước 1: Doanh nghiệp cổ phần hoá lập Ban quản trị, để phổ biến chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp cho toàn bộ cán bộ công nhân viên, xác định lại giá trị doanh nghiệp, lập đề án cổ phần hoá doanh nghiệp, dự thảo điều lệ doanh nghiệp cổ phần, lập dự toán chi phí cho công tác cổ phần hoá. Các cơ quan quản lí nhà nước có nhiệm vụ hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện các công việc nói trên. Xem xét và kiểm tra đề án cổ phần hoá và dự thảo điều lệ của doanh nghiệp cổ phần để xác định tính thực thi của đề án. Bước 2: Là giai đoạn sử lí các tồn tại trước khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần: doanh nghiệp phải tổ chức báo cáo công nợ, xử lí các tài sản vật tư ứ đọng, không cần dùng…, mời công ty kiểm toán họp pháp xác định giá trị doanh nghiệp, đăng kí danh sách các cổ đông mua cổ phần, hoặc người lao động trong doanh nghiệp vay để mua chịu cổ phần . Bước 3: Là bước thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: Sau khi đã có quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, doanh nghiệp báo cáo việc thực hiện cổ phần của doanh nghiệp trên thông tin đại chúng, mở sổ đăng kí cổ đông, mở tài khoản kho bạc, tổ chức thu tiền của cổ đông đã đăng kí mua cổ phần, tiến hành Đại hội cổ đông và đăng kí kinh doanh với các cơ quan chức năng. 2.3- Con đường hình thành công ty cổ phần Công ty cổ phần là những công ty được hình thành trên cơ sở kiên hiệp nhiều cá nhân bằng cách phát hành và bán cổ phiếu. Lợi nhuận của công ty được phân phối giữa các cổ đông theo số lượng cổ phiếu, tuỳ theo pháp luật từng nước mà công ty cổ phần được tổ chức dưới các hình thức khác nhau. Nước ta, việc hình thành và phát triển công ty cổ phần về cơ bản được thực hiện qua 3 con đường: Con đường truyền thống: ở nước ta sau nhiều năm do nôn nóng, chủ quan duy ý chí và giáo điều nên đã xoá bỏ nền kinh tế tư nhân, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, khu vực kinh tế tư nhân nói chung đã được khôi phục và phát triển trong chừng mực nhất định, nên đã xuất hiện một số công ty trách nhiệm hữu hạn. Nước ta đi nên CNXH từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, sản xuất nhỏ là chủ yếu, nên lực lượng tư nhân năng lực về vốn không lớn, lại do ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp làm cho mai một. Việc hình thành công ty cổ phần theo con đường này đòi hỏi phải có một quá trình, đặc biệt là phụ thuộc vào chính sách khuyến khích và giúp đỡ của Nhà nước đối với nền kinh tế tư nhân nói chung. - Con đường cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Bằng con đường này, các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá sẽ tồn tại nhiều dạng khác nhau: + Doanh nghiệp nhà nước bán một phần cổ phiếu cho công nhân viên của doanh nghiệp. + Doanh nghiệp bán một phần cổ phiếu cho cả người trong và ngoài doanh nghiệp. + Loại doanh nghiệp nhà nước được giữ nguyên, nhưng có phát hành cổ phiếu, trái phiếu để tăng vốn. + Doanh nghiệp nhà nước được thành lập bằng cách phát hành và bán cổ phiếu ngay từ đầu khi thành lập. + Tách một phần vốn của doanh nghiệp nhà nước ra để tạo lập doanh nghiệp mới. Con đường thông qua liên doanh liên kết giữa kinh tế nhà nước với tư nhân tư bản trong nước và nước ngoài. Đây là con đường phát triển công ty cổ phần được hình thành khá nhanh ở nước ta. Cho đến nay đã có khoảng 50 công ty nhà nước góp vốn với tư nhân trong nước. Các công ty liên doanh này phát triển ngày càng nhiều là rất cần thiết nhằm tạo thế và lực cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển, tăng nhanh sức hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài trên thị trờng trong nước và quốc tế. Trong 3 con đường cổ phần hoá thì cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sẽ phát triển nhiều nhất ở nước ta. Bởi vì hiện nay doanh nghiệp nhà nước chiếm trên 80% tổng số vốn của toàn bộ nền kinh tế nước ta, song chỉ đóng góp 44% GDP, do vậy cần cải tổ lại doanh nghiệp nhà nước bằng cách bán đứt, cho thuê, giải thể, sát nhập hoặc chuyển thành công ty cổ phần, trong đó nhà nước có một phần vốn. Đây là xu hướng phù hợp với điều kiện Việt Nam và xu thế thế giới. 3- Loại hình công ty cổ phần 3.1- Loại hình công ty cổ phần trên thế giới Trên thế giới có những loại hình công ty cổ phần sau: + Công ty vô danh: Là một loại công ty trách nhiệm hữu hạn, trong đó các cổ đông của công ty chỉ chịu trách nhiệm với công ty trong phạm vi phần vốn hoặc cổ phần mà họ đóng góp vào công ty. Các công ty vô danh đều được tổ chức theo mô hình : Đại hội cổ đông- hội đồng quản trị- giám đốc điều hành, bên cạnh còn có ban kiểm soát với chức năng thay mặt các cổ đông kiểm tra giám sát các hoạt động của công ty. + Công ty trách nhiệm hữu hạn: Công ty trách nhiệm hữu hạn về cơ bản có nhiều điểm giống với công ty cổ phần, song có một số điểm khác: Pháp luật thường quy định số cổ đông tối đa đối với các công ty loại này; công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều cổ đông không được phát hành cổ phần và trái phiếu trong quá trình kinh doanh, trong trường hợp thiếu vốn thì công ty có thể huy động các cổ đông đống góp thêm: công ty được tổ chức gọn nhẹ,có thể do một ban quản trị điều hànhhoặc chỉ do một người đứng lên quản lý công ty do đại hội cổ đông bầu ra. + Công ty dân sự: Là công ty trách nhiệm vô hạn có tư cách pháp nhân, trong đó có các cổ đông có trách nhiệm vô hạn với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, có nghĩa là cổ đông phải đem sản nghiệp riêng của mình ra để bảo đảm cho công việc kinh doanh cuả công ty. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, công ty không được phát hành cổ phiếu mà chỉ được huy động vốn từ các cổ đông. + Công ty hợp tư cổ phần: Trong hoạt động kinh doanh thường xuất hiện những mâu thuẫn một số người có vốn nhưng pháp luật không cho phép họ kinhh doanh, hoặc một số người có vốn song lại không có năng lực kinh doanh. Bên cạnh đó lại có những người có trình độ kinh doanh nhưng lại không có vốn. Vì vậy họ đã gặp nhau và hợp nên những công ty hợp tư cổ phần. Các hội viên quản trị có trách nhiệm và nghĩa vụ giống như hội viên của công ty hợp doanh. Các hội viên gồm những người có vốn góp vào công ty, họ không có quyền lãnh đạo công ty mà chỉ được hưởng lợi tức cổ phần. + Công ty hợp doanh: Là công ty trách nhiệm vô hạn có tư cách pháp nhân. Các thành viên tham gia công ty hợp doanh chịu trách nhiệm như một người đồng mắc nợ. Trường hợp công ty hợp doanh không thanh toán được cho các chủ nợ thì các chủ nợ này đòi các thành viên phải thanh toán. Các thành viên không có quyền từ chối trả nợ. 3.2- Loại hình công ty cổ phần ở Việt Nam Đặc trưng của công ty cổ phần là có nhiều chủ sở hữu. Sự can thiệp của mỗi chủ sở hữu vào công ty ảnh hưởng đến mức độ nào, trước hết là tuỳ thuộc vào số lượng cổ phiếu mà họ nắm giữ, cổ đông nào nhiều cổ phiếu sẽ chi phối hoạt động của công ty. Dựa trên đặc điểm này, tức là từ góc độ sở hữu, có thể chia công ty cổ phần thành các loại hình sau: + Công ty cổ phần 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước. Trong công ty này, các doanh nghiệp nhà nước dùng vốn của mình để mua lại hoặc góp thêm vốn dưới hình thức cổ phần, từ đó biến một doanh nghiệp nhà nước thuần tuý theo kiểu mô hình truyền thống sang công ty cổ phần. + Công ty cổ phần có trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước, phần vốn còn lại thuộc sở hữu của khu vực kinh tế tư nhân. + Công ty cổ phần có dưới 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước, thậm chí có rất ít hoặc hoàn toàn không có vốn nhà nước tham gia. Loại hình công ty cổ phần này hoạt động theo luật công ty và hoàn toàn theo nguyên tắc thị trường, vì khả năng can thiệp và quyền lực của nhà nước với tư cách là cổ đông lớn ít hơn, ngoại trừ một vài trường hợp nhà nước có quy định riêng. Với mục tiêu cổ phần hoá hiện nay, cần chú trọng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo hướng chuyển nhượng một phần quyền sở hữu nhà nước sang các thành phần kinh tế. Trường hợp nhà nước ít cần can thiệp đến có thể chuyển sang công ty cổ phần trong đó nhà nước ít hoặc thậm chí không tham gia ở các công ty cổ phần đó. II/ Vai trò của công ty cổ phần ở nước ta hiện nay 1- Tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước trong thời gian gần đây và những thành công bước đầu trong việc thí điểm công ty cổ phần. Doanh nghiệp nhà nước(DNNN) là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của Nhà nước. Sự hình thành và phát triển các DNNN ở Việt Nam đã có lịch sử hơn 40 năm. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, sự ra đời ồ ạt hàng loạt DNNN, việc thực hiện chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư nhân với cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho nền kinh tế dần dần trở thành một “công trường thống nhất” nhưng thiếu sức sống, kém năng động, linh hoạt, hiệu quả kinh tế rất thấp. Chúng ta đã không thấy ngay điều đó bởi vì, quy luật chiến tranh và viện trợ của nhiều nước trên thế giới không thúc bách chúng ta phải tính toán chặt chẽ hiệu quả kinh tế. Sau đó, những thắng lợi của cuộc trường kỳ kháng chiến đã khoả lấp tính không hợp lí của cơ cấu kinh tế đã hình thành, trong đó quốc doanh và hợp tác xã chiếm tỉ trọng gần như tuyệt đối. Nhưng từ cuối những năm 70, tình hình trong nước và trên thế giới có những thay đổi, nguồn viện trợ của các nước giảm sút nhiều, nền kinh tế phải đương đầu với những khó khăn chồng chất do mất cân đối vật tư, hàng hoá, buộc chúng ta phải xem xét lại cơ cấu và cơ chế kinh tế. Chúng ta bắt đàu nhận ra những mặt bất hợp lí của cơ cấu kinh tế, thấy rõ một bộ phận lớn các DNNN sản xuất kinh doanh trì trệ, thua lỗ triền miên. Đầu những năm 80, nền kinh tế đang suy thoái, các mâu thuẫn xuất hiện liên tục ở khắp mọi nơi, mọi chỗ trong khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể. Những quan điểm giáo điều về “ cải tạo XHCN ” đã cản trở những tìm tòi đổi mới kinh tế nói chung , đổi mới DNNN nói riêng. Từ thực tiễn hoạt, nghiên cứu tìm tòi, thể nghiệm những chủ trương, giải pháp cải tiến quản lý kinh tế – xã hội đầu những năm 80, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Trong đổi mới kinh tế, cùng với chủ trương phát triển nhiều thành phần kinh tế, Đảng đã đặt ra vấn đề phải nhanh chóng tổ chức, sắp xếp lại khu vực kinh tế quốc doanh và đổi mới quản lý các DNNN nhằm phát huy vai trò củakinh tế quốc doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần. Để cải cách và sắp xếp lại các DNNN, từ đầu những năm 90, nhà nước ta đã chủ trương CPH các doanh nghiệp. Và sau gần 10 năm thực hiện, đã thu được những kết quả khả quan. Tính từ năm 1991 đến năm 1997 mới CPH được 18 DNNN với tổng số vốn 121.348 triệu đồng. Từ khi chuyển sang hoạt động dưới hình thức CPH thì sản xuất kinh doanh phát triển, Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động đều có lợi. Những kết quả cụ thể như sau: - Đối với Nhà nước( số liệu của 18 doanh nghiệp): do sản xuất phát triển, doanh thu tăng lên, nên tiền thuế của các CTCP nộp cao hơn khi còn là DNNN. Ngoài ra, Nhà nước còn thu được 37.784 triệu đồng từ các nguồn sau: + Tiền thu về bán cổ phần: 30.207 triệu đồng. + Phần lợi tức của Nhà nước từ các CTCP: 6,995 triệu đồng + Lãi tiền vay mua chịu cổ phần của các cán bộ công nhân viên: 5,22 triệu đồng chưa kể số tiền cán bộ công nhân viên trong các CTCP mua chịu cổ phiếu là 14.749 triệu đồng sau 5 năm phải trả Nhà nước) - Đối với doanh nghiệp: Vốn bình quân tăng 45%/năm, doanh thu tăng bình quân 56,9%/năm, lợi nhuận tăng bình quân 70,2%/năm, nộp ngân sách tăng bình quân 98%/năm, thu nhập người lao động tăng bình quân 20%/năm, tỉ suất lợi nhuận trên doanh thu 19,1%/năm, tỉ suất lợi nhuận trên vốn 74,6%/năm. - Đối với người lao động và xã hội: thu nhập của người lao động cao hơn khi còn là quốc doanh từ 1,5-2 lần chưa kể nguồn thu từ lợi tức cổ phần khoảng 22-24%/năm. Những số liệu trên thể hiện những kết quả thu được từ 18 doanh nghiệp được CPH trước năm 1998. Đến tháng 6/1998 cả nước ta đã CPH được 30 DNNN. Đến 31-12-1999 có thêm 340 DNNN được chuyển thành CTCP. Riêng năm 1999 đã có 250 doanh nghiệp , gấp 8 lần so với 7 năm trước. Như vậy về mặt số lượng, thì tốc độ CPH đã được đẩy mạnh lên rất nhiều. Nhiều bộ, ngành, địa phương, tổng công ty Nhà nước đã tích cực thực hiện và có nhiều kết quả đáng khích lệ. Ta có những kết quả cụ thể sau: Về hiệu quả sản xuất kinh doanh: qua kết quả báo cáo hoạt động năm 1999 của 20 doanh nghiệp đã CPH có thời gian hoạt động trên 1 năm kể cả những doanh nghiệp trước đó hoạt động thua lỗ cho thấy doanh thu tăng bình quân gần 2 lần, lợi nhuận tăng bình quân hơn 2 lần, vốn tăng gần 2,5 lần ( bao gồm cả tích luỹ từ lợi nhuận và cả từ thu thêm vốn đàu tư từ bên ngoài), nộp ngân sách Nhà nước tăng bình quan 2 lần so với trước khi CPH. Về thu nhập và việc làm: các DNNN được CPH bảo đảm việc làm và thu nhập của người lao động được ổn định và có chiều hướng tăng lên. Do mở rộng sản xuất, số lao động ở các doanh nghiệp tăng bình quân 12%, thu nhập của người lao động làm việc trong CTCP tăng bình quân hàng năm gần 20%, chưa kể thu nhập từ cổ tức. Là chủ nhân thực sự của CTCP, người lao động đã nâng cao tính chủ động, ý thức kỷ luật, tinh thần tự giác, tiết kiệm trong lao động sản xuất, góp phần làm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ngày được nâng cao, mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân, cho doanh nghiệp, và cho xã hội. Về huy động vốn: tại thời điểm CPH 370 DNNN CPH có giá trị phần vốn nhà nước 1.349 tỉ đồng, qua thực hiện CPH đã thu hút thêm 14,32 tỉ đồng của các cá nhân , pháp nhân thuộc mọi thành phần kinh tế khác đầu tư vào các CTCP, đồng thời Nhà nước cũng đã thu hồi lại được 714 tỉ đồng để đầu tư vào các DNNN khác và giải quyết một số chính sách cho người lao động trong doanh nghiệp cổ phần. Phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp CPH khi được xác định lại, nhìn chung đều tăng từ 10-50% so với giá trị ghi trên sổ sách. Như vậy, khi thực hiện CPH, vốn Nhà nước không những không mất đi, được bảo tồn mà còn tăng thêm. Nguồn vốn nhàn rỗi được thu hút từ ngoài xã hội được huy động thêm vào doanh nghiệp, góp phần đổi mới công nghệ của từng doanh nghiệp CPH. 2- Các mục tiêu CPH doanh nghiệp Việc CPH các doanh nghiệp nhà nước là nhằm các mục tiêu sau: Nâng cao hiệu quả hoạt động các DNNN và giảm thâm hụt ngân sách là mục tiêu đầu tiên và trực tiếp. Xoá bỏ độc quyền được Nhà nước quy định cho một số DNNN, buộc những doanh nghiệp này phải phát huy cạnh tranh để nâng cao hiệu quả so với khu vực kinh tế tư nhân, và do đó thu hút các nhà đầu tư tư nhân vào các ngành, các lĩnh vực lâu nay Nhà nước độc quyền nhưng xét thấy không còn cần thiết nữa. Nhà nước có điều kiện để tập trung vào những ngành then chốt, mũi nhọn đòi hỏi hàm lượng vốn và khoa học kĩ thuật cao để nâng cao sức canh tranh các sản phẩm quan trọng của đất nước trên thị trường quốc tế, cũng như tập trung vào các chức năng ổn định kinh tế vĩ mô. Thực hiện một sự phân phối bình đẳng có lợi cho những người có thu nhập thấp, tạo sự ổn định về mặt xã hội trong giai đoạn nền kinh tế đang bị trì trệ. Giảm các khoản nợ nước ngoài đang ngày càng tăng do phải bù đắp các khoản thâm hụt ngân sách để trợ cấp cho các DNNN Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài để đổi mới kỹ thuật và học tập quản lý, tạo ra nột nền kinh tế thị trường mở cửa để tăng sức cạnh tranh của các DNNN, nâng cao các chất lượng hàng hoá và dịch vụ trong nước. Tạo dựng và phát triển một thị trường tài chính gồm thị trường tư bản, thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ hoàn chỉnh trong nước. Huy động một lượng vốn nhất định ở trong và ngoài nước để đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Tạo điều kiện cho người lao động làm chủ doanh nghiệp và sau đó nhà nước sẽ cơ cấu lại khu vực Nhà nước, nhằm tạo động lực nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. 3- Vai trò của CTCP trong phát triển kinh tế Việc tiến hành CPH là hình thức sản xuất kinh doanh cá khả năng huy động được nhiều vốn đầu tư ở cả trong và ngoài nước. Điều này góp phần giúp cho công ty có một lượng vốn tương đối lớn để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, nâng cao trình độ sản xuất và quản lý kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, tiếp thu kinh nghiệm quản lí tiên tiến, ứng dụng công nghệ hiện đại. Trong CTCP, quyền lợi của những người lao động trong công ty, đồng thời cũng là quyền lợi của các cổ đông, gắn liền với sự thành bại của hoạt động sản xuất kinh doanh, vì thế họ rất đoàn kết gắn bó và thống nhất trong việc tìm kiếm và đưa ra những phương hướng hoạt động phù hợp nhất đối với doanh nghiệp, nhằm củng cố tăng cường sức cạnh tranh của sản phẩm do họ sản xuất ra, họ quan tâm đến công việc của công ty và lao động tích cực với tinh thần trách nhiệm cao. Người lao động làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, một mặt vì quyền lợi của mình, mặt khác họ yêu cầu Hội đồng quản trị, giám đốc điều hành phải chỉ đạo và lãnh đạo công ty hoạt động có hiệu quả để có lợi nhuận cao hơn. Điều này đã tạo ra một động lực mới cho công ty. Việc CPH cũng làm cho phương pháp quản lý, điều hành doanh nghiệp thay đổi. Lãnh đạo công ty từ việc là giám đốc DNNN do cấp trên chỉ định sang hình thức cổ đông bầu ra Hội đồng quản trị, ban kiểm soát và ban giám đốc. Do đó, trách nhiệm của Hội đồng quản trị và ban giám đốc điều hành cao hơn, hoạt động của công ty có tính đến hiệu quả cụ thể hơn. Việc CPH đã khắc phục việc buông lỏng quản lý tài sản của Nhà nước, xoá bỏ tình trạng vô chủ của doanh nghiệp. Trước đây, mặc dù đã có chủ trương trao quyền tự quản cho các doanh nghiệp nhà nước và đã đạt được một số thành quả nhất định, nhưng mới chỉ đẩy lùi được chế độ bao cấp của nhà nước đối với DNNN, cho nên tình trạng vô trách nhiệm, lãng phí của công vẫn chưa được khắc phục. Khi chuyển DNNN sang CTCP thì mặc nhiên điều này sẽ không còn tồn tại. Các giám đốc CTCP phải tính toán chi li từng đồng, do đó đòi hỏi người giám đốc phải năng động, có tinh thần trách nhiệm cao, nếu xí nghiệp lỗ thì phải chịu một phần trách nhiệm, và nếu tiếp tục thua lỗ thì phải bãi miễn chức. CPH là chuyển từ hình thức sở hữu nhà nước sang sở hữu của nhiều cổ đông, tạo điều kiện cho người lao động làm chủ doanh nghiệp, khai thác và động viên mọi nguồn vốn trong xã hội vào hoạt động kinh doanh, làm cho tài sản xã hội tăng lên. CPH huy động được nguồn vốn trong xã hội, cung cấp cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển, một mặt vừa góp phần tháo gỡ được khó khăn cho ngân sách Nhà nước; không phải chu cấp cho doanh nghiệp; mặt khác, vốn và tài sản của DNNN, nhờ CPH được thu hồi lại sẽ được đầu tư, mở rộng sản xuất, tăng thêm tài sản cố định...góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Việc CPH cũng có vai trò kích thích sự phát triển của các công ty, bởi vì, sự bao cấp của Nhà nước mất đi, Nhà nước chỉ góp một lượng vốn nhất định trong mỗi doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp phải tự thân vận động, nếu hoạt động

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35085.doc
Tài liệu liên quan