MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1
II. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 2
1. Khái quát khái niệm của SME và vai trò của SME trong nền kinh tế. 2
2. Đánh giá thực trạng xuất khẩu của SME. 2
3. Đề xuất một số biện pháp hỗ trợ SME nhằm đẩy mạnh xuất khẩu. 2
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 2
1. Đối tượng nghiên cứu: Một số giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ đẩy mạnh xuất khẩu. 2
2. Phạm vi nghiên cứu: các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 2
V. NỘI DUNG 2
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT KHÁI NIỆM VỀ SME VÀ VAI TRÒ CỦA SME TRONG NỀN KINH TẾ 4
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SME 4
1.1.1. Tiêu thức xác định SME ở một số nước trên thế giói 4
1.1.2. Tiêu thức xác định SME ở Việt Nam 6
a. Định nghĩa SME ở Việt Nam 6
b.Tiêu thức xác định SME ở Việt Nam. 7
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA SME Ở VIỆT NAM 8
1.2.1 .Qúa trình hình thành và phát triển SME ở Việt Nam 8
a. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 1995 8
c. Trong giai đoạn hiên nay 10
1.2.2. Đặc điểm chung của các SME ở Việt Nam 10
a. Về số lượng và cơ cấu theo nghành nghề 10
b.Về phân bổ SME theo vùng lãnh thổ 11
c.Về vốn 11
d. Về công nghệ, thiết bị của SME 11
e. Về thị trường và khả nang cạnh tranh 11
g. Về lao động và đội ngũ quản lý của SME 12
1.3. VAI TRÒ CỦA SME TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN 12
1.3.1 Mức độ đong góp của SME Viêt Nam trong nền kinh tế 12
1.3.2. SME giữ vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm 13
1.3.3. SME làm cho nền kinh tế năng động và có hiệu quả 13
1.3.4. SME góp phần tích cục trong việc lưu thông hàng hóa và XK 14
1.3.5. Các SME dễ dàng duy trì sự tự do cạnh tranh 14
1.3.6. Các SME có khả năng ứng biến nhanh nhạy 15
1.3.7. Các SME là nơi đào tạo các nhà doanh nghiệp 16
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 17
2.1. Khái quát hoạt động xuất khẩu của SME ở Việt Nam hiện nay 17
2.1.1. Về số lượng SME 17
2.1.2. Xét về ngành nghề kinh doanh 18
2.1.3. Xét về doanh thu của các SME 19
2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA SME Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 21
2.2.1. Những đóng góp của SME vào kim ngạch xuất khẩu ở Việt Nam. 22
2.2.2. Tình hình đầu tư của SME nhằm đẩy mạnh xuất khẩu 22
2.2.3. Về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu SME 24
2.3. CƠ HỘI VÀ NHỮNG THÁCH THỨC CỦA SME TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU. 27
2.3.1. Cơ hội của SME trong hoạt đọng xuất khẩu 27
2.3.2. Những thách thức mà SME Việt Nam gặp phải trong hoạt động xuất khẩu. 29
a. Khó khăn về vốn hoạt động 29
b. Khó khăn về tìm kiếm về thị trường xuất khẩu 30
c. Khó khăn trong việc tiếp cận nguồn thông tin. 31
d. Sự cản trở của các quy chế thương mại 31
e. Các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước đối với SME trong thời gian qua còn rất nhiều hạn chế. 31
2.4. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA SME Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 33
2.4.1. Ưu điểm 33
2.4.2. Các mặt hạn chế 34
2.5. CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ XUẤT KHẨU CHO SME Ở VIỆT NAM HỊÊN NAY 36
2.5.1. Chính sách hỗ trợ tín dụng đối với các SME 36
a. Về kim ngạch 36
b. Mối quan hệ giữa các SME với ngân hàng trong hoạt động hỗ trợ tín dụng.
c. Đánh giá hoạt động tín dụng đối với SME 40
2.5.2. Chính sách thuế trong việc hỗ trợ SME 41
a. Các chính sách 41
b. Đánh giá việc thực hiện các chính sách thuế đối với SME 42
2.5.3. Chính sách thị trường sản phẩm hỗ trợ các SME 43
2.5.4. Các biện pháp hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu 46
2.5.5. Các quy chế thương mại trong việc hỗ trợ SME 48
CHƯƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP HỖ TRỢ XUẤT KHẨU CHO CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 52
3.1. TÍNH CẤP THIẾT PHẢI HỖ TRỢ SME TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU. 52
3.2. KINH NGHIỆM HỖ TRỢ XUẤT KHẨU CHO CÁC SME CỦA MỘT SỐ NƯỚC 54
3.2.1. Các biện pháp hỗ trợ của Đài Loan 54
a. Về chiến lược kinh doanh 54
b. Về chính sách kinh tế 55
c. Về ngoại thương 56
3.3.2. Các biện pháp hỗ trợ của Malaysia 57
3.2.3. Các biện pháp hỗ trợ của Hàn Quốc. 59
a. Về chiến lược kinh doanh 60
b. Về chính sách tín dụng 60
c. Các biện pháp hỗ trợ 61
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HỖ TRỢ XUẤT KHẨU CHO CÁC SME Ở VIỆT NAM. 62
3.3.1. Các chính sách của Nhà nước. 62
a. Nâng cao và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước đối với SME 62
b. Đối sử công bằng giữa các khu vực kinh tế. 66
c. Đối với hoạt động hỗ trợ tín dụng cho SME để có vốn tham gia và xuất khẩu 66
d. Tiếp tục đổi mới chính sáchthuế theo hướng hỗ trợ cho SME 69
e. Thành lập các Qũy hỗ trợ SME trong hoạt xuất khẩu 70
3.3.2. Nhị định đối với các Bộ ngành. 72
a. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại đối với SME 72
b. Xây dưng hệ thống thông tin xuất khẩu. 73
c. Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường thế giới. 74
d. Tăng cường khả năng hỗ trợ cạnh tranh cho SME trên thị trường thế giới.
3.3.3. Kiến nghị đối với các nhà quản lý doanh nghiệp 76
KẾT LUẬN 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
85 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2800 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm đẩy mạnh xuất khẩu ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c thực hiện thông qua quỹ khấu hao cơ bản, qua lợi nhuận chích lại để sản xuất. Thứ ba là vay ngân hàng. Thế nhưng khả năng vay vốn từ ngân hàng của doanh nghiệp chỉ thực hiện được nếu triển vọng doanh thu của doanh nghiệp có khả năng trả nợ được trong hai năm.
Vì vậy phần lớn SME huy động vốn phi chinh thức với lãi xuất cao và không ổn định. Hiện nay, các doanh nghiệp này chưa có thị trướng vốn đặc biệt là thị trường vốn dài hạn. Mặt khác, hiệu quả sử dụng vốn còn thấp, chưa có sự hỗ trợ của các tổ chức trung gian như các tổ chức bảo lãnh tín dụng.
Khả năng tiếp cận công nghệ bị hạn chế: Như đã đề cập ở trên, hiện nay SME vẫn còn sử dụng máy móc, thiết bị lạc hậu từ hai đến ba thế hệ. Nguyên nhân chủ yếu là do vốn để nhập khẩu các thiết bị mới tiên tiến chưa có, mặt khác cũng do trình độ tay nghề công nhân còn yếu chưa bắt kịp với những thay đổi toàn bộ của khoa học kỹ thuật công nghệ.
Yếu kém trong công tác quản lý và tổ chức: Trình độ của các cán bộ còn thiếu kinh nghiệm, lúng túng. Đặc biệt khi kinh tế đang chuyển dịch cơ cấu gây nhièu khó khăn cho công tác quản lý và tổ chức.
Yếu kém trong quan hệ kinh doanh và mạng lưới tiêu thụ sản phẩm
Đối với nhưng SME thì những yếu kém này cũng rất phổ biến. Những khó khăn mà các doanh nghiệp thường gặp là:
+ Tiêu thụ sản phẩm trong thị trường trong nước, đặc biệt là tiêu thụ hàng xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
+ Thiếu khả năng nghiên cứu và phát triển ( S%D)để đáp ứng những thay đổi trong sản xuất hàng xuât khẩu ( mặt hàng mới, chất luợng hàng…) thường xuyen liên tục diễn ra trong nền kinh tế thị trường.
+ Its hoặc không có điều kiện tổ chức bồi dưỡng nâng cao kỹ thuật, tay nghề cho công nhân viên, nhất là nghiệp vụ maketing- xuất khẩu cho các cán bộ làm công tác xuất khẩu.
+ Trình độ hiểu biết về pháp luật còn yếu, đặc biệt những thông lệ quốc tế. Ngoài ra các doanh nghiệp này ít có điều kiện và khả năng XNK trực tiếp nên dễ bị thụ động.
2.5. CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ XUẤT KHẨU CHO SME Ở VIỆT NAM HỊÊN NAY
2.5.1. Chính sách hỗ trợ tín dụng đối với các SME
Qua hơn 10 năm đổi mới với chủ chương khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần, các SME ở nước ta đã được Nhà nước quan tâm hỗ trợ về nhiều mặt, trong đó có sụ hỗ trợ về tín dụng.
a. Về kim ngạch
Trong những năm qua, khoảng 80-90% tổng số dư nợ (từ 8.000-11.000 tỷ đồng) của Ngân hàng Công thương Việt Nam cho các SME vay. Mặc dù ngân hàng còn thiếu nguồn trung và dài hạn nhưng vẫn tập trung một khối lượng vốn đáng kể cho các SME vay trung gian, dài hạn để hỗ trợ cho việc mua sắm thiết bị, đổi mới công nghệ phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Tỷ trọng dư nợ trung hạn và dì hạn năm 1992 chiếm 6%; năm 1995 là 13,8% và năm 1996 là 12,1% (tỷ trọng năm 1996 có giảm nhưng số tuyệt đối tăng 240 tỷ đồng). Năm 1997 Ngân hàng Công Thương Việt Nam cho các SME ngoài quốc doanh vay chiếm 51,56% so với tổng dư nợ, 9 tháng năm 1997 dư nợ bình quân vay trung và dài hạn tăng 170 tỷ đồng (109%) so với cả năm 1996 (tạp chí ngân hàng, tháng 1-1998). Một chuyên gia về ngân hàng- ông Trần Sĩ Mạnh đưa ra những con số cho thấy tỷ trọng tín dụng của các ngân hàng cấp cho các SME trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng tăng: từ 43 % năm 1995 lên đến 51,8% năm 1999, mặc dù ông thừa nhận rằng khu vực này rất khó tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng thương mại quốc doanh, khó hơn nhiều so với ngân hàng thương mại cổ phần và một phần không nhỏ sự hỗ trợ của ngân hàng thương mại quốc doanh cho khu vực SME ngoài quốc doanh là cho vay chính sách ( được hiểu là hộ nông dân vay hoặc cho vay xóa đói giảm nghèo).
Các ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh cũng dành tới 32,5% cho các doanh nghiệp nhà nước vay và chỉ dành và chỉ dành 22,6% cho các SME ngoài quốc doanh. Các khoản tín dụng trung hạn và dài hạn của các Ngân hàng trong cả nước chiếm 34,5% , trong đó phần lớn các khoản tín dụng này (66,2%) dành cho DNNN, SME ngoài quốc doanh chỉ nhận được một phần ít ỏi là khoảng 5,4%. Nếu xác định các khoản hỗ trợ bằng ngoại tệ thì giưa năm 1998, 34% tổng dự án tín dụng được thực hiện bằng ngoại tệ. Trong đó DNNN chiếm khoảng 50% các khoản nợ bằng ngoại tệ.
Mặc dù, tín dụng là nguồn hỗ trợ mà các SME đặt hy vọng rất lớn, với mục đích đổi mới công nghệ, trang thiết bị và tìm kiếm thị trường xuất nhập khẩu. Nưng trên thực tế việc tiếp cận với các nguồn tín dụng này là một khả năng tương đối vô vọng đối với họ và nguồn tín dụng hỗ trợ chủ yếu là các tín dụng ngắn hạn. Theo những thống kê gần đây thì 80% tín dụng được chấp nhận hỗ trợ cho khu vực SME là tín dụng ngắn hạn. Những yêu cầu về thủ tục tín dụng, điều kiện thế chấp tài sản và hiệu quả xuất khẩu của cac SME là trở ngại chính cho việc hỗ trợ tín dụng này.
Việc hợp lý hóa cơ cấu lãi suất được bắt đàu từ năm 1990 và đã luôn luôn duy trì được lãi suất thực dương từ đó đến nay trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp nói chung và các SME nói riêng. Thời kỳ 1995-1996 ở nước ta với trần lãi xuất là 2,3% /tháng thì các doanh nghiệp sản xuất chế biến hàng xuúat khẩu được ngân hàng cho vay với lãi suất 1,2%/tháng. Vừa qua, Chính phủ đã có điều chỉnh lãi suất (QĐ 175/CP là 9%/ năm xuống 7%/ năm) hoặc việc xóa bỏ sự phân biệt lãi suất tín dụng cho vay các DNNN và các SME ngoài quốc doanh. Sự điều chỉnh này đã giúp đỡ các SME mạnh dạn vay vốn xuất khẩu, có điều kiện hạ giá thành và nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hóa của họ trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, các SME hiện nay khó khi tiếp cận với nguồn tín dụng hỗ trợ cũng như khó có thể chấp nhận lãi suất và các chi phí tín dụng khác khi chúng vượt quá mức mà SME có thể chấp nhận được. Điều này thường làm cho các SME gói gọn hoạt động xuất khẩu trong phạm vi số vốn tự có hạn hệp của mình.
b. Mối quan hệ giữa các SME với ngân hàng trong hoạt động hỗ trợ tín dụng.
Hiện nay, để tiến hành hoạt động xuất khẩu các SME ngoài quốc doanh qua điều tra đều có quan hệ với Ngân hàng, trong đó ngân hàng ngoài quốc doanh vẫn là ngân hàng chiếm ưu thế, có số lượng SME quan hệ hơn hẳn các loại ngân hàng khác, điều đó được thể hiện dưới hình sau:
Sơ đồ 3: Tỷ lệ mối quan hệ giứa SME với các ngân hàng trong hoạt động hỗ trợ tín dụng.
% Doanh nghiệp trả lời qua điều tra của CIEM có các quan hệ với các NH
1: Ngân hàng liên doanh (8%)
2: Ngân hàng ngoài quốc doanh (19%)
3: Ngân hàng quốc doanh. (75%)
Sơ đồ 4: Các loại dịch vụ ngân hàng mà SME thường sử dụng (% doanh nghiệp trả lời được sự hỗ trợ của ngânh hàng qua điều tra của CIEM).
Nguồn: CIEM
1. Mở L/C (53.5%) 4. Bảo lãnh (4.4%)
2. Thế chấp (21.3%) 5. Tín chấp (3.8%)
3. Uỷ thác (14.2%)
c. Đánh giá hoạt động tín dụng đối với SME
Qua cuộc điều tra của CIEM và MPDE, số doanh nghiệp cho biết có được hưởng tín dụng xuất khẩu và tín dụng ưu đãi chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ là 25% trong tổng số doanh nghiệp được điều tra. Việc hỗ trợ lãi suất cho hoạt động xuất khẩu từ các ngân hàng thương mại chiếm tỷ lệ rất nhỏ, còn việc bão lãnh tín dụng xuất khẩu cũng chỉ khoảng 5% doanh nghiẹp được áp dụng. Bên cạnh đó, hoạt động hoạt động mua ngoại tệ nhằm phục vụ cho hoạt động nhập khẩu cũng được các SME đánh giá là cực kỳ khó khăn.
Theo các đánh gía tổng kết về chính sách hỗ trợ tín đối với các SME trong những năm đổi mới thì các SME đã được hỗ trợ về nhiều mặt của Nhà nước, của các tổ chức quốc tế, trong đó có sự hỗ trợ về tín dụng của các ngân hàng thương mại. Nhưng nếu so với nhu cầu phát triển của các SME thì sự hỗ trợ còn ít và chưa đêm lại hiệu quả cao. Quan hệ giữa các ngân hàng thương mại với các SME thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, cá thể trong những năm gần đây đã được cải thiện đáng kể nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của SME. Các Ngân hàng thương mại quốc doanh không muốn hoặc rất e ngại khi cho các SME thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vay vốn. Điều đó vừa tác động xấu đến hoạt động của hoạt động của ngân hàng, vừa không hỗ trợ được các SME và gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế.
Hiện nay để đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho mình, các SME thường phải vay vốn từ thân nhân, bạn bè hoặc các tổ chức phi tài chính. Đôi khi các SME phải trả cho các chủ nợ phi chính thức khoản lãi suất cao hơn gấp 3 đên 6 lần so với lãi suất chính thức. Một phần, đó là do các SME còn gặp khó khăn rất nhiều trong việc tiếp cận các khoản tín dụng từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Mặt khác, các khoản vay có bảo lãnh rất hiếm khi dành cho các SME.
2.5.2. Chính sách thuế trong việc hỗ trợ SME
Trong hơn mười năm thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, chính sách thuế luôn là một trong những vấn đề trung tâm. Một trong những đạo luật đầu tiên được ban hành và áp dụng khi chuyển sang cơ chế thị trường trong điều kiện mở cửa thương mại là luật thuế (năm 1990). Hệ thống thuế có sự cải cách cơ bản chuyển từ ba hệ thống thu sang một hệ thống thuế thống nhất cho tất cảc các thành phần kinh tế, làm cho thuế trở thành một công cụ chính trong việc thực hiện hỗ trợ các doanh nghiệp nói chung và các SME nói riêng, làm công cụ khuyến khích các ngành nghề phát triển.
Việc hỗ trợ các SME trong hoạt động xuất khẩu của chính sách thuế trong thời gian qua được thể hiện như sau:
a. Các chính sách
*Chính sách thuế trong việc khuyến khích đầu tư trong sản xuất kinh doanh xuất khẩu. Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài năm 1998, đã sửa đổi theo hướng dành những ưu đãi cao cho sản xuâts hàng xuất khẩu. Theo luật này, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thuộc diện khuyến khích sẽ được hưởng những ưu đãi về thuế xuất, thuế thu doanh nghiệp (25% hoặc thấp hơn), được miễn hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp đầu tư sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu còn được hưởng thêm một trong các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp như sau:
Được giảm 50% thuế thu nhập có được do xuất khẩu của năm đầu tiên thực hiện xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu mặt hàng mtới, xuất khẩu ra thị trường mới.
Được giảm 50% số thuế thu nhập phải nộp cho phần thu nhập tăng thêm do xuất khẩu trong năm tài chính đối với nhà đầu tư có doanh thu xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước.
Được giảm 20% thuế thu nhập phải nộp cho phần thu nhập có đượcdo xuất khẩu trong năm tài chính đôi svới trường hợp : có doanh xuất khẩu đạt tỷ trọng trên 50% tổng doanh thu và duy trì thị truờng ổn định liên tục trong ba năm trước đó.
* Tùy từng trường hợp, từng ngành nghề mà trong thời gian qua Nhà nước đã hỗ trợ cho doanh nghiệp như hoàn thuế giá trị gia tăng, khôn thu thuế thu nhập daong nghiệp, kéo dài thời hạn nộp thuế, miễn thuế, áp dụng mức thuế thuế thấp nhất. Cụ thể trong trường hợp dệt may, để tạo vốn đầu tư cho doanh nghiệp dệt may, Nhà nước hố trợ miễn giảm thuế doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, cho vay vốn ưu đãi từ 12-15 năm, ghi nợ thuế xuất nhập khẩu từ 3 đến 9 tháng; thoái thu nhập khẩu nguyên liệu gia công. Đố với ngành chế biến xuất khẩu thì chính sách thuế khấu trừ từ 5% đối với đầu vào nguyên liệu, không thu thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung đối với doanh nghiệp xuất khẩu trên 50% sản phẩm hoặc có giá trị xuất khẩu chiếm 50% doanh thu.
* Hoàn thuế doanh thu cho doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu, phụ liệu và các dơn vị bán thành phẩm khác để sản xuất ra hàng xuất khẩu. Đây là một biện pháp có tính tích cực nhất trong chính sách hỗ trợ SME, bởi vì các SME do yếu kém về công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu, thị trường tiêu thụ, nên SME chủ yếu sản xuất phục vụ làm cho đầu vào cho các SME sản xuất cho hàng xuất khẩu.
* Kéo dài thời hạn nộp thuế thu nhập khẩu vật tư, nguyên vật tư, phụ liệu phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu (hiện nay là thời hạn 9 tháng), áp dụng thuế suất thấp nhất (0%) cho một số mặt hàng.
b. Đánh giá việc thực hiện các chính sách thuế đối với SME
Tuy nhiên, chánh sách ưu đãi thuế ở Việt Nam vẫn chủ yếu hướng vào vung, sản phẩm và thành phần kinh tế ( đặc biệt là nước ngoài và trong nước). Chính sách này không khuyến khích theo quy mô doanh nghiệp, và như vậy hoàn toàn chưa khuyến khích được SME. Thuế suất nhập khẩu còn chiếm tỷ trọng tương đối cao đã làm cho tổng thu ngân sách lệ thuộc quá nhiều vào kim ngạch xuất nhập khẩu. Khi thị trường thế giới biến dộng, nguồn thu ngân sách giảm, một mặt ảnh hưởng đến nguồn lực hỗ trợ SME đồng thời, mặt khác các cơ quan tài chính sẽ tìm cách để tăng cường thuế hoặc thêm các hình thức thu mới, làm cản trở các doanh nghiệp noí chung và đặc biệt là SME. Bên cạnh đó, theo Luật thuế GTGT, mọi hàng hóa nhập khẩu đều phải nộp thuế GTGT trong vòng 30 ngày sau khi nhập cảng. Mặc dù về nguyên tắc thuế GTGT là thuế thu trước, song trong tình hình hiện nay, khi các doanh nghiệp, đặc biệt là SME, đang khó khăn về vốn thì cùng một lúc phải thanh toán tiền mua hàng, thuế nhập khẩu và thuế GTGT là một cản trở rất lớn cho công cụôc kinh doanh xuất nhập khẩu của các SME. Trong suốt thời gian thực hiện Luật thuế GTGT vừa qua, một trong những khó khăn lớn nhất đối với các SME là công tác hoàn thuế. Trước hết nhiều SME đẫ gặp khó khăn trong việc có hóa đơn thuế khi nhập khẩu. Việc này đã được Bộ tài chính sử lý bằng cách khâu trừ 3% giá trị vật tư đầu vào. Tuy vậy, thời gían khấu trừ quá dài, gây khó khăn về vốn cho các SME. Một khó khăn nữa là, trong khi các doanh nghiệp khác, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được miễm thuế nhập khẩu trang thiết bị thì các SME ngoài quốc doanh, vốn đã ít những vẫn phải nộp thuế nhập khẩu trang thiết bị cho đổi mới cônng nghệ. Như vậy, chính sách thuế trong trong thời gian vừa qua vẫn chưa hỗ trợ các SME đổi mới côn nghệ. Một điều dễ nhận thấy trong thời gian vừa qua Chính phủ Việt Nam ưu đãi các DNNN hơn là các SME ngoài quốc doanh. Trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, để khuyến khích SME xuất khẩu thì một sự hỗ trợ về chính sách thuế là rất cần thiết.
2.5.3. Chính sách thị trường sản phẩm hỗ trợ các SME
Do sự biến động chính trị của các nước XHCN Đông Âu và Liên Xô (cũ), Việt Nam đã mất đi một thị truờng lớn. Do vậy, Nhà nước và các doanh nghiệp đã phải nỗ lực tìm kiếm các thị trường mới bằng các quan hệ ngoại giao và các chính sách kinh tế đối ngoại phù hợp. Để mở đường và kích thích quan hệ buôn bán của các doanh nghiệp, Chính Phủ Việt Nam đã đăng ký rất nhiều hiệp định thương mại và hiện cá quan hệ buôn bán với hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Nếu như trước kia thị trường xuất khẩu là thị trường thuộc khối tương trợ kinh tế của các nước XHCN thì đến hết năm 2000 đã có qua hệ buôn bán với 165 quốc gia, trong đố có 76 nước ký hiệp định thương mại và thỏa thuận về tối huệ quốc gia với 68 nước và vùng lãnh thổ. Đặc biệt đáng lưu ý là hiệp định khung hợp tác kinh tế với Liên minh Châu Âu ký ngày 17/7/1995, tham gia vào khu vực mậu dịch do ASEAN (AFTA), bình thường hóa quan hệ buôn bán Việt Nam- TrUNG Quốc, ký Hiệp định thương mại Việt Mỹ.
Để khuyến khích xuất khẩu, ngành thương mại phải tổ chức nhiều hội trợ triển lãm và hội thảo thương mại Việt Nam. Việt Nam phải có các đoàn cán bộ thương mại ra nhiều nước và đón các đoàn cán bộ nước ngoài vào Việt Nam làm việc. Đến nay đã có khoảng 2.500 văn phòng đại diện của 60 quốc gia và vùng lãnh thổ đặt tại Việt Nam. Hơn 200 doanh nghiệp Việt Nam đã đặt văn phòng đai diện và chi nhánh ở nước ngoài (chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước).
Sự hỗ trợ giúp đỡ của Chính phủ Việt Nam trong việc phát triển thị trường đã giúp cho các SME mở rộng thị trường sản phẩm xuất khẩu của mình sang các thị trường đó. Thị trường chính của các SME là thị trường Châu Âu, Đài Loan, Nhật Bản, thị trường Mỹ và các thị trường káhc như thị trường Hồng Kông, Trung Quốc, Singapo…, cơ cấu thị trường xuất khẩu của các SME được thể hiện dưới sơ đồ sau:
Sơ đồ 5: cơ cấu thụ trường xuất khẩu của DNV % N năm 1999
Nguồn: CIEM.
Mỹ (13,7%)
Châu Âu (43%)
Đài Loan ( 23,3%)
Nhật Bản (20%).
Về kim ngạch xuất khẩu cũng tăng dần, cụ thể năm 1997 kim ngạch xuất khẩu của SME ngoài quốc doanh đạt 915 triẹu USD thì đến 1999 tăng lên là 1.578 triệu USD tăng 72,5% trong hai năm. Tuy nhiên, chính sách phát triển thị trường xuất khẩu trong thời gian vừa qua còn một số hạn chế gây không ít khó khăn trở ngại cho doan nghiệp nhất là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ.
Các SME rất thiếu thông tin từ thị trường, khách hàng, công nghệ, đối thủ cạnh tranh…trên thị trường này. Một số doanh nghiệp chỉ có thông tin một cách chắp vá, không có điều kiện kiểm tra. Vì vậy các SME chịu thiệt về giá cả hoặc khó định hướng đầu tư. Chẳng hạn do thiếu thông tin về thị trường, nên hầu hết các SME khi tiến hành thương lượng về giá gia công hay xuất khẩu chỉ biết dựa vào chi phí sản xuất và giá chào hàng của các doanh nghiệp khác. Một ví dụ cụ thể đó là xuất khẩu cà phê, có lúc do thiếu thông tin diễn biến trên thị trường thế giới, một số doanh nghiệp đã phải bán mặt hàng cà phê của mình thấp hơn so với giá trung bình của chính mặt hàng cà phê cùng chất lượng. Tình huống tương tự cũng đã xảy ra đối với mặt hàng gạo xuất khẩu.
Trong những năm vừa qua, có lúc gạo trên thị trường quốc tế đã tăng từ 15-20% nhưng các doanh nghiệp Việt Nam vẫn tiếp tục tăng lượng gạo xuất khẩu với giá thấp hơn lúc đó. Cũng do thiếu thông tin về thị trường xuất khẩu, một số doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam có thói quen lúc chào giá cao để khi khách đàm phán giảm giá là vừa. Song một số khách hàng, khi nhận được giá chào hàng quá cao, họ không giao dịch tiếp vì mất thời gian và chi phí giao dịch, trong khi họ đã có sẵn nhà cung cấp.
Nhìn chung, trong mấy năm qua, chính sách phát triển thị trường sản phẩm hỗ trợ SME đã có tác động mạnh mẽ tới việc mở rộng thị trường nước ngoài, khai thông thị trường nội địa. Tuy nhiên, chính sách phát triển thị trường sản phẩm trong thời gian qua còn nhiều hạn chế gây không ít khó khăn trở ngại cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Chính vì vậy, trong thời gian tới SME mong muốn có sự hỗ trợ của Nhà nước về công tác phát triển thị trường xuất khẩu, đặc biệt là cung cấp thông tin về thị trường xuất khẩu một cách chính xác và nhanh chóng.
2.5.4. Các biện pháp hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu
Để khuyến khích xuất khẩu, các doanh nghiệp chuyên trách quảng cáo của Bộ Thương mại đã tiến hành các cuộc hội tợ triển lãm ở Việt Nam và ở nước ngoài nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các SME nói riêng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Có rất nhiều các đơn vị tổ chức hội trợ triến lãm, các tổ chức hội trợ triển lãm, các tổ chức làm dịch vụ quảng cáo, các văn phòng quảng cáo của tại Việt Nam và các thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, các vụ hợp tác quốc tế…Thông qua các tổ chức này, doanh nghiệp đã tiếp nhận được các dịch vụ như triển lãm dịch vụ của mình, tham gia trao đổi tại các cuộc hội thảo, xúc tiến đầu tư, liên doanh, liên kết để tìm cơ hội xuất nhập khẩu giúp cho đối tác nước ngoài nắm bắt được tin về doanh nghiệp, qua đó thúc đẩy hợp tác và mở rộng thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, so với các nước ASEAN khác, Việt Nam vẫn còn yếu kekms trong lĩnh vực này.
Trong năm vừa qua, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và SME nói riêng đang cố gắng tham gia vào các đoàn xúc tiến thương mại và các hội trợ ở nước ngoài nhưng vẫn còn ở phạm vi hạn chế. Sự tham gia dưới các hình thức như vậy dưới hầu hết các trường hợp chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, sự tham gia của các SME còn gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh khó khăn về tài chính và những thủ tục hành chính khác, những vướng mắc trong khâu xuất nhập cảnh cũng cản trở nhiều cho các SME ngoài quốc doanh.
Nhằm tăng cường khả năng xuất khẩu, các nhà xuất khẩu Việt Nam hiện đang tích cực tìm kiếm thị trường mới và trao đổi thông tin với các tổ chức thương mại nước ngoài tại Việt Nam và bước đầu thu được những kết qua khá tốt. Hiên nay có khoảng 10 tổ chức thương mại như vậy ở nước ngoài, trong đó có tổ chức Xúc tiến thươmng mại của Nhật Bản (JETRO), Tổ chức Xúc tiến thương mại của Hàn Quốc (KOTRA), Tổ chức xúc tiến thương mại của Đài Loan (CETRA). Các tổ chức thương mại của nước ngoài tại Việt Nam đã tạo ra mối liên kết tại các mối liên kết tại các doan nghiệp nói chung và các SME với các doanh nghiệp ở nước ngoài như Australia, Hoa kỳ, Nhật Bản, Đức, Pháp, EU…
Như vậy, một số tổ chức tham gia hỗ trợ cho việc mở rộng các mối quan hệ với bạn hàng cho các SME đang cung cấp dịch vụ cho mình. Tuy nhiên, tình hình hiện nay cho thấy công tác xúc tiến xuất khẩu hỗ trợ các doanh nghiệp còn lúng túng và bị động, hệ thống thương vụ Việt Nam tại nước ngoài chưa làm tốt vai trò tìmh kiếm, giới thiêu thị trường và bạn hàng để cung cấp thông tin kịp thời cho SME kinh doanh xuất nhập khẩu. Do đó, các SME vẫn đang dựa vào mạng lưới các nhân viên của mìh để tìm thị trường xuất khẩu. Vì vậy, các SME tham gia vào các hoạt động xuất khẩu do không tự mở rộng quan hệ với các khách hàng nước ngoài nên hộ phải bán sản phẩm của mình cho các công ty thương mại của nước ngoài và cũng chỉ có cách này họ mới xuất khẩu sản phẩm của mình cho các thị trường trên thế giới.
Có thể nói ở Việt Nam hiện nay, công tác xúc tiến xuất khẩu hỗ trợ các doanh nghiệp nói chung và các SME ngoài quốc doanh nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế. Để thực hiện mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế thì một trong những vấn đề cấp bách là phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện một hệ thống xúc tiến toàn diện, các chíng sách, hệ thống đồng bộ của nhiều ngành, nhiều cấp và từng doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực của nhiều cấp nhiều ngành và của từng doanh nghiệp. Nhưng chắc chắn rằng trong kinh tế đổi mới kinh tế hiện nay, ngoại thương thực sự là sức mạnh tổng hợp, thì hoạt động xúc tiến xuất khẩu, hỗ trợ các doah nghiệp càng chứng tỏ vai trò quan trọng của nó trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
2.5.5. Các quy chế thương mại trong việc hỗ trợ SME
Nhờ có những cải cách kinh tế, từ những năm 1991 cho đến nay nhiều doanh nghiệp đã được phép xuất khẩu các sản phẩm của mình do chính họ sản xuâts và được phép xuất khẩu đầu vào trung gian cần thiết cho quá trình sản xuất của mình,. Việc thay đổi cơ chế điều hành xuất nhập khẩu hàng năm do Bộ thương mại ban hành đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thúc đẩy xuất khẩu, khuyến khích mọi thành phần tham gia hoạt động kinh doang xuất nhập khẩu. Đầu năm 1993 yêu cầu để có giáy phép kinh doanh xuất khẩu được nới lỏng đôi chút thì số doanh nghiệp tham gia xuất khẩu tăng lên (400 doanh nghiệp). Nhìn chung, trước năm 1998, ngoại thương nằm trong sự độc quyền của quốc doanh. Còn đối với SME ngoài quốc doanh Nhà nước có thể thu hồi giấy phép kinh doanh bất cứ lúc nào. Cách thức này đã tạo nên môi trường kinh doanh không ổn định và thiếu bình đẳng trong hoạt động xuất khẩu. Do những khó khăn đó, nhiều SME chỉ có thể xuất khẩu sản phẩm của mình dưới hình thức ủy thác thông qua các công ty được phép chuyển doanh nghiệp xuất khẩu (chủ yếu là DNNN). Tùy từng trường hợp cụ thể, các khoản phí xuất nhập khẩu ủy thác mà các SME trên thực tế phải trả cho các công ty chuyên doanh nghiệp xuất nhập khẩu này dao động từ 0,5-1%. Ngoài ra, các nhà xuất nhập khẩu còn gánh chịu những rủi ro do bị tiết lộ những thông tin mật về các hợp đồng thương mại của mình hoặc thậm trí bị các công ty chuyên doanh xuất nhập khẩu chiếm mất đối tác kinh doanh.
Ngày 31/7/1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Ngị định số 57/NĐ-CP cho phép tất cả các doanh nghiệp Viêt Nam tham gia hoạt động xuất nhập khẩu mà không cần bất cứ điều kiện gì, chế độ phê duyệt hợp đồng và cấp giấy phép đối với hàng gia công cũng được bãi bỏ. Bên cạnh đó, thông tư số 18/1998/TT-BTM ngày 28/8/1998 cho phép các doanh nghiệp Việt Nam được gia công hàng hóa đối với các đối tác nước ngoài; được trực tiếp nhập khẩu, xuất khẩu máy móc, thiết bị máy móc, nguyên liệu, phụ liệu…gia công theo hợp đồng gia công. Những thay đổi trên đã tạo điều kiện cho việc kinh doanh xuất nhập khẩu trở nên thông thoáng, thuận lợi hơn nhằm thúc đẩy xuất nhập khẩu nói chung và xuất nhập khẩu cho SME nói riêng. Thật vậy, theo thời báo Sài Gòn (số 16-99(433) ngày 15/4 /1999, những thay đổi trên đã làm cho SME ngoài quốc doanh tham gia đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu tăng lên, hiện nay có 5.500 SME chiếm hơn 12%tổng số SME ngoài quốc doanh tham gia trực tiếp xuất nhập khẩu các sản phẩm (mà trước đây phải thông qua các DNNN. Tùy từng trường hợp cụ thể, lệ phí phải trả cho các DNNN được ủy thác xuất khẩu trên thực tế là từ 0,5-1%. Thêm vào đó những nhà xuất khẩu SME pải gánh chịu rủi ro do bị lộ thông tin mật về các hợp đồng thương mại của họ hoặc thậm trí bị mất kinh doanh bởi các DNNN được ủy quyền), điều đó được thể hiện là xuất khẩu FOB tăng từ 30% năm 1997 lên 50% năm 1999. Những cải cách nhằm mở rộng quyền thương mại và khả năng tiếp cận thị trường xuất nhập khẩu cho phếp SME của Việt Nam đã có tác dụng, kim ngạch xuất khẩu tăng lên 250 triệu USD năm 1998, xuất khẩu tăng 73% (1997-1999) và chiếm 39% tronng tăng trưởng xuất khẩu và các SME.
Bên cạnh những cải cách trên, hạn ngạch cũng thay đổi, nếu như giai đoạn trức năm 1991 áp dụng cho hơn 100 mặt hàng xuất khẩu thì sau này thì chỉ áp dụng cho mặt hàng gạo và cà phê. Trong năm 2000, Chính phủ thực hiện đấu thầu khoảng 25-30% hạn ngạch dệt may, việc thực hiện phương thức đấu thầu này sẽ giảm được nạn tham nhũng của các quan chức, tăng cường thu ngân sách Nhà nước và tránh được nạn độc quyền của một số DNNN đồng thời khuyến khích c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm đẩy mạnh xuất khẩu ở Việt Nam.doc