Sự ra đời TTGDCK TP.HCM và hoạt động giao dịch trong thời gian qua mới chỉ là bắt đầu cho việc phát triển ngành chứng khoán Việt nam còn hết sức mới mẻ đầy triển vọng nhưng cũng đầy thách thức. Những nhân tố tác động ảnh hưởng đến TTCK trong giai đoạn tới đây cũng không nằm ngoài những vấn đề cần quan tâm kho xây dựng các chính sách phát triển kinh tế của đất nước đến năm 2005 và 2010, cụ thể là:
49 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2140 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không nhiều, nên thực chất chỉ có một lượng rất nhỏ hàng hoá cho hoạt động giao dịch của TTGDCK. Do đó đa phần trong các phiên giao dịch mặc dù số lượng cổ phiếu đặt mua so với số lượng cổ phiếu niêm yết trên TTGDCK theo công bố chính thức không cao (chỉ khoảng 2% - 5%) song chênh lệch về khối lượng giữa lệnh mua và lệnh bán là rất lớn nên chỉ một số ít lệnh mua được thực hiện với khối lượng giao dịch không lớn, hầu hết các lệnh mua không được thực hiện, hiệu quả thu hút công chúng đầu tư chưa cao.
Cho đến nay thì cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần được xem là thứ hàng hoá chính của TTCK. Trong thời gian qua, cổ phiếu của 4 doanh nghiệp niêm yết là REE, SAM, HAP, TMS đã được giao dịch thường xuyên và đóng vai trò chính yếu. Cho đến hết tháng 10/2000 tổng giá trị cổ phiếu niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán của 4 doanh nghiệp trên là trên 302 tỷ đồng. Riêng trong tháng 10 đã có gần 669.000 cổ phiếu của các doanh nghiệp trên được giao dịch với tổng giá trị 14,69 tỷ đồng, so với tháng 9 thì mức giao dịch trên tăng 15%.Hậu quả của vấn đề khan hiếm hàng hoá là tạo ra sức ép tăng giá một cách giả tạo, giá giao dịch chứng khoán luôn đạt mức sát trần. Điều nguy hiểm hơn đối với TTCK non trẻ của Việt Nam là đã nảy sinh hiện tượng đầu cơ giá chứng khoán, cụ thể: đầu phiên giao dịch những người có cổ phiếu đưa ra một số lệnh bán với giá sát trần để kéo giá lệnh mua, đến thời điểm chuẩn bị khớp lệnh thì những lệnh bán này được huỷ bỏ và được thay thế bằng một số ít lệnh bán với khối lượng nhỏ nhằm tiếp tục nâng giá cổ phiếu trong các phiên giao dịch tiếp theo.Việc tăng giá cổ phiếu đã làm chỉ số VN Index tăng liên tục qua các phiên giao dịch.Từ phiên giao dịch ngày 29/9/2000 đến phiên ngày 17/11/2000 chỉ số VN Index đã tăng từ 120,71 điểm lên thành162,36 điểm, trong phiên này tổng giá trị giao dịch đã tăng mạnh lên đến 1,1 tỷ đồng so với 450 triệu đồng của phiên giao dịch trước. Các phiên giao dịch tiếp theo chỉ có một số ít biến động nhỏ còn nhìn chung giá cổ phiếu liên tục tăng mạnh, đến phiên giao dịch thứ 80 chỉ số VN Index đã đạt 260,15 tăng hơn 150 điểm , gấp 2,5 lần so với giá trị ban đầu của nó.
Trong những năm vừa qua, trái phiếu chính phủ được phát hành chủ yếu qua hệ thống kho bạc nhà nước và đấu thầu qua ngân hàng nhà nước. Từ tháng 7/00 sau khi chính phủ ban hành nghị định 01/2000/NĐ-CP về quy chế phát hành trái phiếu chính phủ. Bộ tài chính đã cho thực hiện hai phương thức phát hành mới: đấu thầu qua TTGDCK và bảo lãnh phát hành.
Phát hành qua hệ thống kho bạc nhà nước được thực hiện từ năm 1991. Mặc dù đã có những cải tiến và thay đổi đáng kể về mặt nội dung, hình thức trái phiếu và phương thức quản lý song các loại trái phiếu kho bạc phát hành trong thơì gian vừa qua về cơ bản vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu giao dịch và hoạt động của TTCK. Nói cách khác khi TTCK chưa phát triển, cơ sở vật chất và kỹ thuật lạc hậu thì chưa có điều kiện để thay đổi một cách cơ bản cơ chế phát hành, quản lý và giao dịch trái phiếu. Điều này được chứng minh khá rõ nét từ thực tế của năm 1995: Xuất phát từ yêu cầu thúc đẩy sự ra đời của TTCK, Kho bạc nhà nước đã phát hành loại trái phiếu có in sẵn mệnh giá, không ghi tên người mua, được tự do mua bán, chuyển nhượng và thanh toán vãng lai trong cả nước. Sau một thời gian phát hành, khi đã cảm thấy có những dấu hiệu thiếu an toàn trong quản lý, Kho bạc nhà nước TW đã xin phép bộ tài chính cho dừng phát hành, đồng thời thông báo cho các đơn vị kho bạc Nhà nước cấp tỉnh mới được phép thanh toán vãng lai, vì lúc bấy giờ các đơn vị kho bạc cấp huyện chưa được trang bị máy tính, chưa thể nối mạng với TW theo dõi thanh toán trái phiếu vãng lai. Năm 1999, Nhà nước phát hành công trái XDTQ, sử dụng loại chứng chỉ in sẵn mệnh giá và không ghi tên người mua để tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua bán, giao dịch và tự do chuyển nhượng công trái. Tuy vậy tất cả các loại trái phiếu phát hành trong thời gian vừa qua đều chưa thể niêm yết, giao dịch trên TTCK, bởi vì các loại trái phiếu và công trái trong cùng một đợt phát hành chưa được quy định một ngày đến hạn thanh toán thống nhất, lãi suất trái phiếu không được thanh toán theo định kỳ và đặc biệt là trường hợp phải tính bù giá trị vào lãi suất công trái khi có biến động mạnh mẽ về giá do nguyên nhân lạm phát.
Đấu thầu tín phiếu qua ngân hàng nhà nước được thực hiện từ giữa những năm 1995. Nhìn chung hoạt động của thị trường đấu thầu tín phiếu tương đối ổn định(mặc dù còn ở mức độ thấp). Hình thức đấu thầu chủ yếu là cạnh tranh về lãi suất trên cơ sở tín phiếu phát hành và lãi suất trần do Bộ Tài chính quy định. Các thành viên tham gia tương đối thường xuyên là các ngân hàng thương mại quốc doanh và một số tổ chức tài chính có tiềm lực về vốn. Tín phiếu phát hành vẫn theo hình thức ghi sổ và đến nay các đơn vị cũng chưa có nhu cầu nhận chứng chỉ. Tín phiếu trúng thầu chủ yếu vẫn được nắm giữ đến khi đáo hạn, chưa được mua bán, chiết khấu lại trên thị trường tiền tệ.
Đấu thầu trái phiếu chính phủ qua TTGDCK lần đầu tiên được tổ chức vào ngày 26/7/2000, tính đến nay đã qua 5 phiên. Khối lượng gọi thầu mỗi phiên từ 200-300 tỷ đồng, kỳ hạn trái phiếu là 5 năm. Kết quả đấu thầu từng phiên như sau:
Ngày đấu thầu
Thành viên tham gia
Khối lượng đặt thầu
Lãi suất đặt thầu Max Min
Kết quả trúng thầu Khốilượng Lãi suất
1
2
3
4
5
6
7
26/7/00
9
858 tỷ
5,8%
8,0%
300 tỷ
6,5%
15/8/00
9
548 tỷ
6,4%
7,8%
300 tỷ
6,6%
29/8/00
4
165 tỷ
6,7%
7,5%
0
-
12/9/00
0
0
-
-
0
-
Trái phiếu được đấu thầu theo hình thức cạnh tranh lãi suất, trong phạm vi lãi suất trần của Bộ Tài chính. Các đơn vị tham gia và trúng thầu với khối lượng lớn chủ yếu là các ngân hàng thương mại quốc doanh. Các công ty chứng khoán do hạn chế về vốn nên tham gia cầm chừng với khối lượng không đáng kể. Trái phiếu được phát hành dưới hai hình thức chứng chỉ và ghi sổ, được niêm yết và giao dịch tại TTGDCK. Tuy vậy các đơn vị trúng thầu chủ yếu là nắm giữ trái phiếu, chưa có nhu cầu bán lại trên thị trường chứng khoán (trừ các công ty chứng khoán ).
Bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ lần đầu tiên được tổ chức vào ngày 15/9/2000 với 5 đơn vị tham gia gồm 3 ngân hàng thương mại quốc doanh và hai công ty chứng khoán cùng tham gia đàm phán để thống nhất lãi suất và khối lượng trái phiếu nhận bảo lãnh. Kết quả cụ thể như sau:
-Khối lượng bảo lãnh trái phiếu phát hành: 500 tỷ đồng
-Thời hạn trái phiếu: 5 năm
-Lãi suất trái phiếu: 6,6%/năm (lãi suất thanh toán hàng năm)
-Các đơn vị tham gia và khối lượng nhận bảo lãnh:
+Ngân hàng công thương Việt nam : 420 tỷ đồng
+Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam : 50 tỷ đồng
+Ngân hàng ngoại thương Việt nam : 30 tỷ đồng
Qua 4 phương thức phát hành trái phiếu chính phủ nói trên, cho đến nay khối lượng trái phiếu chính phủ đăng ký, niêm yết và giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán vẫn không đáng kể. Mặc dù trái phiếu chính phủ phát hành theo cơ chế mới có doanh số khá lớn, nhưng lượng trái phiếu thực tế giao dịch là không đáng kể. Liên tục nhiều phiên không khớp được lệnh mua bán.
Trái phiếu vô danh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tuy mới được phát hành tại ba địa bàn là TP.HCM, Hà Nội và Bình Dương nhưng chỉ sau hai phiên giao dịch kể từ khi được đưa vào TTCK đã gia tăng một cách đáng kể về khối lượng. Theo các chuyên gia chứng khoán, sở dĩ có tình trạng này là do khả năng rủi ro của loại trái phiếu này nhỏ không kém trái phiếu chính phủ nhưng lãi suất của nó lại được thả nổi( được điều chỉnh từng năm theo thị trường ). Sau hai phiên giao dịch đã có 2.750 trái phiếu của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển được bán ra với tổng giá trị giao dịch là 269,3 triệu đồng. Tuy nhiên đến các phiên giao dịch sau khối lượng giao dịch trái phiếu này cũng có nhiều biến động- cơn khát hàng hoá của thị trường chứng khoán vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Có thể nói một trong những nguyên nhân cơ bản hiện nay của tình trạng khan hiếm hàng hoá trên thị trường chứng khoán đó là do có quá ít doanh nghiệp tham gia niêm yết trên TTCK. Hiện nay mặc dù số lượng công ty cổ phần chưa thực sự nhiều nhưng với con số trên 50 doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết thì cũng không thể coi đó là số lượng quá ít. Chỉ cần khoảng 1/4 trong số các doanh nghiệp này niêm yết cổ phiếu trong giai đoạn đầu thì có lẽ TTCK cũng đã "hòm hòm" đủ đạt được sự sôi động cần thiết. Thế nhưng điều nan giải nhất là ở chỗ, bản thân các công ty cổ phần đang có một thái độ rất thờ ơ với TTCK. Thậm chí nhiều doanh nghiệp đã bày tỏ ý kiến rất thẳng thắn rằng, họ chưa cảm thấy có lợi gì khi đưa cổ phiếu niêm yết trên TTCK và do đó họ chưa có ý định niêm yết. Tâm lý này đang thực sự là một rào cản rất lớn trong việc khuyến khích các công ty đủ điều kiện niêm yết tạo thêm hàng hoá cho TTCK. Trước sự thờ ơ của nhiều doanh nghiệp không thể không nhìn nhận lại môi trường vận hành hiện nay của TTCK. Liệu TTCK đã có đầy đủ các biện pháp hữu hiệu để bảo vệ các doanh nghiệp trên thị trường hay chưa? Qua tìm hiểu trên thực tế có thể thấy rõ rằng, nhiều doanh nghiệp vẫn có những lo ngại về hành lang an toàn trên TTCK, mà vấn đề thao túng doanh nghiệp là nỗi lo lớn nhất. Nhiều giám đốc cho rằng, khi công ty niêm yết cổ phiếu, có rất nhiều khả năng nhiều nhà đầu tư bên ngoài doanh nghiệp có ý đồ mua gom cổ phiếu qua các phiên giao dịch để đến khi có một số lượng cổ phiếu nhất định sẽ nhẩy vào điều hành công ty, việc này bản thân công ty không thể kiểm soát được.
Mặc dù pháp luật đã quy định khi một nhà đầu tư thực hiện giao dịch làm thay đổi việc nắm giữ 5% trở lên cổ phiếu có quyền biểu quyết của một công ty niêm yết thì phải báo cáo với TTGDCK. Nhưng trên thực tế việc quản lý và theo dõi những nhà đầu tư mua và nắm giữ cổ phiếu số lượng lớn không phải là dễ dàng. Hơn nữa, ngay cả với các nhà đầu tư đã nắm giữ trên 5% cổ phiếu thì việc mua bán của họ cũng chỉ bị giám sát mà không thể bắt họ không được tiếp tục mua thêm nữa. Có lẽ các công ty cổ phần từ trước đến nay mới chỉ quen với những cổ đông thuần tuý nhận cổ tức, chủ yếu là những cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, nên phần lớn mang tâm lý sợ bị thao túng khi bước chân vào TTCK- một thị trường có tính cạnh tranh và đào thải gay gắt. Các công ty niêm yết phải chấp nhận một thực tế là khi cổ phiếu được giao dịch rộng rãi thì cổ đông của công ty không thể chỉ là những đối tượng ổn định và dễ quản lý.
2.Thiếu sự đồng bộ giữa TTCK và thị trường tiền tệ
Có thể ví rằng thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng như hai quả tim để điều tiết nguồn vốn cho nền kinh tế. Trong khi hoạt động của các ngân hàng thương mại chủ yếu nhằm cung ứng các nguồn vốn ngắn hạn thì vai trò của TTCK là chuyên cung cấp dòng vốn dài hạn. Chính vì thế đây là hai bộ phận quan trọng cấu thành nên một hệ thống tài chính hoàn chỉnh và chúng có quan hệ với nhau theo nguyên tắc "bình thông nhau". Mỗi động thái trên thị trường tiền tệ đều kéo theo một động thái mới trên TTCK và ngược lại. Tuy nhiên thời gian đầu hoạt động của TTCK Việt nam cho thấy rằng dường như vẫn còn một bức tường vô hình ngăn cách sự tương quan trong hoạt động của hai dòng lưu chuyển vốn này. Điều này được thể hiện rất rõ trong thực tế hoạt động của thị trường tài chính gần nửa năm qua. Đặc biệt trong mấy tháng gần đây, thị trường tiền tệ có nhiều biến đổi mạnh như những thay đổi nhanh chóng về lãi suất, tỷ giá..., nhưng những động thái này vẫn hoàn toàn vô tác dụng đối với TTCK. TTCK vẫn cứ hoạt động theo xu hướng riêng của nó và nhiều nhà đầu tư thậm chí chẳng hề quan tâm đến những yếu tố này. Chẳng hạn như những biến chuyển về lãi suất đã được thể hiện rất rõ. Vừa qua lãi suất đồng Việt Nam đã tăng khá mạnh, với mức tăng khoảng 0,02%/tháng so với thời gian cách đây hai tháng. Đáng lẽ theo quy luật thị trường việc tăng lãi suất tất yếu sẽ kéo theo sự rút lui của nhà đầu tư khỏi thị trường chứng khoán để chuyển sang đầu tư vào thị trường tiền tệ dẫn đến sự giảm giá trên thị trường chứng khoán.Thế nhưng trên thực tế thì thị trường chứng khoán lại vận động theo xu hướng hoàn toàn ngược lại . Giá cổ phiếu của các công ty niêm yết vẫn có xu hướng tăng lên, chỉ số VN Index đều tăng trong hầu hết các phiên giao dịch. Ngoài ra, tỷ giá đô la mỹ với đồng Việt nam cho dù tăng liên tục trong thời gian qua cũng không có tác động gì tơí hoạt động trên thị trường chứng khoán. Một số chuyên gia của uỷ ban chứng khoán nhà nước đã thừa nhận rằng, đúng là có sự thiếu đồng bộ trong quan hệ giữa thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ, mối quan hệ giữa thị trường tiền tệ và TTCK chưa phát huy được tác dụng như mong muốn. Theo một số chuyên gia, mấu chốt của vấn đề trên là do các công cụ của chính sách tiền tệ thực tế vẫn còn "cập kênh" chưa phát huy được ưu thế. Chẳng hạn như mặt bằng lãi suất: sự vận hành lãi suất của một loạt các công cụ tài chính như lãi suất đồng nội tệ, lãi suất đô la Mỹ, lãi suất tín phiếu trái phiếu... còn mang nặng tính chủ quan nên chưa thực sự tạo dựng được sự đồng bộ cho cả hệ thống các công cụ tài chính. Điều này đã khiến cho các yếu tố phát triển của quy luật thị trường chưa được thúc đẩy đúng mức. Trên thực tế sự ngưng trệ trong giao dịch trái phiếu chính phủ trong thời gian qua cũng chính là hệ quả của việc xác định một mức lãi suất không đồng bộ so với mặt bằng lãi suất chung của cả hệ thống tài chính cũng như tình hình thực tế của diễn biến thị trường.
Trong khi đó, bản thân thị trường chứng khoán cũng bị gò bó trong xu hướng chuyển động của nó như việc khống chế biên độ giá trong giao dịch chứng khoán. Chính vì vậy trong suốt thời gian kể từ khi ra đời và hoạt động đến nay, giá các chứng khoán hầu như ít khi phản ánh đúng quan hệ cung cầu trên thị trường. Điều này đã làm giảm tính nhạy bén của thị trường chứng khoán dưới tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô khác. Và suy cho cùng thì nguyên nhân mấu chốt của mọi vấn đề vẫn chính là sự khan hiếm hàng hoá trên thị trường. Các chuyên gia tài chính cho rằng, tất cả các con đường đều phải đi đến cùng một mục đích: tăng được hàng hoá cho thị trường.
Tóm lại, mắt xích liên kết giữa thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán chỉ có thể được kết nối khi những vấn đề tồn tại trong cả hai chủ thể này được khắc phục. Chỉ khi đó, hai "quả tim" của nền kinh tế mới có thể "hoà chung một nhịp", điều hoà luồng vốn tới tất cả các tế bào trong toàn cơ thể kinh tế, nơi đang cần một sức khoẻ cường tráng trước xu thế cạnh tranh và hội nhập.
3.Trung gian tài chính vừa thiếu vừa yếu:
Ngoài sự khan hiếm về hàng hoá nhiều chuyên gia cho rằng một bánh xe quan trọng khác của thị trường chứng khoán Việt nam là các tổ chức tài chính trung gian vừa thiếu vừa yếu. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động TTCK Việt nam trong thời gian qua còn nhiều hạn chế.
Tính đến nay uỷ ban chứng khoán nhà nước đã cấp giấy phép hoạt động cho 6 công ty chứng khoán, 2 ngân hàng nước ngoài để lưu ký, chỉ định thanh toán chứng khoán và 5 công ty kiểm toán được phép làm kiểm toán chứng khoán; số lượng tổ chức tài chính trung gian như vậy là còn rất thiếu. Hiện nay các công ty chứng khoán chủ yếu hoạt động trên hai địa bàn chính là TP.HCM và Hà Nội nên mới đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư trên hai địa bàn này. Khả năng tiếp cận và thu hút đông đảo công chúng đầu tư trên toàn quốc của các công ty chứng khoán hiện tương đối thấp. Ngoài ra TTCK Việt nam hiện còn thiếu các quỹ đầu tư và ủy thác đầu tư chứng khoán, nơi phân tán rủi ro và thu hút mọi nhà đầu tư tiềm năng trong nền kinh tế tham gia đầu tư vào TTCK. Sự thiếu vắng này đã gây cản trở lớn tới việc thu hút các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư cá nhân tham gia vào TTCK, bởi ở Việt nam trình độ hiểu biết về đầu tư chứng khoán là rất thấp. Tuy nhiên, hiện nay ngay cả đối với các công ty chứng khoán đã thành lập thì việc mở rộng tầm hoạt động cũng rất khó khăn, chứ chưa nói tới các quỹ đầu tư và uỷ thác đầu tư chứng khoán. Các nhà đầu tư có nhu cầu mua bán chứng khoán dứt khoát phải tới các chi nhánh, thậm chí là các công ty chứng khoán để thực hiện mà chưa được tiến hành thủ tục này ở chỗ khác. Chẳng hạn, các nhà đầu tư ở các địa phương muốn mua bán chứng khoán phải về Hà Nội hoặc TP.HCM và đợi đúng phiên giao dịch mới thực hiện được bởi mọi đăng ký qua Fax, điện thoại... hiện đều chưa được phép. Ngay cả việc treo bảng điện tử thông báo các thông tin về TTCK cho đến nay cũng mới chỉ cho phép ở công ty chứng khoán mà chưa được treo ở những nơi khác như các đại lý chân rết... điều này làm cho những khách hàng ở ngoài phạm vi Hà Nội và TP.HCM sẽ rất khó khăn trong đầu tư chứng khoán.
Bên cạnh các yếu tố kể trên thông tin - một nhân tố nhậy cảm của TTCK chưa được chú ý. Hệ thống công khai thông tin trong nền kinh tế nói chung và của các công ty niêm yết nói riêng chưa được thực hiện, như vậy hoạt động đầu tư trên TTGDCK của Việt nam tương đối mạo hiểm, lợi ích của các đối tượng tham gia thị trường không được bảo đảm. Điều này rất nguy hiểm đối với sự phát triển của TTCK Việt nam vì nó rất dễ dẫn đến hiện tượng đầu cơ, giao dịch nội gián, và cụ thể trong thời gian đầu do thiếu thông tin nên cổ phiếu của Transimexnhiều phiên giao dịch liên tiếp không một giao dịch nào được thực hiện do không có lệnh bán. Các cổ đông của Transimex cho rằng giá trị thực của cổ phiếu Transimex cao hơn mức 14.000 đồng/cổ phiếu - mức giá tham chiếu khởi điểm của cổ phiếu này, tại phiên giao dịch ngày 22/9/00 TTGDCK đã phải nâng mức giá tham chiếu của cổ phiếu Transimex lên 16.800 đồng/cổ phiếu và ngay khi kết thúc phiên giao dịch này thì giá cổ phiếu Transimex đã tăng lên 17.100 đồng/cổ phiếu(tăng 300 đồng/cổ phiếu, tức tăng 1,785% - sát mức trần cho phép là (+/-) 2%.
Chúng ta cần xác định rõ rằng, việc khai trương hoạt động TTGDCK TP.HCM chỉ là sự khởi động bước đầu của TTCK Việt nam. Để TTCK tiếp tục phát triển lành mạnh, hiệu quả và vững chắc, phát huy vai trò tích cực trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, cần phải tiếp tục có giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm hoàn thiện toàn diện các vấn đề có liên quan đến TTCK.
III. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của TTCK Việt nam:
Sự ra đời TTGDCK TP.HCM và hoạt động giao dịch trong thời gian qua mới chỉ là bắt đầu cho việc phát triển ngành chứng khoán Việt nam còn hết sức mới mẻ đầy triển vọng nhưng cũng đầy thách thức. Những nhân tố tác động ảnh hưởng đến TTCK trong giai đoạn tới đây cũng không nằm ngoài những vấn đề cần quan tâm kho xây dựng các chính sách phát triển kinh tế của đất nước đến năm 2005 và 2010, cụ thể là:
-Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định trước mắt cũng như lâu dài vẫn là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của TTCK. Trong những năm gần đây do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ trong khu vực và sự biến động của thị trường thế giới, cộng với những khó khăn nội tại của nền kinh tế, đã làm cho tốc dộ tăng trưởng nền kinh tế có suy giảm. Tình hình phát triển kinh tế trong năm 2000 cho thấy triển vọng tích cực hơn, song thời gian còn quá ngắn để khẳng định tính bền vững của xu hướng đó. Vả lại, ngay cả khi xu hướng đó được duy trì, cũng không thể kỳ vọng vào sự phục hồi ngay lập tức của nhu cầu đầu, đặc biệt là đầu tư qua TTCK- một kênh tạo vốn và lưu thông vốn có hiệu quả- nhưng trên thực tế còn xa lạ với phần lớn công chúng và đa số doanh nghiệp Việt nam.
- Hội nhập kinh tế sẽ là một thách thức đối với nền kinh tế Việt nam nói chung cũng như TTCK nói riêng. Việc ký kết hiệp định thương mại Việt- Mỹ sẽ tạo ra một thúc đẩy mới cũng như đặt ra thách thức to lớn. Động lực chính là góp phần khôi phục lại dòng đầu tư đang suy giảm mấy năm gần đây, thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, thúc đẩy quá trình đổi mới môi trường sản xuất kinh doanh, trước hết là môi trường chính sách và buộc các doanh nghiệp Việt nam nhanh chóng cải thiện sức cạnh tranh quốc tế của mình. TTCK Việt nam cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia, mặc dù có những hạn chế nhất định về tỷ lệ góp vốn vào công ty chứng khoán, vào đầu tư cổ phiếu trái phiếu, song cũng phải thấy rằng đây là một chính sách hết sức nhạy cảm và chịu sự tác động của các nhân tố khác trong quá trình hội nhập.
-Khu vực kinh tế tư nhân, về nguyên tắc, là lực lượng tham gia lâu dài của TTCK. Tuy nhiên, xét trên nhiều phương diện, lực lượng tham gia thị trường này còn nhiều hạn chế. Đó không chỉ do tiến trình cổ phần hoá chậm, và cũng không phải là thiếu những doanh nghiệp có đủ điều kiện niêm yết mà còn những vấn đề khác mang tính bao quát hơn như: môi trường đầu tư, chính sách bảo vệ các nhà đầu tư và khả năng thích ứng trong môi trường cạnh tranh.
-Khuôn khổ pháp lý, cơ chế hoạt động cho TTCK không thể tách rời với khuôn khổ pháp lý chung của nền kinh tế.Trong bối cảnh nền kinh tế đang chuyển đổi, bổ sung các văn bản pháp lý, đặc biệt là các quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực kinh tế tài chính là cần thiết. Song cũng chính sự thiếu ổn định đó cũng gây ra những trở ngại không nhỏ cho việc thiết lập một khuôn khổ pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho TTCK.
-Một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến việc tổ chức và hoạt động của TTCK, và cũng là yếu tố quyết định tương lai phát triển ngành chứng khoán Việt nam, là trình độ kiến thức và hiểu biết của xã hội nói chung về chứng khoán và TTCK còn rất hạn chế. Việc tuyên truyền và phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK chúng ta đã làm nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu phổ cập thông tin và kiến thức trong đại chúng. Sự hạn chế này dễ dẫn đến những đánh giá lệch lạc vai trò tích cực của TTCK, hoặc là đưa đến những quyết định sai lâm trong đầu tư và có thể là cơ hội cho những phần tử xấu trục lợi làm rối loạn thị trường. Mặt khác cũng phải nói thêm rằng trình độ cán bộ quản lý, kinh doanh chứng khoán cũng chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi, vì TTCK là vấn đề hết sức mới mẻ, chúng ta vừa làm vừa học vừa rút kinh nghiệm.Tình hình trên cho thấy rằng bên cạnh những triển vọng là những thách thức đặt ra đối với sự phát triển của TTCK ở Việt nam. Rõ ràng là vẫn còn nhiều công việc phía trước cần phải làm để TTCK có thể vận hành một cách an toàn, hiệu quả và có triển vọng tốt đẹp trong tương lai.
1.Giải pháp tăng cung hàng hoá cho TTCK:
Như đã phân tích ở trên, một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho TTCK Việt nam hoạt động chưa có hiệu quả đó là do tình trạng khan hiếm hàng hoá trên thị trường. Trên thực tế có tới 48 ngân hàng thương mại cổ phần( chiếm hơn 50% số ngân hàng thương mại Việt nam )ở Việt nam có nhu cầu tham gia TTCK. Do đó các chuyên gia cho rằng nếu số cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ phần này được phép tự do chuyển nhượng và tham gia niêm yết trên TTCK, thì nhu cầu của các nhà đầu tư về hàng hoá sẽ đáp ứng được một phần đáng kể và hàng hoá trên TTCK sẽ đa dạng hơn. Để nguồn hàng cho TTCK phong phú hơn, Ngân hàng nhà nước cũng cần lựa chọn một số ngân hàng thương mại cổ phần có uy tín, đủ tiêu chuẩn và điều kiện để giới thiệu cho UBCKNN đánh giá và xem xét cấp giấy phép cho các đối tượng này được tham gia hoạt động chứng khoán. Đồng thời Ngân hàng Nhà nước cần khẩn trương hoàn thiện các thủ tục pháp lý cho phép một số ngân hàng thương mại cổ phần được tự do chuyển nhượng cổ phiếu và tham gia niêm yết cổ phiếu tại TTGDCK.
1.1.Giải pháp nhằm tăng khối lượng giao dịch của trái phiếu chính phủ trên TTCK
Thực tế cho thấy, dự kiến của UBCKNN về việc trái phiếu chính phủ sẽ trở thành hàng hoá chủ đạo của TTCK trong thời gian đầu đi vào hoạt động đã không trở thành hiện thực. Phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ thứ 3 qua TTCK đã bị thất bại do lãi suất bỏ thầu thấp nhất (là 6,7%/năm) cao hơn lãi suất trần do Bộ Tài chính ban hành (6,65% /năm). Tới phiên đấu thầu thứ 4 thì không có một ai tham gia đấu thầu. Trên thị trường chứng khoán trái phiếu chính phủ luôn trong tình trạng đóng băng về giao dịch. Mặc dù trong tháng 10, TTGDCK đã có phối hợp với kho bạc nhà nước tổ chức đấu thầu đợt 5 trái phiếu chính phủ với khối lượng gọi thầu 200 tỷ đồng, kỳ hạn 3 năm nhưng đợt thầu đã không thành công. Vì vậy giá trái phiếu chính phủ tuy vẫn là 100.800 đồng nhưng không có giao dịch.Tất cả những điều này có thể lý giải vắn tắt như sau:
- Lãi suất trái phiếu hiện nay chưa thực sự hấp dẫnđối với nhà đầu tư trên thị trường thứ cấp. Mạng lưới các công ty kinh doanh,môi giới chứng khoán còn quá mỏng, chưa có điều kiện hình thành hiệp hội các nhà dầu tư như ở các nước kinh tế phát triển. Riêng nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán chính phủ chưa phát huy được những lợi thế của nó, thậm chí nó biến dạng gần giống đấu thầu công khai.
- Phần lớn các thành viên tham gia đấu thầu, bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ nhìn chung tiềm lực tài chính còn yếu(trừ số nhỏ các ngân hàng thương mại quốc doanh), đặc biệt các công ty chứng khoán mới được thành lập với số vốn điều lệ 40-50 tỷ đồng sẽ gặp nhiều khó khăn trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh chứng khoán, đặc biệt là trái phiếu chính phủ, chỉ có các tập đoàn tài chính mạnh mới có khả năng đầu tư, kể cả trong trường hợp lãi suất Chính phủ rất thấp.
- Do tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, chưa thu hút mạnh vốn đầu tư, các ngân hàng có tiềm lực vốn mạnh có thể đầu tư v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 197.DOC