LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương I: Tổng quan về thị trường chè thế giới và ngành chè Việt Nam 4
I. Tổng quan về thị trường chè thế giới 4
1. Sản lượng và nhu cầu tiêu thụ chè trên thế giới 4
1.1. Sản lượng 4
1.2. Nhu cầu 6
2. Các nước cung cấp và xuất khẩu chè chủ yếu trên thế giới 9
2.1. Tình hình chung 9
2.2. Một số nước xuất khẩu chè lớn trên thế giới 10
3. Các nước tiêu thụ và nhập khẩu chè chủ yếu trên thế giới. 13
3.1 Tình hình chung. 13
3.2. Một số nước nhập khẩu chè chủ yếu trên thế giới. 13
4. Giá chè thế giới. 17
5. Xu hướng biến động chè thế giới trong thời gian tới. 19
5.1. Về sản lượng và nhu cầu. 19
5.2. Về thị trường xuất khẩu và nhập khẩu chính. 20
5.3. Về giá cả. 22
II.Tổng quan về ngành chè Việt Nam 23
1. Giới thiệu về sự ra đời và phát triển của ngành chè Việt Nam. 23
1.1. Thời kỳ trước năm 1990. 23
1.2. Thời kỳ từ năm 1991 đến nay. 26
2. Vị trí cây chè trong đời sống và nền kinh té Việt Nam. 26
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất và xuất khẩu chè Việt Nam. 28
3.1. Các nhân tố sản xuất. 28
3.2. Các nhân tố về thị trường. 29
3.3. Các nhân tố về tổ chức và quản l.ý. 29
Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu Việt Nam trong thời gian qua. 30
I. Thực trạng xuất khẩu chè Việt Nam ( giai đoạn 1999 - 6/2003 ) 30
1. Đánh giá chung. 30
2. Các đánh giá về khu vực thị trường. 34
2.1. Đối với thị trường truyền thồng. 34
2.2. Đối với thị trường tiềm năng. 38
II. Năng lực cạnh tranh của mặt hàng chè Việt Nam. 42
1. Khái quát về nằng lực cạnh tranh. 42
2. Các nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh của mặt hàng chè. 42
3. Thực trạng năng lực cạnh tranh của mặt hàng chè Việt Nam. 43
3.1 Nguồn nhân lực. 43
3.2. Vùng nguyên liệu. 46
3.3. Công nghiệp chế biến. 50
3.4. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu. 52
3.5. Chất lượng sản phẩm. 54
3.6. Thị trường. 56
3.7. Về hiệu lực và hiệu quả tổ chức quản lý chính sách. 60
II. Những thành tựu đạt được và tồn tại trong xuất khẩu chè Việt Nam trong thời gian qua. 61
1. Những thành tựu đạt được. 61
2. Những tồn tại. 63
3. Nguyên nhân 65
3.1. Nguyên nhân khách quan. 65
3.2. Nguyên nhân chủ quan 65
Chương III: Các giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh của mặt hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế.
67
I. Quan điểm và mục tiêu phát triển chè xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn tới.
67
1. Những quan điểm chủ yếu để phát triển sản xuất và xuất khẩu chè VN.
67
2. Một số mục tiêu cơ bản phát triển sản xuất và xuất khẩu chè Việt Nam đến 2010.
68
2.1. Mục tiêu chung. 68
94 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1222 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng chè nhằm tăng sản lượng xuất khẩu ra thị trường quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, phù hợp cũng đem lại năng lực cạnh tranh cho mặt hàng chè.
Môi trường vĩ mô: hệ thống chính sách, biện pháp điều chỉnh ngành của Nhà nước.
Môi trường vi mô: là bản thân các hoạt động của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp mạnh sẽ có một nền kinh tế mạnh với năng lực cạnh tranh cao.
3. Thực trạng năng lực cạnh tranh của mặt hàng chè Việt Nam.
3.1. Nguồn nhân lực:
Có thể nói nguồn nhân lực cho ngành chè vô cùng dồi dào và phong phú. Hàng năm, nhờ vào sản xuất chè mà chúng ta đã giải quyết không biết bao nhiêu lượng người thất nghiệp. Đối với những hoạt động ở trung du, miền núi, vùng sâu, vùng xa thì nhân lực - nhất là những người lao động có tay nghề, được hấp thụ tri thức của văn minh công nghiệp trở thành tài sản vô giá của sự phát triển. ý thức rõ vấn đề này, đặc biệt đối với một ngành có tiến trình công nghiệp hóa khá sớm như ngành chè, việc phát triển, đào tạo nguồn nhân lực đã được chú trọng và đầu tư ở không ít các doanh nghiệp. Có thể đưa ra một vài ví dụ điển hình:
- Thứ nhất, là việc bổ sung, điều chuyển cán bộ "khung" trong ngành chè. Với việc xây dựng các nhà máy chè mới ở miền núi, ngay từ đầu thập kỷ 70, với "cái nôi" là Nhà máy chè Phú Thọ, nhiều cán bộ kỹ thuật, quản lý ở đây đã được điều đi xây dựng các vùng chè, nhà máy mới ở Tây Bắc, Việt Bắc, Lâm Đồng và Tây Nguyên. Ngoài ra còn có nguồn công nhân kỹ thuật quý báu tốt nghiệp trường công nhân kỹ thuật của ngành chè và trường trung học Công nghiệp thực phẩm (Đồ Sơn-Việt Trì). Việc làm này đã diễn ra vài thập kỷ nay.
- Thứ hai, là việc đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ và nâng cao trình độ cán bộ công nhân. Ngay từ đầu thập kỷ 80, sau khi ổn định tổ chức, Xí nghiệp Liên hiệp Công nông nghiệp Chè Trần Phú (Hoàng Liên Sơn) đã mời giảng viên các trường đại học, dạy nghề về dạy và gửi cán bộ đi bổ túc, nâng cấp kiến thức quản lý, kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ là đội trưởng, kế toán, trưởng phó các phòng ban nghiệp vụ đến giám đốc, phó giám đốc dự các lớp tập huấn ngắn hạn, nghe chuyên gia giảng về các mô hình quản lý mới như liên hiệp sản xuất. Đối với nông dân, đó là các lớp tập huấn kỹ thuật trồng và chăm sóc chè công nghiệp. Đối với công nhân, là tập huấn về quy trình kỹ thuật, vệ sinh công nghiệp...có thể nói Trần Phú là đơn vị mở đầu cho việc đào tạo cán bộ, công nhân khá bài bản, có ảnh hưởng mạnh và có tác dụng nhân rộng sau này, đặc biệt là phương thức đào tạo tại chỗ, chú trọng lớp trẻ, lớp kế cận.
Vào những năm của thế kỷ 80, ở Xí nghiệp chè Sông Lô (Tuyên Quang), quy trình đào tạo cán bộ công nhân đã được đưa vào các chương trình dự án phát triển, đặc biệt là các chương trình tiến bộ kỹ thuật có kèm theo các điều kiện ưu đãi sau đào tạo. Xí nghiệp còn mời chuyên gia giỏi để làm cố vấn kỹ thuật, tư vấn sâu về giống, chăm sóc, thu hoạch làm cơ sở cho việc ra quyết định. Trong giai đoạn đổi mới, Công ty chè Yên Bái đã có quy trình đào tạo cán bộ khá bài bản, là một điển hình của Tổng công ty chè Việt Nam. Năm 1990, cứ 156 người có một người có trình độ đại học hoặc 62 người có một người có trình độ đại học và trung học. Đến năm cuối thập kỷ 90, tỷ lệ này là 18 và 8. Ngoài ra, công ty Liên doanh chè Phú Bền (Phú Thọ) cũng là một trong những đơn vị làm tốt công tác đào tạo nguồn nhân lực. Việc phát triển nguồn nhân lực ở công ty này diễn ra một cách chặt chẽ, nghiêm túc, khoa học, đã góp phần không nhỏ vào việc đào tạo một đội ngũ cán bộ-công nhân có tri thức mới, được tiếp thu kỹ thuật mới,tiên tiến, có thể nói đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về đào tạo.
- Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực theo chiến lược "Viết dầu loang". Trong giai đoạn 1983-2001, hoạt động đào tạo nguồn nhân lực của Tổng công ty chè Việt Nam dã diễn ra thường xuyên bao gồm các phương thức: đào tạo tại chỗ (mở các lớp tập huấn, tập trung ngắn hạn, thông qua hội thảo, hội nghị chuyên đề quản lý-kỹ thuật...), đào tạo tập trung và tại chức (chủ yếu ở các trường Đại học trong nước), đào tạo ở nước ngoài (thông qua các lớp tập huấn quốc tế, hội thảo, tham gia học tập về marketing, quản lý, công nghệ...); đào tạo các chuyên gia cao cấp (thạc sĩ, tiến sĩ). Bốn phương thức này tạo cơ sở cho một nguồn nhân lực có tay nghề và trí thức bổ sung liên tục cho công cuộc phát triển, đặc biệt là đội ngũ kế cận. Hầu như đội ngũ cán bộ chủ chốt, kế cận, các chuyên gia hàng đầu của Tổng công ty đều được tham gia quá trình đào tạo này. Vì vậy, sự hụt hẫng cán bộ giữa các thế hệ đã được hạn chế đáng kể. Việc đào tạo có kế hoạch, có tổ chức và mang tính bắt buộc. Chiến lược "vết dầu loang" bắt đầu từ Tổng công ty đến tất cả các đơn vị thành viên. Đến nay, Tổng công ty đã có 40 thạc sĩ, tiến sĩ thuộc các lĩnh vực quản lý, kinh tế, công nghệ chế biến và nông nghiệp, 500 cán bộ có trình độ cao đẳng và đại học, 1000 công nhân tay nghề bậc 5 trở lên và 1000 cán bộ có trình độ trung cấp...Toàn ngành hiện có 3 giáo sư và phó giáo sư. Cùng với đội ngũ cán bộ tri thức nói trên, ngành chè có thể tự hào về thành tựu phát triển nguồn nhân lực với các điều kiện khó khăn đặc thù là miền núi, vùng sầu, vùng xa.
Tuy nhiên, vấn đề nguồn nhân lực trong ngành chè vẫn còn tồn tại những khó khăn sau:
Mặc dù đã đạt được những thành tựu nói trên, nhưng trước sự phát triển vũ bão của Khoa học-Công nghệ và đòi hỏi của công cuộc phát triển, những thành tựu nói trên còn hết sức khiêm tốn. Vấn nạn đầu tiên là chúng ta chưa nhiều chuyên gia đầu ngành. Chúng ta thiếu các chuyên gia có đẳng cấp quốc tế, có tri thức cao, tầm nhìn rộng và có khả năng tập hợp, tổ chức đội ngũ. Vì vậy, việc cấp thiết là phải tổ chức đào tạo chuyên gia đầu ngành, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ và marketing, thương mại và xúc tiến thương mại.
Năng lực ngoại ngữ của cán bộ còn yếu, trong thời kỳ đổi mới không thể phát huy tốt năng lực. Vì vậy, ngoài việc đào tạo tri thức, cần phải bổ túc về ngoại ngữ, gồm cả việc tự học và đào tạo bắt buộc, bài bản.
Tình trạng dồn ép công việc đối với một số cán bộ giỏi. Họ gần như phải gánh rất nhiều loại nhiệm vụ, kể cả công tác xã hội, đoàn thể. Tình trạng "thừa vẫn thừa, thiếu vẫn thiếu" chưa phải đã khắc phục được. Đào tạo cán bộ thật vất vả nhưng sử dụng họ đúng năng lực còn khó hơn.
Một số cán bộ rất "yên trí" với văn bằng sau đào tạo, ít chịu tu dưỡng, rèn luyện thêm. Vì vậy, việc đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực là một yêu cầu cấp thiết. Đó cũng là một cách nâng cấp cán bộ thiết thực nhất.
Nhìn rộng trong toàn ngành, vẫn có sự bất cập trong việc phân bố đội ngũ cán bộ-công nhân, giữa các khu vực tập trung, có trình độ công nghiệp hóa cao với các vùng sâu, vùng xa; giữa quốc doanh Trung ương và địa phương với các thành phần kinh tế khác. Vì vậy, sự ra đời của một trung tâm đào tạo của Hiệp hội chè Việt Nam là rất hợp lý, cần phải dành cho nó một sự quan tâm đặc biệt trong chiến lược phát triển.
Nhân lực của các doanh nghiệp cũng như những người công nhân, nông dân trồng chè phần nhiều thiếu hiểu biết, không được đào tạo, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thế hệ trước truyền lại, mai một nhiều, lại rất thiếu thông tin. Tình trạng này rất phổ biến ở các doanh nghiệp mới, doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguyên nhân trực tiếp gây ra cách sản xuất phi quy trình, không đảm bảo các thông số kỹ thuật cần thiết, nên chất lượng chè xấu.
Do vậy, cần tăng cường đẩy mạnh việc đào tạo nguồn nhân lực không chỉ cho ngành chè mà còn cho cả nền kinh tế nước nhà .
3.2. Vùng nguyên liệu
Đây là một thế mạnh rất lớn của Việt Nam. Trên phạm vi cả nước, trải dài trên 15 vĩ độ bắc, hình thành 7 vùng chè tập trung như: Vùng Tây Bắc; Vùng Việt Bắc -Hoàng Liên Sơn; Vùng Trung du Bắc Bộ; Vùng Bắc Trung Bộ; Vùng Tây Nguyên; Vùng chè duyên hải miền Trung; Vùng chè cánh cung Đông Bắc.
Hiện nay, chè được phân bố sản xuất và chế biến trên địa bàn 32 tỉnh, thành, 61 địa phương trong cả nước, chủ yếu tập trung ở trung du, miền núi với tổng diện tích 89.000 ha, trong đó 8 địa phương có chè lớn nhất: Phú Thọ, Yên Bái, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Sơn La, Lào Cai, Nghệ An, Lâm Đồng. Vị trí địa lý, khí hậu, đất đai của Việt Nam cũng rất thích hợp cho việc phát triển cây chè. Và ở vùng nào cây chè cũng thích hợp, cả vùng thấp, vùng giữa hay vùng núi cao. Chính nhờ vào những lợi thế này mà trong thời gian qua nước ta đã tận dụng ưu điểm để xây dựng chiến lược đầu tư, qui hoạch vùng nguyên liệu, đảm bảo nguyên liệu cho khâu chế biến và mục tiêu phát triển bền vững trên các vùng chè, tạo công ăn việc làm ổn định cho người lao động trung du, miền núi, vùng sâu, vùng xa; thực hiện xóa đói, giảm nghèo đã được triển khai một cách hệ thống, thiết thực, được các doanh nghiệp chè và hàng chục vạn người lao động nhiệt tình hưởng ứng. Chính sách phát triển mạnh mẽ sản xuất nguyên liệu thể hiện ở các mặt căn bản sau:
Vận dụng nghị định 01, các vùng nguyên liệu đã được tổ chức lại theo 3 loại hình mới: trang trại, khoán hộ và bán vườn chè. Trong việc tổ chức lại sản xuất nông nghiệp, vai trò chủ trang trại, chủ hộ và đội trưởng đã thay đổi một cách căn bản ở vị trí người chủ, được toàn quyền quyết định các phương án sản xuất kinh doanh và hiệu quả cuối cùng trên mảnh đất được giao khoán lâu dài của mình, với sự hỗ trợ của tiến bộ kỹ thuật, các dịch vụ kỹ thuật, khuyến nông, bảo vệ thực vật. Bên cạnh đó, việc tăng giá thu mua chè búp tươi gấp 2 lần trong những năm gần đây (từ 1900-2500đ/kg bình quân), hay là biện pháp đầu tư qua giá đã làm tăng thu nhập của người lao động, khuyến khích họ tự giác và yên tâm đầu tư cho vườn chè được nhận khoán. Điều đặc biệt quan trọng là hàng ngàn chủ hộ, chủ trang trại đã mạnh dạn đầu tư theo chiều sâu, áp dụng kỹ thuật tiến bộ, kết hợp trồng chè và kinh doanh tổng hợp nên đã thu lợi rất đáng kể.
Việc phát triển chè hiện nay đã thực sự đi tới những bản làng xa xôi, vùng sâu, vùng dân tộc ít người. Đồng bào Thái, Mông ở Chiềng Di (Vân Hồ-Mộc Châu- Sơn La) cũng đa bắt đầu chuyển từ trồng cây thuốc phiện sang trồng chè. Dự án chè ở huyện Minh Long (Quảng Ngãi) đã thuyết phục các hộ đồng bào dân tộc Hơrê tham gia chuyển giao công nghệ đốn cải tạo chè, kỹ thuật chăm sóc hái tạo tán chè, chế biến chè theo phương pháp thủ công và bán cơ giới. Trong canh tác hoàn toàn không dùng phân hóa học, không phun thuốc trừ sâu các loại, không dùng chất kích thích sinh trưởng, chè hoàn toàn sạch. Khuyến khích đồng bào cải tạo bảo vệ nương rẫy chè vừa tạo công ăn việc làm, ổn định thu nhập, đồng thời làm tốt công tác bảo vệ rừng.
Quá trình tổ chức sản xuất nguyên liệu và nông nghiệp có sự đóng góp tích cực, có tính chất quyết định của các công ty chè trên địa bàn từng vùng nguyên liệu, trong đó có nhiều đơn vị tiêu biểu, vừa là hạt nhân công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng trung du và miền núi vừa là động lực chủ yếu thu hút nguyên liệu cho công nghiệp chế biến phục vụ xuất khẩu.
Trong những năm qua, nhờ có nhiều cố gắng mà ngành chè đã có nhiều thành tựu trong việc phát triển vùng nguyên liệu. Dưới đây là một số kết quả mà ngành chè Việt Nam đã đạt được để nâng cao chất lượng vùng nguyên liệu:
ã Về giống: Cho đến nay chúng ta đã thu thập được khoảng hơn 130 giống chè có nguồn gốc cả trong và ngoài nước tập hợp tại vườn tiêu bản của Viện nghiên cứu chè.
Các giống chè thu thập giai đoạn 1918-1935 là 23 giống (trong đó có 10 giống nhập nội); giai đoạn 1959-1990 là 37 giống (giống nhập nội là 16); giai đoạn 1994-1997 là 34 giống (26 giống nhập nội); giai đoạn 1999-2003 thì chủ yếu toàn giống nhập nội. Đây là một cố gắng rất lớn vì thực tế cho thấy trong hàng chục năm qua, vấn đề giống vẫn rất bức xúc đối với những người làm chè Việt Nam, những giống mới được nhân ra đại trà vẫn còn nhiều vấn đề giải quyết về cơ cấu, chất lượng và còn quá nhỏ bé về số lượng so với nhu cầu phát triển. Hơn nữa, trong những giống mới nhập nội nói trên, đã có 11 giống có nguồn gốc ấn Độ, Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng Việt Nam và có khả năng nhân rộng, trong đó có các giống quý như Mironi (Nhật), Long Tỉnh, Kim Huyên, Ngọc Thúy, Văn Xương (Đài Loan), Bát Tiên (Trung Quốc) và 4 giống mới của vùng Assam (ấn Độ). Đây là một vốn quý để thực hiện mục tiêu thay thế dần những giống chất lượng thấp bằng một tập đoàn giống có chất lượng cao hơn trong những năm tới.
(12) Báo cáo của Tổng công ty chè Việt Nam năm 2003
Mấy năm gần đây, Viện nghiên cứu chè đã thực hiện một số đề tài khoa học về điều tra xác định khả năng thích ứng của các giống chè nhập ngoại ở một số vùng sinh thái, nghiên cứu xây dựng mô hình thâm canh tổng hợp để đưa năng suất chè bình quân lên hơn 10 tấn/ha; nghiên cứu áp dụng quy trình công nghệ chế biến chè đen, chè xanh chất lượng cao, nghiên cứu tưới nước cho chè, nghiên cứu sản xuất chè Bảo Thọ...(12)
Các giống chè TB14, PH1 sẽ tiếp tục được phát triển. Một số giống mới như Trung Du là Shan, LDP1 và LDP2 là những giống đã được thử nghiệm cho năng suất cao, chất lượng tốt sẽ được trồng đại trà khi đủ điều kiện. Các loại giống chè Đài Loan như Cloang, Kim Xuyên, Tứ Quý, Thủy Ngọc...tuy có chất lượng tốt, sản phẩm chế biến có giá trị cao nhưng đòi hỏi thị trường, thiết bị chế biến phù hợp.
ã Về canh tác (thâm canh cao độ): Đây là một nhóm các phương pháp tổng hợp nhằm nâng cao chất lượng và sản lượng nguyên liệu từ phân bón, tưới tiêu, trồng cây bóng mát, thu hái, chăm sóc và bảo quản chè cho đến các khâu đốn, tủ giữ ẩm, bảo vệ thực vật. Đó là một loạt các biện pháp như IPM, trồng chè sạch, chè hữu cơ không dùng thuốc sâu, tăng lượng phân hữu cơ, không bón phân NPK đơn độc trồng chè trái vụ. Cải tạo đất là một trong những mục tiêu hàng đầu trong các biện pháp thâm canh nhằm kéo dài tuổi thọ, tăng chu kỳ kinh tế của cây chè. Các biện pháp thâm canh được đặc biệt chú trọng vào những năm 80, đặc biệt phát triển mạnh và trở thành phổ biến trong những năm 90, thông qua con đường đầu tư qua giá và các biện pháp kích thích sản xuất khác. Nhờ áp dụng giống mới và các biện pháp thâm canh cao độ năng suất chè ở nhiều vùng nguyên liệu rất cao. Mộc Châu (100 tạ/ha); Thanh Niên, Phú Sơn (100-160tạ/ha); Đoan Hùng, Trần Phú, Nghĩa Lộ, Sông Lô, Mỹ Lâm, Tổng công ty chè Việt Nam (70-100 tạ/ha).
ã Về phun thuốc trừ sâu: Trong số 11 loại thuốc sâu và 5 loại thuốc được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt cho đăng ký sử dụng trên chè theo quyết định 16/2002/QĐ-BNN thì thuốc Actara 25 WG do hãng Syngenta - Thụy Sĩ sản xuất cho thấy có nhiều tính chất phù hợp và thực tế nông dân thực hiện mang lại hiệu quả rõ rệt. Loại thuốc này được đăng ký để trừ nhiều đối tượng sâu hại nhất. Trong khi các loại khác chỉ mới được đăng ký trừ một đối tượng hoặc Rầy xanh hoặc Bọ cánh tơ, hoặc Nhện thì Actara 25WG đã được đăng ký để trừ diệt cả 3 đối tượng sâu quan trọng nhất trên chè đó là: Rầy xanh (chlorita Flavescens), Bọ cánh tơ (physothirip setiventris) và Bọ xít muỗi (helopeltis theivora)
ã Về thủy lợi: Không phải cho đến nay phương pháp tưới nước bằng máy mới được sử dụng mà ngay từ đầu thập kỷ 80, các nông trường Trần Phú, Nghĩa Lộ, Phú Sơn đã ứng dụng phương pháp này. Nhưng hiện nay, nó đã được phát triển mạnh ở Mộc Châu (Sơn La), Long Phú (Hà Tây) và nhiều địa phương khác. Thủy lợi hóa cũng là mục tiêu lớn vì ai cũng biết trong các hệ thống canh tác ở vùng đất dốc, nước là vấn đề đặc biệt quan trọng. Hiện nay, tưới nước, phun thuốc bằng máy đã được thực hiện đồng bộ ở nhiều nơi.
Bên cạnh những mặt tích cực cũng cần phải nhận thức rõ những tồn tại trong phát triển vùng nguyên liệu:
Một số vùng chưa phá được thế sản xuất độc canh, chưa đa dạng hóa sản phẩm ở trình độ sản xuất hàng hóa. Cơ cấu giống chè hiện nay chưa đáp ứng được những mục tiêu chiến lược phát triển cao về mặt chất lượng, còn đơn điệu, chậm được đổi mới và thay thế. Cho đến nay việc sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật vẫn là vấn đề bất cập; nhà nước vẫn chưa có biện pháp quản lý hữu hiệu. Tình hình buôn bán các loại thuốc sâu cấm sử dụng vẫn diễn ra tràn lan gây khó khăn cho việc quản lý của các doanh nghiệp. Vệ sinh an toàn thực phẩm đang là một vấn đề cấp bách đối với người tiêu dùng trong nước và cộng đồng quốc tế, bởi vậy những sản phẩm chè có dư lượng thuốc sâu vượt quá mức cho phép thông qua kiểm tra phân tích sẽ không vào được thị trường.
Vấn đề tiêu chuẩn hóa trong tất cả các khâu trồng, chăm sóc, thu hoạch, vận chuyển, bảo quản, chế biến, vệ sinh công nghiệp, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp của sản phẩm chưa được quan tâm đúng mức đã hạn chế các biện pháp nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm cũng như khả năng thâm nhập thị trường.
Phát triển vùng nguyên liệu - nâng cao chất lượng sản phẩm chè là mục đích cao nhất của ngành chè Việt Nam để cùng với người Việt Nam ngày một nâng cao vị thế của chè Việt Nam trên thị trường thế giới.
3.3. Công nghiệp chế biến
Công nghiệp chế biến là một khâu quan trọng có tính quyết định trong quá trình sản xuất chè, vừa thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển đồng thời tạo điều kiện thuận lợi mở rộng thị trường tiêu thụ.
Đến nay, công nghiệp chế biến chè ở Việt Nam đã có những bước phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Chúng ta có cơ sở chế biến chè có quy mô nhỏ, vừa và lớn với cả công nghệ OTD và CTC đối với chè đen; có cả cơ sở chế biến chè xanh theo công nghệ Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản.... đã tạo ra hàng chục măt hàng với hàng trăm loại bao bì mẫu mã khác nhau. Các cơ sở chế biến đã được phủ kín các vùng chè tập trung chuyên canh lớn trong cả nước, kể cả một số vùng sâu, vùng xa.
Trong những năm qua, công nghiệp chế biến chè đã phát triển khá mạnh, đáp ứng được nhu cầu chế biến chè búp tươi sản xuất ra, do tăng năng suất và mở rộng diện tích, chất lượng sản phẩm đã tăng rõ rệt, nhất là những sản phẩm của các nhà máy có công suất từ 12 tấn/ ngày với thiết bị đồng bộ. Tỷ lệ chè qua công nghiệp chế biến chiếm khoảng 85% (còn lại chế biến thủ công hoặc thủ công bán cơ giới). Khâu chế biến hiện nay được đánh giá là có chất lượng trung bình trên thế giới (không kể chất lượng nguyên liệu).
Theo số liệu điều tra chưa đầy đủ đến năm 2001 cả nước đã có trên 175 nhà máy chế biến chè trong đó có 164 nhà máy chế biến từ chè búp tươi với tổng công suất 1.825 tấn búp tươi/ngày, năng lực chế biến 273.000-280.000 tấn búp tươi/năm (61.000-65.000 tấn sản phẩm / năm). Ngoài ra còn có hàng chục nghìn xưởng chế biến thủ công bán cơ giới và hàng vạn lò chế biến thủ công.(13)
(13)Tạp chí Người làm chè số 3, Tổng công ty chè Việt Nam - năm 2001, trang 25
Có được những bước phát triển đó là do ngành chè Việt Nam đã phát huy nội lực một cách triệt để, đồng thời chủ động phối hợp với nhiều cơ quan nghiên cứu trong cả nước như Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, Viện máy công nghiệp, Viện công nghệ thu hoạch, Viện công nghệ sinh học thuộc Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia... đã nghiên cứu cải tiến và chế tạo thiết bị, cải tiến đổi mới quy trình công nghệ chế biến và đa dạng hóa sản phẩm. Các tiến bộ kỹ thuật được áp dụng trong công nghệ chế biến chè những năm gần đây đã đạt được nhiều kết quả đáng kể.
Với việc đưa các tiến bộ kỹ thuật vào công nghệ chế biến chè, trong thời gian qua chất lượng chè của Việt Nam đã được cải thiện và nâng lên rõ rệt. Đáp ứng được nhu cầu dùng chè ngày càng tăng về số lượng, phong phú về chủng loại nhưng đòi hỏi chất lượng ngày càng cao.
Tuy nhiên, công nghiệp chế biến chè còn chú trọng đến qui mô sản lượng, chưa quan tâm đầu tư đồng bộ, chiều sâu để nâng cao chất lượng sản phẩm. Các nhà máy phần lớn trang bị thiết bị của Liên Xô cũ nay đã quá cũ, nhiều xưởng đã hết thời gian khấu hao sử dụng. Một số nhà máy được xây dựng theo tiêu chuẩn thiết kế của Anh, ấn Độ và Trung Quốc song phần lớn không được hiện đại, còn nhiều nhược điểm nên những sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu của chúng ta chỉ đạt mức trung bình của thế giới. Các xưởng chế biến thủ công quá nhiều, nên cạnh tranh các nhà đầu tư qui mô lớn, ảnh hưởng xấu đến chất lượng và uy tín chè Việt Nam trên thị trường thế giới.
Thực trạng bố trí các cơ sở chế biến lớn, vừa và nhỏ trên một địa bàn như hiện nay là chưa hợp lý. Các cơ sở được cấp giấy phép đầu tư xây dựng với quy mô nào thì phải đảm bảo có vùng nguyên liệu trên địa bàn đó. Tình trạng cấp giấy phép xây dựng không theo quy hoạch vùng nguyên liệu đã làm ảnh hưởng đến năng lực sản xuất của các công trình đầu tư lớn hiện đại, làm giảm hiệu quả kinh tế xã hội của toàn ngành, từng đơn vị và giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Về trình độ công nghệ và thiết bị chế biến, mặc dù đã đạt được một số thành tựu kể trên của ngành chè nước ta nhưng mới chỉ đạt mức trung bình yếu. Trong đó các cơ sở chế biến lớn đạt mức tiên tiến, các cơ sở chế biến vừa đạt mức trung bình, còn các cơ sở chế biến nhỏ đạt ở mức rất thấp.
Việt Nam vẫn tiếp tục cho xây dựng thêm những cơ sở chế biến mới phục vụ cho nhu cầu về chất lượng ngày càng cao của thế giới.
3.4. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu:
Hiện nay Việt Nam chỉ sản xuất 2 loại chè đen và chè xanh, trong đó chủ yếu chú trọng sản xuất chè đen (chiếm 80%) phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu. Chè đen được chế biến theo hai phương pháp công nghệ là orthodox và CTC, trong đó tỷ lệ CTC ngày càng lớn. Tuy nhiên chè Việt Nam vẫn chưa thu hút được số lượng lớn người tiêu dùng do còn nghèo nàn về chủng loại, mẫu mã không đa dạng và kém hấp dẫn; những công nghệ chế biến của ta theo dây chuyền CTC và OTD đã cũ cần phải sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện theo xu hướng nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hóa sản phẩm. Nhận rõ những khuyết điểm đó, những năm qua chúng ta đã tiến hành nghiên cứu và cho sản xuất đại trà nhiều sản phẩm chè mới như chè túi lọc, chè bột, chè hoa quả...những loại sản phẩm đang được ưa chuộng và rất phổ biến trên thị trường thế giới. Trong 2 năm gần đây, Việt Nam đã đưa ra một loạt sản phẩm mới chất lượng cao, mẫu mã đẹp, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Điển hình là chè Hibiscus do công ty chè Kim Anh phối hợp cùng Trung tâm nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học nghiên cứu thành công. Chè Hibiscus vị chua, ngọt, hương thơm đặc trưng, màu sắc quyến rũ và lóng lánh như màu rượu anh đào Nhật Bản. Loại chè này rất được ưa chuộng trên thị trường thế giới và có giá trị kinh tế cao, hứa hẹn một tiềm năng xuất khẩu lớn nếu ta biết khai thác.
Nhiều loại sản phẩm mới mang xuất xứ ở các vùng chè trồng mọi miền đất nước đã liên tục xuất hiện, đặc biệt là các sản phẩm chất lượng cao như: Shan Trúc Thanh, các loại chè nhài sen của công ty Cát Thịnh, chè Mỹ Lâm, Sông Lô, Rồng Vàng, một số loại chè Mộc Châu mới, chè Cổ Loa, Bắc Sơn...
Ngoài ra, Tổng công ty chè Việt Nam phối hợp với công ty chế biến chè và nghiên cứu sản phẩm Cổ Loa thử nghiệm và đưa ra thị trường bảy sản phẩm chè túi lọc chất lượng cao: Teavina, chè hoa tam thất, chè hương đào, hương xoài, chè Sâm, chè Bảo thọ và chè Linh Chi. Mặc dù mới đưa ra thị trường trong một vài năm gần đây nhưng đã có những phản hồi tốt từ phía người tiêu dùng (74% khách hàng đánh giá chất lượng chè thuộc loại khá và tốt). Cả bảy sản phẩm mới này đều có hương vị đặc trưng hài hòa, không quá đậm cũng không quá gắt, màu nước đẹp. Nhìn chung khả năng cạnh tranh của những sản phẩm lớn trên cả thị trường trong lẫn ngoài nước song vấn đề đặt ra là làm sao tạo dựng được uy tín, danh tiếng cũng như phổ biến rộng khắp người tiêu dùng hơn nữa.
Trong chiến lược sản phẩm mới của chè Việt Nam thời gian qua có một điểm nổi bật khác những năm trước là chúng ta đã chú trọng hơn tới những ứng dụng đối với sức khỏe của chè.
Mặc dù vậy, chè Việt Nam không có thương hiệu nên chủ yếu là xuất khẩu thô, chất lượng không cao nên ảnh hưởng rất lớn đến giá cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
3.5. Chất lượng sản phẩm.
Trong những năm qua, ngành chè Việt Nam đã đạt được những tiến bộ rõ rệt về chất lượng sản phẩm.
Về ngoại hình: sản phẩm chè có độ đồng đều cao hơn trước, thể hiện ở các mặt hàng chè cấp cao OP, P và chè cấp thấp hơn PS và BSP. Mặt hàng chè FBOP tương đối chắc, đen và ít mảnh hơn. Tỷ lệ vụn-bụi được bảo đảm theo đúng tiêu chuẩn ở tất cả các mặt hàng. Tính đặc trưng của ngoại hình mặt hàng được thể hiện rõ, đúng chủng loại mặt hàng và tên gọi, đồng thời cũng đã hạn chế được một phần cẫng đỏ ở chè cao cấp, râu xơ ở chè cấp thấp.
Về nội chất: Các khuyết tật nặng như khê khét, chua thiu không còn. Sản phẩm chè có mùi lạ không được nhập kho. Tuy nhiên sản phẩm chè có mùi thơm tự nhiên lại ít đi, kể cả chè Mộc Châu hương thơm cũng giảm. Sản phẩm chè nhập kho đa phần có mùi thoáng ngốt, thoáng cao lửa.
Các tiêu chuẩn ngành về chè nguyên liệu, chè đen, chè xanh, chè vàng, chè hương các loại đã được ứng dụng. Cả nước có một viện nghiên cứu và một trung tâm nghiên cứu phát triển công nghệ ở Lâm Đồng. Mạng lưới này là hệ thống kiểm tra giám sát, nghiệm thu về chất lượng sản phẩm xuất khẩu và tiêu dùng nội địa, đóng góp phần quan trọng để sản phẩm chè Việt Nam đến với người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Năm 2003, ngành chè phải đối mặt với nhiều khó khăn do yêu cầu chất lượng sản phẩm cao hơn, nhất là đối với cộng đồng Châu Âu, rồi những biến động trên thị trường tiêu thụ, do tác động bởi cuộc chiến tranh Iraq. Các doanh nghiệp có phần băn khoăn lo lắng về vấn đề tiêu thụ sản phẩm nên một mặt tìm khách hàng mới, mặt khác có đối sách trong quản lý sản xuất, thu mua nguyên liệu chế biến như giảm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- J0082.doc