Đề tài Các giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU

MỤC LỤC

Lời nói đầu 1

Chương I 3

Những vấn đề cơ bản và vai trò của xuất khẩu 3

trong nền kinh tế Việt Nam 3

I/ Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu 3

1. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu. 3

2. Các hình thức của hoạt động xuất khẩu. 3

3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu. 5

II/ Nội dung chính của hoạt động xuất khẩu 6

1.Nghiên cứu tiếp cận thị trường. 6

2.Lập phương án kinh doanh 6

3.Lựa chọn đối tác. 7

4.Đàm phán ký kết hợp đồng. 7

5.Thực hiện hợp đồng. 7

Chương II 8

Thực trạng của hoạt động xuất khẩu 8

hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU 8

I. Khái quát chung về thị trường EU 8

1. Vài nét chung về liên minh Châu Âu và quan hệ Việt Nam-EU 8

2. Đặc điểm thị trường EU 9

II. Thực trạng của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU 12

1. Hoạt động xuất khẩu chung của dệt may Việt Nam 12

2. Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU 14

III-Thành công, hạn chế và nguyên nhân của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU 19

1. Thành công 19

2. Hạn chế 21

3. Nguyên nhân 22

Chương III các giải pháp và kiến nghị đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU 24

I/ Triển vọng phát triển hàng dệt may việt nam sang thị trường eu 24

1. Các nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU. 24

2. Triển vọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 2010 - 2015. 26

II/ Các giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may việt nam sang thị trường eu. 28

A- Các giải pháp đối với doanh nghiệp 28

1. Nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm - Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. 28

2. Tạo nguồn thích hợp và tăng uy tín với thị trường EU, nhằm chuẩn bị cho thời kỳ hậu GSP và hậu WTO. 30

3.Sử dụng phương thức thâm nhập thị trường EU có hiệu quả thông qua các hình thức: 31

4.Tăng tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp, giảm tỷ trọng gia công và xuất khẩu qua nước thứ ba. 31

5. Thu hút vốn đầu tư và sử dụng có hiệu qủa nguồn vốn. 32

B- Kiến nghị đối với nhà nước. 33

1. Cũng cố mở rộng thị rường xuất khẩu -Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, hỗ trợ cho các doanh nghiệp. 33

2 Chú trọng công tác đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ thương mại và tổ chức quản lý. 34

3.Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp EU tham gia vào quá trình sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam 35

4.Cải tiến thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu 35

5.Tạo sự gắn kết giữa các doanh nghiệp 36

6.Chú trọng và quy hoạch vùng trồng bông 36

7.Có chính sách hỗ trợ, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi 36

Kết luận: 37

Tài liệu tham khảo: 38

Bảng biểu 36

 

 

 

doc40 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2020 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ung bằng thư từ trao đổi ký tắt ngày 1/8/1995 giữa chính phủ Việt Nam và Cộng đồng kinh tế Châu Âu, quy định những điều khoản về xuất khẩu hàng dệt may sản xuất tại Việt Nam sang EU. Tiếp đến, ngày 24/7/1996 tại Bruxen Việt Nam và EU đã chính thức ký Hiệp định về buôn bán hàng dệt, may mặc. Theo Hiệp định này Việt Nam được tự do chuyển đổi Quota giữa các mặt hàng một cách rộng rãi đồng thời EU cũng dành cho phía Việt Nam quy chế tối huệ quốc (MFN) và chế độ ưu đãi phổ cập (GPS). Khi Hiệp định hàng dệt may thời kỳ 1992-1997 hết hạn thì Hiệp định buôn bán dệt may Việt Nam-EU giai đoạn 1998-2000 được ký kết ngày 17/11/1997 cho phép nâng hạn ngạch dệt may từ Việt Nam sang EU tăng lên 40% so với giai đoạn 5 năm (1993-1997) với mức tăng trưởng 3-6%/năm. Sau đó, đại diện chính phủ Việt Nam và Liên hiệp Châu Âu đã ký Hiệp định về buôn bán hàng dệt may cho 3 năm 2000-2002 trong đó Việt Nam và EU cam kết mở rộng cửa thị trường cho hàng dệt may xuất khẩu của hai bên. Theo Hiệp định này EU đồng ý tăng khoảng 30% hạn ngạch cho hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này. Hiệp định này có hiệu lực từ ngày 15/6/2000. Và đến 1/1/2005, khi mà EU đã chính thức xoá bỏ hạn ngạch cho dệt may Việt Nam. Đây là một bước ngoặt trong quan hệ xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU. Tuy nhiên, sau khi tất cả các nước trong tổ chức thương mại WTO được xoá bỏ hạn ngạch thì dệt may nước ta vấp phải sự cạnh tranh khốc liệt. Trong thời gian đầu, kim ngạch xuất khẩu khụng tăng trưởng, đặc biệt thị trường EU đó bị sụt giảm 8% trong quý 1 nam 2005. Xuất khẩu của ngành vẫn sẽ tiếp tục gặp nhiều khú khăn hơn nữa trong thời gian tới. Tình hình chung về chất lượng, giá cả, mẫu mã sản phẩm Thị trường xuất khẩu hàng dệt may chủ yếu của Việt Nam là các nước thuộc khối EU, Mỹ và Nhật. Vì thế mà EU được xem là thị trường xuất khẩu trọng điểm của nước ta và đang được tập trung khai thác có hiệu quả các tiềm năng cuả thị trường này. Hàng năm EU nhập khẩu trên 103 tỷ USD quần áo các loại nhưng trong đó chỉ khoảng 10-15% là tiêu dùng còn lại là 85-90% sử dụng theo mốt. Do đó trong giai đoạn 2004-2007 tốc độ tăng trưởng bình quân của hàng dệt may Việt Nam sang EU là 27%. Mặc dù chất lượng, giá cả, mẫu mã sản phẩm xuất khẩu sang EU được đánh giá khá tốt, nhưng không vì thế mà hàng dệt may Việt Nam có thể thống lĩnh được thị trường này, cụ thể là chất lượng của sản phẩm vẫn chưa đạt được đúng như tiêu chuẩn của khách hàng đòi hỏi và chưa ổn định. Do đó gần như các sản phẩm này không phải là hàng tiêu dùng đối với khách hàng có thu nhập cao. M mã hầu như chưa được đổi mới một cách kịp thời với thị hiếu của người tiêu dùng. Vì thế khả năng đúng mốt, hợp thời trang của dệt may gần như không đáp ứng được. Bên cạnh đó giá xuất khẩu của các mặt hàng năm 2004 bị giảm thấp 15-20% so với năm 2003 nên hiệu quả kinh tế mang lại lợi nhuận không nhiều. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh của các cong ty trong việc nâng cao uy tín mở rộng thâm nhập thị trường. Tuy nhiênvì thị trường EU tiêu dùng theo tầng lớp nên sản phẩm dệt may Việt Nam thường thích hợp, thoả mãn với nhu cầu ở tầng lớp trung lưu nghĩa là đã có sự chấp nhận mặt hàng này hơn là chất lượng cũng như giá cả vừa với mức thu nhập của họ. Với thị trường EU luôn đòi hỏi chất lượng cao, mẫu mã được đổi mới liên tục, số lượng hàng dệt may xuất khẩu sang EU còn quá ít. Nhưng phải thừa nhận rằng Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU đã tạo những bước tiến mới trong xuất khẩu hàng dệt may nước ta. Vì vậy điều quan trọng hiện nay để thâm nhập vào thị trường này và tăng cường xuất khẩu là lên tục nâng cao chất lượng và đổi mới sản phẩm về mẫu mã, kiểu dáng mầu sắc...nhằm cạnh tranh hiệu quả hơn với các đối thủ khác trên thị trường này. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU Là một thị trường đầy tiềm năng với sức tiêu dùng hàng dệt may cao hàng đầu thế giới: 17kg/người/năm. EU thực sự trở thành thị trường rộng lớn. Vì vậy nhu cầu tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU luôn là vấn đề cần thiết. Hiện nay hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang hơn 45 nước trên thế giới trong đó xuất khẩu sang các nước EU chiếm 34-38% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta. Với vị trí thứ hai, sau Hoa Kỳ, EU luôn được coi là thị trường tiềm năng và truyền thống của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam. Trong những năm gần đây xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này đều duy trỡ được mức tăng trưởng khá. Trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang EU, hàng dệt may có kim ngạch đứng thứ hai sau giày dép. Số liệu thống kê cho thấy, nếu năm 2003 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU chỉ đạt 537,1 triệu USD, đến năm 2004 đó tăng lên mức 760 triệu USD, năm 2005 tiếp tục tăng lên mức 882,8 triệu USD, năm 2006 vượt qua ngưỡng 1 tỷ USD (đạt 1,245 tỷ USD), năm 2007 đạt 1,432 tỷ USD, tăng 15% so năm 2006, tăng 62,2% so năm 2005, gấp gần 3 lần so năm 2003 Qua các số liệu trên ta thấy giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU luôn tăng lên nhanh chóng nhưng thị phần chiếm lĩnh được lại quá nhỏ bé. Một phần là do hàng dệt may phải chịu mức hạn ngạch quá thấp và EU lại không coi Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường nên hàng Việt Nam còn chịu sự phân biệt đối xử so với hàng của các nước khác khi EU xem xét áp dụng các biện pháp chống phá giá. Mặt khác là còn nhiều chủng loại mặt hàng có nhu cầu đặt hàng nhưng các công ty may vẫn chưa sản xuất vì họ đòi hỏi rất cao về chất lượng, mẫu mã trong khi đó yêu cầu về trang thiết bị để sản xuất chủng loại hàng này hầu như không đáp ứng được, trình độ công nhân lành nghề chưa cao sản xuất không đúng theo các chỉ số tiêu chuẩn đề ra cũng như khả năng sử dụng và vận hành máy móc có hiệu quả. Chính vì vậy mà chất lượng còn non kém và không thâm nhập được sâu hơn vào thị trường này. Đây thực sự là vấn đề nan giải đối với các công ty may trong việc mở rộng tiếp cận sâu hơn thị trường này. Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU Đơn vị: triệu USD Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 KNXK 609 589 546 600 658 907 1243 1500 (Nguồn: Tổng công ty Vinatex) Kim ngạch xuất khẩu sang từng nước trong Liên minh Châu Âu Mặc dù là cùng thuộc khối EU song từng thành viên trong khối lại có những tập quán, quan niệm riêng vì thế điều này gây tác động lớn trong việc tiêu dùng hàng hoá nói chung và hàng dệt may nói riêng. Nếu như ở Đức họ quan tâm đến giá cả thì ở Pháp họ không chỉ quan tâm đến giá mà còn quan tâm đến kiểu dáng, thời trang của sản phẩm và thị hiếu tiêu dùng của họ quan tâm đến nhãn mác. Người Anh thì lại đặc biệt quan tâm đến chất lượng, đây là yếu tố để quyết định giá cả... Chính vì vậy, mặc dù hàng Việt Nam sản xuất là như nhau song mức độ xuất khẩu sang từng nước trong khối lại có mức chênh lệch lớn. Cụ thể là hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ tận dụng được 40% năng lực của mình tại thị trường EU trong đó các nước nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam là Đức (40-50%), Pháp (12-14%), Hà Lan (10-13%), Anh (7-9%), Italia (6-7%), Bỉ (4-5%)... Như vậy với các số liệu trên chứng tỏ rằng nhu cầu tiêu dùng của thị trường này là lớn song do những khó khăng gặp phải của các công ty dệt may về giá cả, chất lượng, mẫu mã nên khả năng đáp ứng chưa cao. Do chất lượng chưa được ổn định, đôi khi không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp EU, như hàng vẫn còn những tạp chất, các vết bẩn trên sản phẩm hàng dệt, ngoài ra còn nhiều hoạt động xuất khẩu sản phẩm của Việt Nam không đảm bảo đúng các quy định trong hợp đồng về quy cách kỹ thuật, số lượng, thời gian vận chuyển. Do vậy cũng làm giảm đáng kể mức lưu chuyển hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu sang một số nước EU (Đơn vị: 1000 USD) STT Thị trường Năm 2003 Năm 2004 KNXK Tỷ trong (%) KNXK Tỷ trong (%) 1 Đức 184562 30.76 226872 34.48 2 Anh 74442 12.41 97261 14.78 3 Phỏp 62240 10.37 90508 13.78 4 Tõy Ban Nha 41355 6.89 66597 1012 5 Italia 37704 6.28 53287 8.10 6 Bỉ 32658 5.44 39144 5.96 (Nguồn : Tổng cục Hải quan) f) Chủng loại hàng may mặc được tập trung xuất khẩu. Trong các chủng loại hàng may mặc x.uất khẩu sang EU, hầu hết các doanh nghiệp may mới chỉ tập trung vào một số sản phẩm dễ dàng, các mã hàng nóng như: áo jacket, áo sơmi, áo váy... Cụ thể tỷ trọng xuất khẩu sang EU là: jacket (51,7%), áo sơmi (11%), quần âu (5%), áo len và áo dệt kim (3,9%), quần áo (3,5%), T Shirt và Polo Shirt (3,4%), quần dệt kim (2,7%), bộ quần áo bảo hộ lao động (2,1%), áo khoác nam (1,8%) và áo sơmi nữ (1,4%)-Nguồn: Bộ thương mại . Trong đó đặc biệt loại được xuất khẩu chủ yếu trong cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu sang EU là mặt hàng áo jacket 2 hoặc 3 lớp. Năm 2007 Việt Nam xuất khẩu sang EU gần 23,7 triệu chiếc, tăng gần 5 triệu chiếc (hay 27,8%) so với năm 2006. g) Hình thức xuất khẩu chủ yếu. Hiện nay hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU chủ yếu theo hình thức gia công (chiếm tỷ trọng 80%), vì thế hiệu quả thực tế là rất nhỏ. Hiện có tới 40% hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU thông qua các thị trường Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore. Các nước này thường là nhập khẩu hoặc thuê Việt Nam gia công rồi tái xuất sang thị trường EU. Chính điều này đã tạo nên sự bất cập đối với các công ty dệt may Việt Nam, bởi như vậy họ không tự khẳng định được vị thế của mình trên thị trường mà lại phải ẩn sau nhãn mác của một hãng nước ngoài, họ không có khả năng cũng như luôn bị thụ động trong việc thực hiện hoạt động sản xuất của mình về mẫu mã, chủng loại. Đặc biệt là gía cả được trả rất thấp, điều đó làm khả năng kinh doanh lợi nhuận không cao và như vậy vốn đầu tư cho thiết bị không có thì chất lượng thấp, khả năng sáng tạo mẫu mã kém không tiêu thụ được. Và cứ như vậy nó sẽ luôn tạo nên một vòng luẩn quẩn cho các công ty dệt may Việt Nam. h. Cạnh tranh với một số nước trong khu vực trên thị trường EU Với tư cách là một nhà xuất khẩu mới còn non trẻ hơn nữa lại mới là thành viên của WTO nên còn gặp nhiều khó khăn. Các quốc gia và vùng lãnh thổ có năng lực sản xuất lại có nền xuất khẩu lâu đời đã chiếm tỷ trọgn khá lớn vào các thị trường quan trọng như: Trung Quốc, Hồng Kông, Macao chi phối 43,6% giá trị hàng dệt may nhập khẩu của EU, các nước Đông á có 16% thị trường nhập khẩu hàng dệt may ở EU và Đông Nam á chiếm 14,1% ở EU. III-Thành công, hạn chế và nguyên nhân của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU 1. Thành công a) Kim ngạch xuất khẩu luôn tăng. Kể từ khi Hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam với EU có hiệu lực (1/1/1993) kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU đã tăng từ 250 triệu USD năm 1993 lên gần 1.500 triệu USD năm 2007 và dự kiến năm 2008 đạt khoảng 1.900 triệu USD, tăng 16% và chiếm 36,8% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Các mặt hàng đa dạng hơn và chất lượng được đảm bảo hơn. Từ trước đến nay, dường như EU không có thông lệ đàm phán giữa chừng vì Hiệp định cũ đến năm 2001 đã hết hạn, nhưng việc EU ưu tiên trong đàm phán mở rộng thị trường với Việt Nam trong thời điểm hiện nay cho thấy EU đánh giá cao chất lượng hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam. Thay Hiệp định mới, các chủng loại hàng dệt may xuất khẩu được nhiều hơn như T Shirt, Polo Shirt, áo len, áo khoác nữ, quần thể thao... cho năm 2006 của từng mặt hàng tăng từ 13-70% so với năm 2007. Tăng uy tín, mở rộng khả năng thâm nhập thị trường. Việc EU xoá bỏ hạn ngạch cho hàng dệt may Việt Nam trong giai đoạn 2005 trở đi cũng chứng tỏ uy tín của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường này là đáng kể. Vì vậy từ đây khả năng tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào từng nước trong thị trường này ngày càng nhiều và hiệu quả hơn, cụ thể các nước này đánh giá cao quan hệ làm ăn, ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp may Việt Nam và độ tin cậy cao về việc giao hàng đúng thời hạn, đúng chất lượng, mẫu mã. Do vậy hàng dệt may Việt Nam đã dần chiếm tỷ trọng nhập khẩu vào EU nhiều hơn, mở rộng thêm thị trường hơn như đang và sẽ thâm nhập vào thị trường Ailen và Hilạp. Hệ thống máy móc thiết bị từng bước được cải tiến quy mô được mở rộng. Ngành dệt may đến nay đã đổi mới được 95% máy móc, thiết bị nên chất lượng sản phẩm và giá cả đã có thể cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại trong khu vực. Cụ thể là năm 2007 ngành dệt may đã có 136/169 được thực hiện xong về đổi mới trang thiết bị đầu tư, 46 dự án khác đang triển khai trong năm 2008 và 2009. Các doanh nghiệp may cũng đi đầu trong việc mua lại thiết bị đã qua sử dụng của các doanh nghiệp đã bị phá sản trong khu vực, và con số này lên đến 35 triệu USD. Thực chất đây là những máy móc đã qua sử dụng nhưng chất lượng còn 80% mà giá chỉ bằng 35% giá của máy mới. Vì thế hiện nay ngành dệt may đã có hệ thống kéo sợi, dệt may khép kín, có thiết bị điều khiển tự động, lắp đặt hệ thống nghiên cứu, pha màu, nhuộm vải điều khiển bằng máy tính...làm tăng năng suất và giảm bớt thao tác của người lao động. Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê, tính đến 31/12/2003 ngành dệt may Việt nam có 645/1919 doanh nghiệp (chiếm khoảng 33,6%) là doanh nghiệp lớn, có nguồn vốn từ 10 tỷ đồng trở lên, trong đó ngành dệt có 245/708 doanh nghiệp, ngành may có 400/1211; cũn lại 66,4% là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những doanh nghiệp lớn chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước nằm trong hệ thống của Tổng Công ty Dệt May (Vinatex), cũn cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ là của cỏc địa phương. Góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ và phát triển kinh tế. Mặc dù giá trị ngoại tệ thực tế thu được chỉ chiếm 25% tổng giá trị xuất khẩu song đây là nguồn thu nhập ngoại tệ to lớn cho đất nước góp phần quan trọng vào việc cải thiện cán cân thanh toán và tăng dự trữ ngoại tê, tăng khả năng nhập máy móc, thiết bị, công nghệ... để phát triển kinh tế. Sử dụng nhiều lao động giải quyết công ăn việc làm và đóng góp vào ngân sách Nhà nước Ý nghĩa về mặt xã hội của ngành dệt may là rất lớn, vì hơn 140 nghìn lao động được thu hút vào lĩnh vực này làm tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho ngươì công nhân. Bên cạnh đó ngành còn chịu các nghĩa vụ với Nhà nước như đóng góp các nguồn thuế thu nhập, thuế xuất khẩu, nhập khẩu... 2. Hạn chế Quy mô xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường EU quá nhỏ bé so với tiềm năng kinh tế của Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu của EU. Do bị cạnh tranh mạnh mẽ, hơn nữa là những đòi hỏi khắt khe của người tiêu dùng về mẫu mã, chất lượng...nên tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào EU chỉ chiếm 43% tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may và chiếm 9,5% giá trị nhập khẩu hàng dệt may của EU. Cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU còn nhiều bất cập, hình thức xuất khẩu giản đơn. Đó là so với ngành may thì công nghệp dệt của Việt Nam còn rất hạn chế bởi hệ thống máy móc thiết bị chưa hiện đại và đồng bộ nên chưa đủ khả năng phục vụ chính ngành may trong nước. Nguyên liệu chủ yếu vẫn phải nhập ngoại, vì thế kim ngạch xuất khẩu cao nhưng lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu chưa tương ứng. Có tới 50% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may để chi trả cho mua nguyên liệu, phụ kiện từ nước ngoài và EU chiếm phần không nhỏ. Một vấn đề chú ý là giá trị gia công sang EU chiếm 74%, hơn nữa hợp đồng gia công không ổn định, giá gia công thấp và phụ thuộc về nguyên vật liệu. Đặc biệt hình thức xuất khẩu chủ yếu sang thị trường EU là qua trung gian, vì thế Việt Nam chưa có chỗ đứng vững chắc trên thị trường này. Khả năng tiếp thị và trình độ marketing của các doanh nghiệp trên thị trường EU còn yếu. Cụ thể ở đây là khi thực hiện một dự án hợp tác thì phía các doanh nghiệp Việt Nam không muốn tham gia tích cực vào phần bán hàng và làm nhiệm vụ marketing quốc tế, vì thế Việt Nam sẽ mất dần đi tính chủ động trên thị trường quốc tế, cũng như nắm được nhu cầu thị hiếu của khách hàng, giá cả và các thông tin khác. Gía cả, chất lượng hàng hoá chưa đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng Do thị hiếu người tiêu dùng luôn đòi hỏi khắt khe hàng dệt may phải đạt tiêu chuẩn Châu Âu nên có những mặt hàng yêu câù trang thiết bị kỹ thuật cao, công nhân lành nghề và có tay nghề nhưng các doanh nghiệp nước ta chưa đáp ứng được. Bên cạnh đó phải chịu thuế nhập khẩu cao và nhập khẩu nguyên liệu vải vóc nên giá cả cho một sản phẩm dệt may khó có thể cạnh tranh với các nước phát triển khác. Mẫu mã vẫn chưa được cải tiến mà vẫn làm theo kiểu copy hay cóp nhặt các mẫu mã đã được sử dụng nên không còn giá trị về mốt. Vì thế sản phẩm may mặc xuất khẩu của Việt Nam còn quá nghèo nàn về mốt nên chênh lệch giá thành với giá sản phẩm là không cao. 3. Nguyên nhân a) Khách quan Cơ chế quản lý kinh tế nói chung, quản lý xuất khẩu nói riêng còn nhiều bất cập Điều này gây khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp, đó là: quy định thiếu nhất quán, thủ tục phiền hà, đặc biệt là thủ tục miễn giảm thuế quan và thủ tục hoàn thuế nhập khẩu. Doanh nghiệp cần in tên sản phẩm, tên doanh nghiệp, nơi sản xuất lên sản phẩm của mình cũng phải xin giấy phép của Bộ văn hoá thông tin để được in và giấy phép nhập khẩu máy in. * Quan hệ thương mại quốc tế của Việt Nam với EU còn chưa bình đẳng như các nước trong khu vực Mặc dù EU đã cho Việt Nam hưởng quy chế tối huệ quốc và chế độ ưu đãi phổ cập, nhưng những điều kiện về xuất xứ hàng hoá mà EU áp dụng đối với Việt Nam rất chặt chẽ nên tỷ lệ hàng Việt Nam được giảm thuế nhập khẩu theo GSP thực tế là rất thấp. b) Chủ quan Doanh nghiệp dệt may Việt Nam chưa có tên tuổi danh tiếng trên thị trường EU Các doanh nghiệp dệt may chưa xây dựng được hình ảnh và tên hiệu riêng của mình trên thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng. Có 90% doanh nghiệp may mặc hiện nay vẫn chấp nhận thiệt thòi khi thực hiện các hợp đồng gia công là để dựa vào những hãng nổi tiếng để từng bước đưa nhãn hiệu sản phẩm của mình vào thị trường EU. Hơn nữa với đặc trưng quy mô vừa và nhỏ, các doanh nghiệp dệt may nói riêng không đủ tài chính, thông tin để chấp nhận rủi ro cao khi tự mình bước ra thị trường thế giới. Chủ yếu thực hiện hợp đồng gia công xuất khẩu, và nhập khẩu nguyên liệu Thực hiện các hợp đồng gia công xuất khẩu tuy lợi ích kinh tế thấp nhưng nó liên quan đến vấn đề xã hội là giải quyết việc làm rất hữu hiệu. Mặt khác việc thực hiện các hợp đồng gia công này cũng là do năng lực về sản xuất và quản lý còn yếu kém, chưa có chiến lược xuất khẩu rõ ràng, vì thế tạo nên sự lúng túng bị động trong sản xuất kinh doanh và xuất khẩu. Khả năng huy động và sử dụng vốn còn hạn chế Đ iều này do khả năng tích luỹ của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chưa cao do phương thức hoạt động xuất khẩu kinh doanh hàng may mặc là hình thức xuất khẩu uỷ thác và gia công nên chỉ nhận được tỷ lệ hoa hồng và chút chi phí gia công trong khi phải chịu chi phí cho hao phí lao động, hao mòn máy móc, chi phí quản lý, chi phí vận tải, bảo quản, thủ tục hải quan, thuế doanh thu, thuế lợi tức và lãi ngân hàng. Chi phí sản xuất lớn, giá cao, chất lượng còn thấp Điều này do máy móc thiết bị của ngành dệt nước ta đã quá cũ kỹ, lạc hậu, hơn nữa phải nhập khẩu 80% nguyên liệu nhằm đáp ứng thông số kỹ thuật của các bên đặt hàng xuất khẩu. Chưa có mối quan hệ kinh tế ổn định giữa ngành dệt và may. Thực tế chưa có sự gắn kết giữa các khâu và thiếu sự hợp tác vì mục tiêu chung. Do trình độ tay nghề của lực lượng lao động ngành chưa cao, chưa được đào tạo chuyên môn sâu, đặc biệt thiếu hẳn đội ngũ thiết kế sản phẩm, trình độ học vấn ban đầu của người lao động thấp, khả năng sáng tạo hạn chế. Tất cả điều này làm cho chất lượng sản phẩm phần nào bị hạn chế. Sản xuất phụ liệu trong nước chưa được chú ý phát triển đúng mức nên ngành dệt và ngành may đang gặp khó khăn do phải tập trung nhiều nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu, dẫn đến tăng giá sản phẩm may và làm suy yếu sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới. Do phải cạnh tranh với các nước đang phát triển khác, cụ thể là các nước này đã có những viện tạo mẫu, mã sản phẩm, máy móc thiết bị hiện đại hơn, có truyền thống xuất khẩu và kinh nghiệm kinh doanh lâu năm hơn Việt Nam trên thị trường EU. Mặc dù nước ta chi phí nhân công rẻ, nguồn lao động dồi dào song như ở Trung Quốc thì lợi thế này lại còn tốt hơn nước ta về nguồn lao động và giá. Ví dụ: lương công nhân ngành dệt may nước ta là 79 USD/ tháng (bình quân). Trong khi đó ở Trung Quốc lương trả cho công nhân may chỉ 49 USD/tháng. Trên cơ sở nhận xét đánh giá về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU, việc đưa ra một hệ thống các giải pháp để thúc đẩy hoạt động này là rất cần thiết. CHƯƠNG III CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU I/ Triển vọng phát triển hàng dệt may việt nam sang thị trường EU 1. Các nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU. a) Các nhân tố chung: * Xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế. Khi tham gia vào khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế, các nước thành viên phải mở cửa thị trường, xoá bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan và phi thuế quan để cho hàng hoá được tự do lưu chuyển giữa các nước thúc đẩy mậu dịch quốc tế phát triển mạnh vì hàng rào thuế quan và phi thuế quan đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu. Chính vì vậy, xu thế này đang ngày càng phát triển mạnh mẽ trên thế giới và tác động đến nền kinh tế toàn cầu. Một trong những mục đích của khu vực hoá và toàn cầu hoá là đạt tới tự do hoá thương mại và đầu tư để cho hàng hoá và vốn tự do lưu chuyển giữa các nước thúc đẩy nền kinh tế toàn cầu phát triển . Ngày nay xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh tế đang phát triển mạnh mẽ không ngừng tạo ra những biến đổi sâu sắc trong nền kinh tế thế giới và thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế thương mại với nhau, thêm vào đó xu hướng tự do hoá thương mại đang lan rộng thì hoạt động hợp tác kinh tế - thương mại giữa các nước càng có môi trường thuận lợi để phát triển. * Sự phát triển của diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) Trong diễn đàn này các nước EU đưa ra cam kết về thương mại và đầu tư nhằm hỗ trợ các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Về thương mại các nước EU cam kết nâng mức hạn ngạch hoặc xoá bỏ cho xuất khẩu của các nước ASEAN vào EU và giảm các loại hàng chịu giới hạn quota. Sự phát triển của diễn đàn này sẽ làm quan hệ giữa Việt Nam - EU ngày càng tốt đẹp hơn. Trên cơ sở của diễn đàn này, tại kỳ họp 2 của uỷ ban hỗn hợp Việt Nam - EU, mở cửa nhiều hơn cho hàng dệt may và một số hàng khác của Việt Nam. Do vậy có thể nói rằng sự phát triển của ASEAN góp phần không nhỏ làm tăng khả năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường EU. b) Những nhân tố phát sinh từ phía liên minh Châu Âu. * Hình thành thị trường EU thống nhất (1/1/1993). Việc hình thành thị trường này mở ra một cơ hội tốt cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam nói chung và hàng dệt may nói riêng vào thị trường EU. Với một thị trường rộng lớn trên 500 triệu người tiêu dùng và có nhu cầu đa dạng, phong phú thì đây thực sự là một thị trường tiềm năng đối với hàng dệt may của Việt Nam. * Sự ra đời của đồng tiền chung Châu Âu. Sự ra đời này sẽ tác động tích cực đến quan hệ thương mại giữa hai bên bởi vì EU đang cơ cấu lại nền kinh tế thúc đẩy tăng trưởng. Nền kinh tế EU có thặng dư cán cân thương mại, cho nên Việt Nam có điều kiện để tăng xuất khẩu hàng nói chung và dệt may nói riêng sang khu vực này trong khi việc xuất khẩu sang thị trường các nước trong khu vực đang gặp khó khăn. Việc các hợp đồng xuất khẩu thanh toán bằng đồng EURO sẽ giúp ta khai thác được lợi thế của một đồng ngoại tệ mạnh là đồng EURO. * Chương trình mở rộng hàng hoá của EU. Theo EU, chương trình áp dụng là ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) nhằm khuyến khích các nước đang phát triển thực hiện tốt hơn công nghiệp hoá, đa dạng hoá xuất khẩu và tăng thu nhập. Song kể từ năm 2005 Việt Nam đã không được hưởng ưu đãi về thuế quan nữa. Vì vậy nếu các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nói riêng không có chính sách cụ thể để cải tiến, đa dạng hoá, nâng cấp chất lượng hàng xuất khẩu và chiến lược thâm nhập thị trường EU một cách thấu đáo ngay thì đến những năm sau dệt may Việt Nam sẽ khó có thể đứng vững và có cơ hội xâm nhập sâu hơn vào thị trường này. c) Những nhân tố phát sinh từ phía Việt Nam. * Quá trình đổi mới nền kinh tế Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá và hội nhập. Ở đây nó thể hiện các dạng quốc tế hoá về thương mại, về vốn và sản xuất và về hình thức dưới dạng tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế. Việc chuyển hướng này giúp Tổng công ty dệt may Việt nam nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm, mở rộng và thâm nhập sâu thị trường v.v... ngày càng được tốt hơn. * Quá trình chuển dịch cơ cấu kinh tế "hướng về xuất khẩu". Đây là sự chuyển dịch với mục đích tạo ra nhiều sản phẩm và nhiều loại sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng. Sự chuyển dịch này sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi cho khoa học công nghệ phát triển, cho việc tăng nhanh năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, phục vụ tiêu dùng, đẩy mạnh xuất khẩu. Ngoài ra

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU.DOC
Tài liệu liên quan