Đề tài Các giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình gia nhập AFTA ở Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

Phần I- Mở đầu 1

Phần II- Nội dung 2

Chương I- Sự cần thiết phải hội nhập kinh tế khu vực của Việt Nam trong quá trình phát triển. 2

I- Cơ sở lý luận về hội nhập kinh tế khu vực. 2

1. Toàn cầu hoá, khu vực hoá kinh tế và sự hội nhập. 2

2. Các hình thức liên kết kinh tế khu vực và sự hội nhập của mỗi quốc gia. 3

3. Hội nhập kinh tế - sự tất yếu trong quá trình phát triển của mỗi một quốc gia. 5

II- Cơ sở thực tiễn về hội nhập kinh tế khu vực ở Việt Nam. 8

1. Khu mậu dịch tự do Đông Nam Á (AFTA) vàCEPT. 8

2. Ảnh hưởng của hội nhập kinh tế khu vực với quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam. 11

Chương II- Thực trạng quá trình tham gia khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á - AFTA của Việt Nam. 16

I- Thực tiễn thực hiện AFTA - CEPT ở Việt Nam. 16

1. Lịch trình cắt giảm thuế của Việt Nam. 16

2. Tiến trình triển khai thực hiện CEPT của Việt Nam. 17

II- Một số thành tựu về kinh tế - xã hội Việt Nam đạt được trong thời gian qua. 19

1. Hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục phát triển khá. 20

2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục gia tăng, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội. 20

3. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tiếp tục tăng, góp phần quan trọng phát triển kết cấu hạ tầng. 21

III- Những tồn tại (khó khăn) đang gặp phải trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực của Việt Nam. 22

Chương III- Các giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình gia nhập AFTA ở Việt Nam. 24

I- Nguyên tắc Hội nhập hiệu quả và định hướng hội nhập trong thời gian tới. 24

1. Nguyên tắc Hội nhập hiệu quả. 24

2. Định hướng hội nhập trong thời gian tới. 24

II- Một số giải pháp nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình gia nhập AFTA của Việt Nam. 26

Phần II- Kết luận. 29

Danh mục tài liệu tham khảo 30

 

 

HỘI NHẬP AFTA VỚI QUÁ TRÌNH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM

 

 

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2218 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình gia nhập AFTA ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành viên sẽ là đối tượng chịu sự tăng lên của cạnh tranh. Cạnh tranh sẽ buộc sản xuất phải có hiệu quả và trình độ chuyên môn hoá sản phẩm cao hơn với chi phí sản xuất thấp nhất. Trong quá trình thâm nhập thị trường lẫn nhau như vậy, những nhà sản xuất có hiệu quả sẽ thu được khoản tiết kiệm từ quá trình sản xuất mang tính dài hạn hơn, giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm bán ra.. Ngoài ra, tự do hoá thương mại và tự do hoá đầu tư vừa đem lại cái lợi lẫn cái bất lợi nên chưa thể chắc chắn rằng hiệp định mậu dịch tự do sẽ có lợi cho một nưóc thành viên từ khi áp dụng những biện pháp thích hợp để giảm thiểu những bất lợi và tối đa cái lợi nhờ thương mại tự do hơn. Gia nhập khu vực mậu dịch tự do có đem lại lợi ích thực tế hay không tuỳ thuộc phần lớn vào phản ứng của người tiêu dùng và người cung cấp khi được hưởng ưu đãi mậu dịch, vào mức độ cạnh tranh thương mại giữa các thành viên và không phải thành viên, vào mức bổ sung giữa các nước thành viên và mức độ liên kết mậu dịch với các nước không phải thành viên. Do vậy mỗi quốc gia cần phải cân nhắc trong quá trình đưa các quyết định về tiến trình hội nhập của mình. II- Cơ sở thực tiễn về hội nhập kinh tế khu vực ở Việt Nam. 1. Khu mậu dịch tự do Đông Nam á (AFTA) vàCEPT. Khu vực Đông Nam á là nơi hội tụ của các giao lưu kinh tế quốc tế, đang trở thành khu vực phát triển năng động nhất của Châu á cũng như trên toàn thế giới với một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng. Để có thể vươn lên trong cạnh tranh và từng bước hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, ngày 8/8/1967 các Bộ trưởng ngoại giao của 5 nước: Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan đã ký bản tuyên bố ASEAN tại Bângkok và từ đó Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á - ASEAN được chính thức thành lập. Ngày 8/1/1984 Brunei Darusalem được kết nạp. Ngày 27-28/1/1992 Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 ở Singapore đã nhất trí thành lập khối mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và cùng nhau thoả thuận bắt đầu xây dựng khối từ ngày 1/1/1993, với chương trình giảm thuế nhập khẩu giữa các nước thành viên ASEAN đối với 15 nhóm sản phẩm công nghiệp trong vòng 15 năm tới, hoàn thành vào năm 2008. Tiếp sau đó, hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 26 tổ chức tại Chiềng Mai (Thái Lan) đã quyết định đẩy thời gian thực hiện AFTA xuống còn 10 năm tức là hoàn tất vào năm 2003. Khu vực mậu dịch tự do AFTA được hình thành thông qua các yếu tố sau: - Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT - The Common Effectiive Prefrenialtaif Scheme) - Thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hàng hoá giữa các nước thành viên. - Công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hoá của nhau. - Xoá bỏ những qui định hạn chế đối với ngoại thương. - Hoạt động tư vấn kinh tế vĩ mô. Với mục tiêu kinh tế: - Tự do hoá thương mại trong ASEAN thông qua việc giảm dần thuế quan nội bộ khu vực và những hàng rào phi thuế quan (NTBS). - Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực bằng cách mở ra một thị trường phối hợp rộng hơn. - Làm thích ứng với những điều kiện kinh tế đang thay đổi, đặc biệt là quá trình thành lập các khối thương mại trên thế giới. Và để thực hiện thành công khu vực mậu dịch tự dô AFTA, Hội nghị Bộ trưởng kinh tế các nước ASEAN đã quyết định ký chương trình thuế quan ưu đã có hiệu lực chung (CEPT) vào năm 1992. CEPT chính là trụ cột chính để thành lập AFTA và cho biết tiến trình hội nhập AFTA của các nước ASEAN. Theo CEPT, các nước thành viên sẽ đưa ra lịch trình giảm dần thuế quan nội bộ khu vực đối với toàn bộ hàng hoá chế tạo. Các hàng hoá có thể cắt giảm được đặt vào lịch trình thực hiện nhanh hoặc thông thường. - Các nước ASEAN đã nêu ra 15 nhóm sản phẩm giảm thuế nhanh với mức thuế ưu đãi phải đạt 0-5% trong thời gian dài nhất là 7 năm (5 năm đối với hàng hoá chịu thuế thấp) đó là: Đồ nhựa Sản phẩm gốm và thuỷ tinh Sản phẩm cao su Đá quý và đồ trang sức Sản phẩm da Cực âm đồng Bột giấy Hàng điện tử Hàng dệt Nội thất bằng gỗ và mây Dầu thực vật Hoá chất Xi măng Dược phẩm Phân bón - Đối với nhóm giảm thông thường, tốc độ giảm chậm hơn và những hàng hoá chịu thuế cao thì việc giẩm có thể thực hiện trong 15 năm. Ban đầu người ta dự định áp dụng CEPT cho tất cả các hàng hoá chế tạo nhưng cho phép thực hiện ngoại lệ đối với sản phẩm các ngành dễ bị tổn thương và có tính cạnh tranh trực tiếp. Đối với các hàng hoá thực hiện cắt giảm bình thường thì nếu các mặt hàng có mức thuế suất >20% sẽ tiến hành cắt giảm xuống <20% vào ngày 1/1/1998 và sau đó sẽ tiếp tục giảm xuống còn 0-5% vào ngày 1/1/2003. Nếu các mặt hàng đã có mức thuế suất dưới mức 20% thì sẽ tiến hành cắt giảm còn 0-5% voà ngày 1/1/2000. - Đối với các mặt hàng trong danh mục loại trừ tạm thời sẽ được chuyển sang danh mục cắt giảm thuế trong vòng 5 năm từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, mỗi năm chuyển 20% số sản phẩm trong danh mục tạm thời. - Đối với hàng nông sản chưa qua chế biến trong danh mục cắt giảm thuế ngay được chuyển vào chương trình giảm thuế nhanh hoặc chương trình cắt giảm thuế bình thường vào 1/1/1996 và sẽ được giảm thuế xuống còn 0-5% vào 1/1/2003. Các sản phẩm trong danh mục tạm thời của hàng nông sản chưa chế biến sẽ được chuyển sang danh mục giảm thuế trong 5 năm từ 1/1/1998 đến 1/1/2003, mỗi năm chuyển 20%. Các sản phẩm trong danh mục nhạy cảm sẽ được xem xét riêng và không phụ thuộc vào thời hạn 1/1/2003 và mức thuế quan cuối cùng 0-5%. CEPT áp dụng cho tất cả các hàng hoá chế tạo là ASEAN bao gồm: Tư liệu sản xuất, nông sản chế biến và những sản phẩm phi nông nghiệp khác. 2. ảnh hưởng của hội nhập kinh tế khu vực với quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam. 2.1. Đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Ngày 28/7/1995, Việt Nam trởthành thành viên chính thức thứ 7 của Hiệp hội các nước Đông Nam á - ASEAN. Sự kiện trọng đại này đánh dấu một thành công to lớn của chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, đánh dấu một bước phát triển mới trong quá trình hội nhập của Việt Nam vào cộng đồng quốc tế và liên kết kinh tế quốc tế, thực hiện đúng đường lối kinh tế của Đảng là. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bên vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh". Trong đó chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đóng vai trò chủ đạo, theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường, coi trọng việc nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các nước ASEAN. Là một thành viên của ASEAN, Việt Nam tham gia vào khối mậu dịch tự do AFTA, thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan CEPT bắt đầu từ ngày 1/1/1996 và hoàn thành vào năm 2006. 2.2. Những ảnh hưởng của Hội nhập với AFTA. Việc tham gia của Việt Nam vào AFTA là một tất yếu, không những vì Việt Nam đã là thành viên của ASEAN mà còn do các tác động mạnh của nó đối với sự phát triển kinh tế của đất nước ta. Hội nhập vào AFTA sẽ đem lại những cơ hội thuận lợi cho phát triển kinh tế đất nước. Đó là: - Tham gia AFTA, Việt Nam có điều kiện mở rộng thị trường ưu đãi của AFTA. Kinh nghiệm các nước trong khối cho thấy rằng, gia nhập ASEAN, Việt Nam có đủ điều kiện để mở rộng thị trường sang các nước trong và ngoài khu vực. Hiện nay, khoảng 30% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là từ các nước thành viên của ASEAN. Các mặt hàng được Nhà nước ưu tiên nhập khẩu là máy móc thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ cho nhu cầu sản xuất công nghiệp, khi tham gia vào AFTA, CEPT thì các mặt hàng này sẽ được giảm thuế nhập khẩu tới mức 0-5%. Như vậy, luồn hàng nhập khẩu được mở rộng nhanh chóng, ASEAN ảnh hưởng rất lớn tới việc xuất khẩu số lượng lớn thành phẩm của các cơ sở sản xuất sử dụng các nguyên liệu nhập khẩu từ các nước ASEAN. Hơn nữa, do cơ cấu danh mục hàng hoá tham gia CEPT bao gồm cả nông sản thô và nông sản chế biến, nếu Việt Nam tăng cường sản xuất hàng nông sản thì sự cắt giảm về thuế sẽ trở thành yếu tố kích thích cho các doanh nghiệp thúc đẩy sản xuất loại mặt hàng này để xuất khẩu sang ASEAN và các nước ngoài khu vực. Có thể nói AFTA sẽ tạo những ưu thế tuyệt đối cho việc phát triển sản xuất của Việt Nam, chúng ta có thể xuất khẩu hàng hoá của mình một cách thuận tiện hơn vào thị trường của các nước thành viên khác. Mặt khác ASEAN còn là nhịp cầu để Việt Nam tiếp cận với thị trường thế giới, tăng lợi thế và nhanh chóng hội nhập vào cộng đồng quốc tế và cũng từ đó Việt Nam ít bị phụ thuộc vào một số thị trường lớn như Nhật Bản và Tây Âi. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tăng dung lượng cung cầu hàng hoá của mình trên thị trường, tăng khả năng cạnh tranh về giá cả hàng hoá. - Tham gia vào AFTA, Việt Nam có điều kiện thay đổi cơ cấu kinh tế. Chúng ta đang ở giai đoạn đầu của công cuộc công nghiệp hoá đất nước, việc thay đổi cơ cấu kinh tế thích hợp theo hướng công nghiệp hoá hươnggs vào xuất khẩu là rất cần thiết. Tham gia AFTA - CEPT, Việt Nam có cơ hội để phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ tạo nên cơ cấu kinh tế thích hợp. Vậy thực chất của việc tham gia AFTA, CEPT là tạo đòn bẩy thúc đẩy cạnh tranh hàng hoá của Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam hiện nay, tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến mới chỉ đạt 18%, nông sản thực phẩm 48%, nhiên liệu 34% thì việc thực hiện chương trình CEPT là cơ hội để chúng ta chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng tỷ trọng các mặt hàng công nghiệp chế biến chịu sự điều chỉnh của CEPT trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tỏ chức lại sản xuất theo mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng tới xuất khẩu. - Tham gia AFTA, Việt Nam có cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài. Đầu tư vào nước nào, lĩnh vực nào để mang lại hiệu quả là sự cân nhắc của các nhà đầu tư nước ngoài. Cơ sở để thu hút các dự án đầu tư phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự ổn định về chính trị, môi trường thuận lợi, thủ tục đơn giản, rõ ràng là những chỉ tiêu rất quan trọng. Việt Nam tham gia AFTA là sự biểu hiện cụ thể của sự hoà nhập vào nền kinh tế thế giới do đó chắc chắn sẽ thu hút được nhiều nước đầu tư vào Việt Nam. Mấy năm gần đây đầu tư của các nước ASEAN có xu hướng tăng mạnh. Hiện nay một số nước ASEAN đang mất đi lợi thế về nguồn lao động rẻ, họ đang di chuyển một số ngành sản xuất tiêu tốn nhiều lao động sang Việt Nam, họ còn quan tâm đến Việt Nam - một thị trường đông dân với 80 triệu dân. Sự tham gia của Việt Nam vào AFTA sẽ tạo ra một số thuận lợi về thủ tục hành chính và tâm lý tốt cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng cái gì cũng có hai mặt của nó, bên cạnh những thuận lợi trên, cũng đặt ra cho chúng ta không ít khó khăn. Đó là: - Tham gia vào AFTA là thừa nhận tự do hoá thương mại, tự do hoá lưu chuyển hàng hoá trong khu vực. Đây là những việc làm mà nước ta chưa thực hiện bao giờ. Bắt đầu tham gia AFTA, Việt Nam đang ở trình độ kinh tế thấp, các chỉ tiêu kinh tế thấp hơn các nước khác từ 20-30 năm. Các nước như Singapore, Thái Lan, Malaysia... đều đã hoàn thành giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, đạt tốc độ tăng trưởng cao. Hiện tại sức cạnh tranh của hàng hoá, Việt Nam còn rất yếu, yếu toàn diện cả về giá cả và chất lượng. Hàng nhập ngoại tràn vào sẽ xảy ra tình trạng rất nhiều ngành công nghiệp địa phương không cạnh tranh được, sản xuất ra không có ai tiêu thụ, tiêu biểu là các ngành dệt may, giày dép, điện gia dụng, .... trước sức ép của thị trường do hàng rào thuế quan giảm đòi hỏi chúng ta phải điều chỉnh cơ cấu sản xuất, làm sao cho các mặt hàng không đủ sức cạnh tranh phải đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật để hàng hoá sản xuất ra đủ sức tiêu thụ trên thị trường cạnh tranh với hàng ngoại, hàng hoá của các nước ASEAN, tạo nên thế liên kết sản xuất giữa các ngành, giữa các nước trong khu vực. Trong chiến lược phát triển kinh tế của mình, chính phủ Việt Nam phải xác định rõ các ngành sản xuất tạo ra được những mặt hàng có khả năng cạnh tranh được trên thị trường ASEAN, thì tập trung phát triển cho ngành đó. Đồng thời phải tập trung đầu mối xuất khẩu vào các Công ty chuyên ngành lớn để giảm mọi chi phí liên quan đến xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá. - Tham gia AFTA sẽ tác động trực tiếp đến giá cả hàng hoá, cùng với việc cắt giảm thuế, đơn giản thủ tục xuất nhập khẩu thì giá thành hàng hoá sẽ hạ. Hiện nay hàng hoá của ta còn chịu nhiều loại thuế khác nhau, nhiều chi phí khác không cần thiết đã góp phần làm đẩy giá lên. Do đó giá cả hàng hoá của Việt Nam thường cao hơn rất nhiều so với giá cả hàng hoá của các nước cùng loại. Như vậy ưu thế về giá thuộc về hàng hoá của các nước khác là thành viên của ASEAN. Vấn đề đặt ra trước mắt là ta phải chuyển dịch cơ cấu sản xuất và xuất khẩu những hàng hoá nằm trong danh mục cắt gỉam thuế CEPT thì các doanh nghiệp Việt Nam mới có điều kiện phát triển, có lợi về giá cả khi xuất khẩu sang các nước ASEAN. - Để hội nhập về kinh tế và mậu dịch với ASEAN, một thách thức không nhỏ đặt ra cho Việt Nam là xây dựng một chính sách quản lý Nhà nước thích hợp nhằm đảm bảo tự do hoá thương mại nhưng không làm mất đi chức năng quản lý về Nhà nước, về thương mại. Xoá bỏ thủ tục hành chính rườm ra, quan liêu, không hiệu quả. Đơn giản hoá các thủ tục để hàng hoá tham gia vào CEPT có hiệu quả. Cần có sự nghiên cứu các hiệp định, các chương trình hợp tác trong ASEAN một cách đầy đủ và khách quan, khoa học, lường trước những khó khăn sẽ xảy ra, tận dụng những cơ hội tốt để có những giải pháp cụ thể phù hợp với tình hình và chủ trương phát triển kinh tế trong nước. - Tham gia AFTA, Việt Nam sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhưng thực sự là không ảnh hưởng lớn. Trong danh mục cắt giảm thuế có tới 57% mặt hàng hiện có mức thuế từ 0%-5%, trong đó tới hơn một nửa là thuế suất 0%. Điều đó có nghĩa là trên thực tế, hầu như chúng ta đã hoàn tất việc cắt giảm rồi. Số mặt hàng có miễn thuế đến 20% chỉ chiếm tỷ trọng vào khoảng 17-21%. Nói chung nguồn thu ngân sách sẽ không bị tác động gì lớn khi đưa những mặt hàng có thuế suất cao vào chương trình giảm thuế, ngân sách sẽ bị ảnh hưởng nhưng không lớn vì theo chương trình cải cách thuế của nước ta, thuế xuất nhập khẩu sẽ không còn là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước. Nó sẽ trở thành một công cụ để ứng xử trong các quan hệ ngoại thương và bảo hộ sản xuất trong nước. Tóm lại, nhìn tổng thể vào sự đóng góp vào ngân sách Nhà nước thì tham gia AFTA sẽ tạo nên sự hẫng hụt trong ngân sách Nhà nước. Chương II- Thực trạng quá trình tham gia khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á - AFTA của Việt Nam. I- Thực tiễn thực hiện AFTA - CEPT ở Việt Nam. Tại Hội nghị Hội đồng AFTA ngày 10/12/1995, Việt Nam đã công bố các danh mục và lộ trình cắt giảm thuế cho toàn bộ quá trình 1996 - 2000 gồm 1.633 nhóm mặt hàng, chiếm 50,1% tổng các nhóm mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam. Danh mục này chiếm tỷ lệ thấp so với các nước thành viên ASEAN khác khi họ bắt đầu thực hiện CEPT (trung bình các nước ASEAN 6 là 85%). Danh mục các mặt hàng tham gia cắt giảm thuế quan ngay của Việt Nam chủ yếu bao gồm các mặt hàng hiện đang có thuế suất thấp hơn 5%. Danh mục các mặt hàng loại trừ tạm thời gồm 1.168 mặt hàng, chiếm 36% danh mục hàng nhập khẩu Việt Nam. Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm chưa được Việt Nam đưa ra. 1. Lịch trình cắt giảm thuế của Việt Nam. a. Đến cuối giai đoạn (1/1/2006), thuế suất đối với toàn bộ các mặt hàng trong danh mục cắt giảm thuế ngay (IL) và loại trừ tạm thời (TEL) phải được cắt giảm xuống 0-5%. b. Đối với danh mục cắt giảm thuế ngay đến 1/1/2006 các mặt hàng có thuế suất trên 20% phải được giảm xuống bằng 20% theo công thức mỗi năm cắt giảm một lượng bằng 20% mức chênh lệch giữa thuế suất gốc và mức 20%. Trong các năm tiếp theo tiếp tục cắt giảm cho đến khi đạt 0-5% vào 1/1/2006. Các mặt hàng có thuế suất dưới 20% sẽ phải đạt thuế suất bằng 0-5% vào 1/1/2003. c. Đối với danh mục loại trừ tạm thời, trong vòng 5 năm, bắt đầu từ 1/1/1999 và kết thúc vào 1/1/2003, mặt hàng thuộc loại này phải được đưa vào danh mục cắt giảm thuế, mỗi năm chuyển 20% số mặt hàng. Sau khi được đưa vào danh mục cắt giảm thuế ngay, việc cắt giảm thuế phải được thực hiện ít nhất 2-3 năm một lần và mỗi lần giảm không ít hơn 50%. Từ 1/1/2001, các mặt hàng có thuế suất trên 20% phải được giảm ngay xuống 20% khi đưa vào cắt giảm. Mỗi năm phải ban hành văn bản pháp lý thể hiện việc chuyển các mặt hàng và cắt giảm thuế đó. d. Các mặt hàng thuộc danh mục nhạy cảm (SEL) bắt đầu giảm thuế từ 1/1/2004 và kết thúc vào 1/1/2003 với thuế suất cuối cùng bằng 0-5%. Trong 2 năm 1996 - 1997 Việt Nam sẽ không thực hiện cắt giảm mà chỉ đưa ra các sản phẩm đạt mục tiêu của CEPT (có thuế suất từ 5% trở xuống) vào thực hiện Hiệp định. Đối với các sản phẩm có thuế suất cao hơn 5% trong danh mục cắt giảm thuế quan hướng thực hiện bước cắt giảm đầu tiên thực tế chỉ bắt đầu từ 1998 để đảm bảo cho nguồn thu và hỗ trợ một phần cho sản xuất trong nước. Cũng trong 2 năm này, Việt Nam thực hiện bước 2 cải cách thuế, trong đó đối với chính sách thuế áp dụng cho hàng nhập khẩu, Việt Nam sẽ thực hiện việc phân tích 2 loại thuế là thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng (hiện đang là thuế doanh thu) hiện cũng đánh trên hàng nhập khẩu rra khỏi thuế nhập khẩu hiện nay, trước khi cắt giảm thuế nhập khẩu thực sự từ 1998. Do đó, mức thuế nhập khẩu phải giảm trên phần thuế nhập khẩu còn lại sẽ là thấp so với mức phải giảm nếu không có sự phân tích 2 loại thuế trên. 2. Tiến trình triển khai thực hiện CEPT của Việt Nam. Theo lịch trình trên, việc thực hiện CEPT của Việt Nam từ 1996 đến nay như sau: - Năm 1996 là năm đầu tiên Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế theo chương trình CEPT, theo nghị định 91/CP ngày 18/12/1995 của Chính phủ, 875 mặt hàng đã được đưa vào danh mục mặt hàng tham gia CEPT của Việt Nam. Danh mục này gồm các mặt hàng đã có thuế suất thông thường bằng 0-5% hoặc nhỏ hơn 20%. Cũng như đối với năm 1996, đây mới chỉ là việc đưa mặt hàng vào chương trình CEPT chứ thực sự chưa thực hiện cắt giảm thuế. - Năm 1998, chương trình CEPT của Việt Nam được thực hiện theo Nghị định số 5/1998.NĐ-CP ngày 12/3/1998 của Chính phủ. Danh mục CEPT 1998 gồm 1733 mặt hàng trong đó có 1496 mặt hàng đã được đưa vào từ năm 1996 - 1997 và 137 mặt hàng mới. Do có việc tách mã số của một số mặt hàng được thực hiện trong năm 1998, tổng số mặt hàng của danh mục này được nâng lên thành 1719, chiếm 1/2 toàn bộ biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam. Trong số 137 mặt hàng được đưa vào danh mục 1998, phần lớn các mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam như: một số rau, quả, chè, cà phê, quần áo, hàng may mặc... có thuế nhập khẩu khá cao vào thời điểm đó. - Năm 1999: Danh mục hàng hoá của Việt Nam thực hiện CEPT năm 1999 được ban hành kèm theo Nghị định số 14/1999/NĐ-CP ngày 23/3/1999 của Chính phủ. Danh mục CEPT 1999 gồm 3591 mặt hàng, tăng 1949 mặt hàng so với danh mục CEPT 1998. Số mặt hàng tăng lên này bao gồm cả các mặt hàng được chuyển vào từ danh mục loại trừ tạm thời theo qui định và cả những mặt hàng tăng lên do việc chi tiết hoá một số mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu vừa qua. - Năm 2000: Danh mục hàng hoá của Việt Nam thực hiện CEPT năm 2000 được ban hành kèm theo Nghị định số 9/2000/NĐ-CP ngàyu 21/3/2003 của Chính phủ. Danh mục CEPT 2000 gồm 4234 mặt hàng, trong đó có 3591 mặt hàng đã đưa vào thực hiện chương trình CEPT từ năm 1999 trở về trước và 643 mặt hàng mới chuyển từ danh mục loại trừ tạm thời (Danh mục loại trừ tạm thời TEL) sang danh mục cắt giảm thuế ngay (IL) để thực hiện chương trình CEPT từ năm 2000. - Tính đến 5/2/2002 Việt Nam đã thực hiện cắt giảm 5.500 mặt hàng (đạt gần 90% tổng các mặt hàng Việt Nam cam kết thuế, trong số này đã có 2/3 mặt hàng có mức thuế từ 0%-5%. - Năm 2003 được xem là năm sự kiến đối với tiến trình hội nhập AFTA của Việt Nam. 750 mặt hàng còn lại được cắt giảm thuế theo AFTA. Các mặt hàng có mức bảo hộ cao thuế suất 30%-100% giảm xuống còn 20% vào tháng 1/2003 và tiếp tục giảm xuống còn 0% đến 5% vào năm 2006. Các mức thuế suất thấp hơn hoặc bằng 20% giảm xuống còn 0%-5%. 20% danh mục loại trừ tạm thời đã được đưa sang danh mục cắt giảm thuế. Thực hiện giảm thuế cho các sản phẩm công nghiệp thuộc chương trình AICO xuống còn 0%-5% (giai đoạn 2003 - 2008). Việt Nam đã giảm mạnh hàng rào phi thuế quan theo đúng lộ trình cam kết ASEAN, Việt Nam dự kiến thực hiện xong chương trình CEPT vào năm 2005. II- Một số thành tựu về kinh tế - xã hội Việt Nam đạt được trong thời gian qua. Nền kinh tế tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hàng năm 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực. Việc nuôi trồng và khai thác thuỷ sản, hải sản được mở rộng. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng 13,5%. Hệ thống kết cấu hạ tầng: bưu chính - viễn thông, đường sá, cầu, cảng, sân bay, điện, thuỷ lợi... được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu đều phát triển. Cụ thể GDP năm 2000 đã tăng 2,07 lần so với năm 1991, tích luỹ nội bộ của nền kinh tế năm 2000 đã đạt 27% GDP, sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế, tăng xuất khẩu và có dự trữ. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển nhanh. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực. Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm xuống 24,3%, công nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ từ 38,6% tăng lên 39,1%. Quan hệ sản xuất đã có bước đổi mới phù hợp hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển quan hệ kinh tế với hầu khắp các nước, gia nhập và có vai trò ngày càng tích cực trong nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, chủ động từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới. Nhịp độ tăng kim ngạch xuất khẩu gần gấp ba nhịp độ tăng GDP. Thu hút được một khối lượng khá lớn vốn từ bên ngoài cùng nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực và tính năng động trong xã hội được nâng lên đáng kể. Số việc làm mới tăng cao, tỷ lệ thấp nghiệp giảm. Trong đó nổi bật lên và đáng chủ yếu là sự phát triển của kinh tế đối ngoại. Cụ thể là: 1. Hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục phát triển khá. Kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm tăng trên 21%, gấp 3 lần mức tăng GDP, khối lượng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng khá và tập trung ở những nhóm mặt hàng công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đạt trên 186 USD/người. Đặc biệt thị trường các nước ASEAN chiếm trên 18% tổng kim ngạch xuất khẩu và trên 29% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Tổng kim ngạch nhập khẩu 5 năm (1999 - 2000) khoảng 61 tỷ USD, tăng bình quân hàng năm khoảng 13,3%. Mức chênh lệch xuất nhập khẩu so với kim ngạch xuất khẩu đã từ 49,6% năm 1995 giảm xuống còn 6,3% vào năm 2000. 2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục gia tăng, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội. Trong 5 năm 1996 - 2000, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đưa vào thực hiện (không kể phần góp vốn trong nước) đạt khoảng 10 tỷ USD (theo giá 1995) gấp 1,5 lần so với 5 năm trước. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp mới và bổ sung đạt 24,6 tỷ USD, tăng 34% so với thời kỳ trước. Trong đó tỷ lệ vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế tăng từ 62% năm 1995 lên 85% năm 2000. Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước thuộc Liên bang Châu Âu (EU), ASEAN có chiều hướng tăng hơn 5 năm trước (tỷ lệ vốn đăng ký của các dự án từ EU bình quân chiếm 23,2% thời kỳ 1991 - 1995, tăng lên 25,8% thời kỳ 1996 - 2000; tỷ lệ vốn đăng ký các dự án từ các nước ASEAN đã tăng tương ứng từ 17,3% lên 29,8%) các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, khoảng 93% kim ngạch xuất khẩu và đóng góp trên 12% GDP của cả nước. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã từng bước mở rộng đầu tư ra nước ngoài, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả, đẩy mạnh được xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ và lao động ra nước ngoài. 3. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tiếp tục tăng, góp phần quan trọng phát triển kết cấu hạ tầng. Hàng năm, nguồn vốn ODA đưa vào thực hiện tăng đáng kể. Tính chung trong 5 năm 1996 - 2000 khoảng 6,1 tỷ USD, tập trung hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế như điện, giao thông, thuỷ lợi, cấp thoát nước; phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói, giảm nghèo; phát triển y tế, giáo dục và đào tạo; tăng cường năng lực và thể chế trong các lĩnh vực cải cách hành chính, luật pháp, quả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35522.doc
Tài liệu liên quan