MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 3
PHẦN 1: KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH DỆT MAY VÀ TÌNH HÌNH HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU 5
1.1. Khái quát về ngành dệt may. 5
1.1.1 Đặc điểm cơ bản của ngành và vai trò trong nền kinh tế quốc dân. 5
1.1.2. ảnh hưởng của ngành đến quá trình tăng trưởng kinh tế hướng về xuất khẩu. 6
1. 2. Tình hình hàng dệt may xuất khẩu. 7
1.2.1. Kim ngạch xuất khẩu. 7
1.2.2. Thị trường xuất khẩu khái quát chung. 8
1.2.3. Đánh giá tình hình xuất khẩu dệt may những năm qua. 9
PHẦN 2. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY SANG THỊ TRƯỜNG MỸ. 11
2.1. Thị trường hàng dệt may Mỹ. 11
2.1.1. Đặc điểm thị trường hàng dệt may Mỹ. 11
2.1.2. Đặc điểm nhập khẩu hàng dệt may của thị trường Mỹ. 12
2.2. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ. 17
2.2.1. Tình hình xuất khẩu những năm gần đây. 17
2.2.2. Đánh giá chung tình hình thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ. 18
2.2.3. Những thời cơ và thách thức đặt ra đối với hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường Mỹ: 22
PHẦN 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ. 26
3.1. Giải pháp đối với doanh nghiệp. 26
3.1.1. Nâng cao khả năng cạnh tranh. 26
3.1.2. Tập trung sản xuất hướng về xuất khẩu. 28
3.1.3. Tích cực nghiên cứu thị trường. 29
3.2. Các giả pháp tầm vĩ mô. 30
3.2.1. Hỗ trợ các doang nghiệp dệt may xuất khẩu vào thị trường Mỹ. 30
3.2.2. Tăng cường đầu tư để nâng cao chất lượng vải, đảm bảo nguyên vật liệu thay thế và hỗ trợ thành lập các doanh nghiệp cung cấp phụ liệu, nguyên liệu may mặc trong nước. 32
3.2.3. Phát huy hơn nữa vai trò của Hiệp hội dệt may Việt Nam. 32
KẾT LUẬN 34
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 35
35 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3248 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơn. Với quy định này, khi xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ, doanh nghiệp Việt Nam (khi được hưởng MFN) có thể dễ dàng thâm nhập vào thị trường Mỹ nhưng phải đối mặt với hàng hoá được xuất khẩu từ các nước khác sang thị trường Mỹ cũng đươc hưởng những ưu đãi tương tự.
Về trị giá hải quan, Mỹ áp dụng cách thức tính giá hải quan của tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Để bảo vệ các công ty Mỹ trước các hoạt động nhập khẩu không bình đẳng, Mỹ áp dụng hai luật thuế là luật thuế đối kháng và luật thuế chống phá giá. Hai loại luật thuế này đòi hỏi phải áp dụng các mức thuế bổ xung khi có tình trạng buôn bán không lành mạnh.
Luật thuế đối kháng thực thi bằng cách tăng thuế nhập khẩu để bù vào hay để đổi lại với khoản trợ cấp của hàng hoá nước ngoài gây thiệt hại vật chất cho các nhà sản xuất hàng hoá tương tự ở Mỹ. Các khoản trợ cấp chịu thuế đối kháng chủ yếu được các chính phủ nước ngoài cung cấp trực tiếp hay gián tiếp. Với luật thuế này, các doanh nghiệp Việt Nam khi được hưởng những ưu đãi của chính phủ cần thận trọng khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ vì có thể vi phạm các quy định của đạo luật này.
Luật thuế chống bán phá giá được sử dụng ở Mỹ rộng rãi hơn so với luật thuế đối kháng. Thuế chống bán phá giá là thuế được áp dụng đối với các sản phẩm nhập khẩu khi hàng hoá nước ngoài được xác địng là bán phá gía hàng đã bán hoăc chắc chắn sẽ bán ở Mỹ với mức thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Về hệ thống hạn ngạch, Mỹ áp dụng hạn ngạch để kiểm soát về khối lượng hàng hoá nhập khẩu trong một thời gian nhất định. Luật thương mại Mỹ cho phép sản phẩm Mỹ đơn phương áp đặt các hạn ngạch mang tính hành chính đối với các loại hàng dệt may. Có hai loại hạn ngach: Hạn ngạch tuyệt đối và hạn ngạch tính theo thuế suất.
Hạn ngạch tuyệt đối là hạn ngạch hạn chế về số lượng. Vì vậy trong suốt thời gian áp dụng hạn ngạch, chỉ một số lượng hàng hoá đã được ấn định mới được phép nhập khẩu. Một số hạn ngạch tuyệt đối được áp dụng trên toàn thế giới, còn một số chỉ áp dụng với một vài quốc gia nào đó. Số hàng nhập khẩu dư lại so với hạn ngạch sẽ bị giữ lại tại một” khu ngoại thương “ để bổ xung cho kỳ hạn ngạch sau đó hay được đưa vào kho ngoại quan, cũng có thể bị trả về hoăc tiêu huỷ dưới sự giám sát củ nhân viên hải quan. Các Hiệp định về hàng dệt may có quy định gia tăng các hạn ngạch theo từng thời điểm.
Hạn ngạch tính theo thuế suất áp dụng cho một số lượng hàng nhập khẩu được quy định với một mức thuế thấp trong một thời hạn nào đó. Không có giới hạn về số lượng hàng nhập khẩu trong suốt thời hạn này, nhưng nếu hàng nhập khẩu vượt quá số lượng cho phép hưởng mức thuế thấp thì số hàng dư đó sẽ phải chịu mức thuế cao hơn.
Về chế độ visa xuất khẩu, hàng dệt may cần có visa mới được vào Mỹ. Visa này được dùng để kiểm soát hàng dệt may và sản phẩm từ hàng dệt từ nước ngoài vào Mỹ hoặc dùng để ngăn cấm việc nhập lậu mặt hàng này vào Mỹ. Một visa hàng dệt may có thể bao gồm hàng có hạn ngạch hoậc không có hạn ngạch. Hàng dệt có hạn ngạch có thể cần hoặc không cần visa tuỳ thuộc vào nước xuất xứ. Nếu thời gian hạn ngạch chấm dứt mà visa cho hàng dệt may được cấp sau đó bởi chính phủ nước ngoài và hàng đã nhập vào Mỹ, lô hàng nhập này sẽ không được giải phóng cho nhà nhập khẩu cho đến khi hạn ngạch mới được cấp phép.
Về nguyên tắc xuất xứ và ghi nhãn hiệu sản phẩm dệt may.
Quy định về xuất xứ hàng nhập khẩu vào Mỹ: Khi xuất khẩu vạo thị trường Mỹ, muốn được hưởng thuế suất ưu đãi theo nước xuất xứ, luật Mỹ quy định trên sản phẩm phải ghi rõ nhãn của nước xuất xứ. Quy định này chỉ bắt buộc đối với sản phẩm hoàn chỉnh, khi nhập vào Mỹ có thể bán thẳng cho người tiêu dùng. Có một quy định đặc biệt là hàng hoá gốc từ Mỹ đưa sang nước khác để sắp xếp lại, gia công thêm khi nhập khẩu vào Mỹ sẽ không phải đóng thuế nhập khẩu. Dựa vào qui định này một số nước nhận vải cắt sẵn từ các công ty Mỹ may thành quần áo rồi xuất khẩu trở lại cho Mỹ chỉ phải chịu thuê nhập khẩu đối với phần phí gia công.
Quy định về nhãn mác hàng: ở Mỹ có hai bộ luật quy định về nhãn mác hàng là TFPIA và WPLA. Hai bộ luật này được áp dung cho hầu hết các sản phẩm dệt may nhập khẩu vào Mỹ với quy định:
1. Phân biệt tỷ trọng các loại sợi trong sản phẩm. Những loại sợi nào có tỷ trọng >5% thì phải được ghi rõ tỷ trọng từng loại và đề là “otherfiber”ở cuối, các loại sợi có tỷ trọng <= 5% sẽ được đề là “other fibers”.
2. Tên của nhà sản xuất hoăc số hiệu đăng ký tại FTC cho những thành viên tham gia phân phối và buôn bán sản phẩm. Thương hiệu phải được đăng ký tại cơ quan sáng chế Mỹ.
3. Quy định ghi tên quốc gia sản xuất hay gia công sản phẩm được quy định trong điều luật về chứng thực sản phẩm dệt TPIA. Đối với những lô hàng nhâp vào Mỹ có giá trị từ 500USD trở lên phải tuân thủ những điều kiện sau: Liệt kê tên các loai sợi cấu thành sản phẩm ; tỷ trọng các loại sợi cấu thành; tên quốc gia đăng ký theo FTC hoặc theo mục 3 của TFPIA ; tên của quốc gia sản xuất hoặc gia công sản phẩm đó.
Như vậy, để nhanh chóng tiêp cận thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Viêt Nam không những phải nắm vững nhu cầu thị trường, đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh về chât lượng cũng như giá cả mà còn phải có sự hiểu biết về pháp luật Mỹ, các chính sách thương mại cũng như hiểu biết về phong cách làm ăn của thương nhân Mỹ
2.1.2.4 Hiệp định thương mại Việt - Mỹ
Ngày 13/7/2000, Hiệp định thương mại song phương Việt -Mỹ đã được ký kết, đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ kinh tế -thương mại giữa hai nước, kết thúc một quá trình đàm phá n lâu dài và kiên trì của cả hai bên qua 4 năm thương lượngvới 9 vòng đàm phán.
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ bắt đầu có hiệu lực từ ngày 10-12-2001 sẽ đem lại cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam những cơ hội và thách thức mới. Điều đó đòi hỏi chính phủ, đặc biệt là các nhà kinh doanh Việt Nam phải tính tới và xây dựng cho được lộ trình bước đi thích hợp để đưa hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh quốc tế gay gắt để hàng hoá Việt Nam có được chỗ đứng xứng đáng trên thị trường đầy tiềm năng này.
2.1.2.5 Đàm phán Hiệp định dệt may Viêt -Mỹ.
Khi hiệp định trương mại có hiệu lực, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ sẽ được hưởng quy chế thương mại bình thường. tuy nhiên trong hiệp định cũng quy định rằng hàng dệt may sẽ bị hạn chế bằng kim ngạch Hiệp định về hàng dệt may giữa Việt Nam - Mỹ, trong đó sẽ xác định các mức xuất khẩu hàng dệt may từ Việt Nam sang Mỹ.
Khi hiệp định về hàng dệt may được ký kết thì những vấn đề cơ bản cho việc nhập khẩu hàng dệt may vào Mỹ cần tuân theo là: Tuân thủ các quy định về hạn ngạch và visa, nộp các bản kê khai về xuất sứ hàng hoá, các quy định về nhãn hàng hoá... Các sản phẩm nhập khẩu không đáp ứng được các quy định của chính phủ sẽ bị giữ lại và có thể bị phạt hoặc bị tịch thu. Ngoài việc phải tuân theo các quy định trên người xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ còn phải tìm hiểu và tuân theo các hạn chế của Mỹ về nhập khẩu hàng dệt may.
Điều quan trọng là Việt Nam không thể không bàn sâu để ký hiệp định vì phía Mỹ có thể đơn phương áp đặt hạn ngạch bất kỳ lúc nào theo yêu cầu của giới sản xuất dệt may Mỹ vì Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO.
2.2. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ.
2.2.1. Tình hình xuất khẩu những năm gần đây.
2.2.1.1 Tình hình xuất khẩu trước khi ký Hiệp định thương mại Việt -Mỹ.
Trước khi ký kết hiệp định thương mại Việt -Mỹ hàng Dệt -May của Việt Nam chịu mức thuế thông thường, có nghĩa là từ 48%-90% đối với một số sản phẩm.
Bảng2: Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ xuất khẩu hang dệt may của Việt Nam sang Mỹ (1996-2000)
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
Kim ngạch xuất khẩu (Tr USD)
19740
20000
26343
34700
49570
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu (%)
39,90
9,70
1,97
31,44
7,95
Tạp chí kinh tế và phát triển
Qua bảng trên ta thấy: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ tăng dần lên qua các năm. Tuy nhiên với quy mô rất khiêm tốn so với các nước cùng khu vực và có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu không ổn định qua các năm.
2.2.1.2 Tình hình xuất khẩu sau khi Hiệp định thương mại Việt -Mỹ có hiệu lực.
Ngay sau khi Hiệp định thương mại Việt -Mỹ có hiệu lực, hàng Việt Nam có cơ hội rất lớn trong việc tiếp cận thị trường Mỹ. Nhất là đối với hàng dệt may: Tỷ trọng của hàng dệt may Việt Nam trong tổng hàng dệt may nhập khẩu của Mỹ đã tăng lên trong những tháng đầu năm 2002. Các mặt hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ cũng đa dạng hơn so với trước đây. Vào tháng 1/2001, Việt Nam mới chỉ có khảng 17 chủng loại có số kim ngạch xuất khẩu đáng kể. Nhưng đến tháng 7/2002 đã có đến 42 chủng loại khác nhau xuất khẩu vào Mỹ. Đồng thời tỷ trọng của hàng dệt may trong tổng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng lên rõ rệt. Năm 2001, hàng dệt may chỉ chiếm 4,7% tổng xuất khẩu của Việt Nam thì đến tháng 7/2002 đã lên đến 24,2%, chỉ đứng sau nhóm hàng hải sản, vượt qua các nhóm hàng truyền thống là khoáng sản và giày dép. Mặc dù đã có sự đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, nhưng tỷ trọng hàng dệt may tập trung chủ yếu vào các loại quần áo dệt kim và đệt thoi. Các tỷ trọng khác chiếm tỷ trọng không lớn.
Như vậy, sau một năm Hiệp định thương mại Việt -Mỹ có hiệu lực, các doanh nghiệp dệt may đã xuất khẩu sang Mỹ 975 triệu USD trong tổng số 2, 75 tỷ kim ngạch xuất khẩu năm 2002. Tính đến hết quý 1/2003, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đã đạt 850 triệu USD, tăng 90% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ đạt hơn 500 triệu USD, tăng gấp 20 lần so với cùng kỳ 2002. Dự kiến trong năm 2003, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ đạt 1, 4 tỷ USD, trong tổng số 3, 2 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu dự kiến trong năm 2003. Mỹ đã thực sự trở thành thị trường lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam, vượt qua các thị trường truyền thống như EU, Nhật Bản.
Điều đó khẳng định khi một cơ chế “nhập cuộc’’mang tính khuyến khích và công bằng được mở ra và thực hiện thì các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế sẽ chứng minh được năng lực “chơi”và giành thắng lợi trên thị trường thế giới.
2.2.2. Đánh giá chung tình hình thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ.
2.2.2.1. Thuận lợi.
Mỹ là thị trường đầy tiềm năng với sức mua lớn và đa dạng về các sản phẩm dệt may. Châu á là khu vực xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất sang thị trường Mỹ với tổng giá trị xuất khẩu năm 1999 là 30, 8 tỷ USD chiếm 55% tổng chi phí nhập khẩu của Mỹ cho các mặt hàng này. Có thể nói yếu tố quan trọng nhất giúp cho hành may mặc của các nước đang phát triển thiết lập và củng cố vị trí vững chắc của họ trên thị trường Mỹ là nhờ lợi thế chi phí nhân công thấp. Nước ta cũng không nằm ngoài thuần lợi này.
Ngành công nghiệp dệt may Việt Nam có lợi thế tương đối về nguồn nhân công dồi dào và mức lương tương đối thấp so với các nước trong khu vực. Tính đến nay dân số Việt Nam khoảng 80, 3 triệu người trong đó người trong độ tổi lao động lớn. Hàng năm tốc độ phát triển dân số bình quân từ 1,85-2%, với tốc độ này theo các chuyên gia thì đến năm 2005 dân số Việt Nam khoảng 87, 6 triệu người. Như vậy, nguồn lao động của Việt Nam ngày càng tăng.
Mặt khác, bên cạnh lực lượng lao động dồi dào chi phí cho lao động của Việt Nam thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Do vậy, giá sản phẩm các mặt hàng dệt may của Việt Nam tương đối thấp so với các nước.
Ví dụ: nếu so với các nước Đông Nam á thì giá công may của Việt Nam thấp từ 2 đến 48 lần và nếu so với Đức là 25,86 USD/h Nhật Bản là 19,2 USD/h Mỹ là 16,73 USD/h thì giá công may của Việt nam là từ 0,16-0,19 USD/h, thấp từ 100-150lần.
Để giảm tối đa chi phí cho dệt may xuất khẩu, tạo mọi điều kiện cho sản phẩm dệt may cạnh tranh trên thị trường thế giới, chính sách thuế suất nhập khẩu nước ta đã có nhiều ưu đãi cho ngành dệt may nh ư: áp dụng mức thuế suất 0% đối với sản phẩm dệt may xuất khẩu. Thuế giá trị gia tăng cũng áp dụng thuế suất 0%. Miễn thuế đối với vật tư nguyên liệu nhập khẩu để gia công hàng cho nước ngoài. Không áp đặt giá tính thuế tối thiểu để xác định giá tính thuế nhập khẩu đối với vật tư nguyên liệu sản xuất hàng dệt may thuế suất đối với nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ ngành dệt may hầu hết là 0%, vật tư nguyên liệu của hàng dệt may có thuế suất thấp từ 0%-10%.
2.2.2.2. Khó khăn.
Trong nhứng năm gần đây, công nghiệp dệt may Viêt Nam đã có bước tăng trưởng đáng kể. Ngành sử dụng nhiều lao động, giải quyết việc làm, có đóng góp lớn vào xuất khẩu, tạo điều kiện ổn định cán cân thu chi ngoại tệ theo hướng có tích luỹ. Thành công đó đạt được là nhờ những thuận lợi mà ngành có, nếu phát huy cao độ tiềm năng và lợi thế so sánh về xuất khẩu ngành công nghiệp dệt may Việt Nam có thể tăng trưởng nhanh hơn nhiều. Bên cạnh những thuận lợi trên các doanh nghiêp dệt may còn găp rất nhiều khó khăn khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Thứ nhất: dệt và sản xuất phụ liệu chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu của ngành may xuất khẩu.
Theo hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước đổ vào ngành sợi, dệt đã đưa năng lực sản xuất của ngành này tăng vọt.
Tuy nhiên quy mô của ngành sợi, dệt trong mấy năm qua tuy tăng nhanh nhưng vẫn chưa theo kịp nhu cầu của ngành may. Ông Lê Quốc Ân, chủ tịch hiệp hội cho biết các nhà máy dệt, sợi trong nước hiện đã chạy hết công suất nhưng mới đáp ứng được khoảng một nửa nhu cầu vải của thị trường. Riêng lĩnh vực may xuất khẩu, tỉ lệ sử dụng nguyên phụ liệu trong nước chỉ khoảng 25-30%. Hiện ngành trồng bông vải trong nước chỉ đáp ứng khoảng 11% nhu cầu bông thiên nhiên của ngành kéo sợi, còn xơ tổng hợp phải nhập khẩu toàn bộ.
Thứ hai: về thuế xuất. Hiện nay đã có trên 100 quốc gia được hưởng GSP khi xuất khẩu dệt may vào thị trường Mỹ. Những sản phẩm được miễn thuế phải thoả mãn yêu cầu là hàng được xuất khẩu từ chính nước được hưởng GSP và được chế biến toàn bộ sản phẩm hoặc ít nhất là trên 30% giá trị gia tăng tại chính nước này. Trong khi đó hiện nay Việt Nam vẫn chưa được hưởng ưu đãi GSP. Việc ưu đãi GSP chỉ được thực hiện sau khi Việt Nam đạt được quy chế tối huệ quốc với Mỹ và thành viên của WTO và IMF.
Thứ ba: Chưa có đội ngũ thiết kế mẫu mã hợp với thị hiếu tiêu dùng trên thế giới.
Công tác thiết kế mẫu mốt còn yếu, chưa được chú trọng mặc dù nước ta có một đội ngũ các nhà thiết kế trẻ giầu năng lực thế nhưng mẫu mã thiết kế chưa thật sự đi vào cuộc sống. Còn thời trang hàng ngày phần lớn lại được sưu tầm từ các cataloguc nước ngoài, khâu thiết kế còn nhiều hạn chế, chưa xây dựng được thương hiệu mang nét đặc trưng và đạt tầm cỡ quốc tế. Đó cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến hàng dệt may Việt Nam dù có ưu thế nhưng vẫn chưa thể tự chủ để phát triển và hội nhập với thương trường quốc tế.
Mặt khác, một sản phẩm sau khi được đưa ra thị trường lại được duy trì trên thị trường khá lâu. Chỉ khi nào thấy người tiêu dùng đã chán sản phẩm đó, doanh nghiệp mới thôi không sản xuất nữa. Điều này có tác hại rất lớn là, mặc dù khi doanh nghiệp phát hiện ra sự đi xuống trong chu kỳ sống của sản phẩm thì dừng lại không sản xuất nữa nhưng thực ra trên thị trường vẫn tồn đọng một số lượng sản phẩm chưa tiêu thụ được. Khác với chúng ta, các doanh nghiệp nước ngoài biết kết thúc sản xuất ngay từ khi sản phẩm đang ở đỉnh cao của chu kỳ sống và đưa ra ngay sản phẩm mới khác.
Thứ tư: Khả năng cạnh tranh.
Bên cạnh trở ngại thuế quan, để tăng cường xuất khẩu sang thị trường Mỹ hàng dệt may Việt Nam phải đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm của các hãng sản xuất Mỹ và các nước xuất khẩu truyền thống vào thị trường này như Trung Quốc, ấn Độ và các nước Nam Mỹ. Mặt khác chúng ta mất dần lợi thế vào thị phần do giá hàng dệt may thường cao hơn các nước trong khu vực khoảng 10-15%,cao hơn giá hàng Trung Quốc khoảng 20%. Năng suất lao động trong ngành may bằng khoảng 50-70% so với các nước trong khu vực.
Thứ năm: Về hệ thống pháp luật và thông tin của thị trường Mỹ:
Hệ thống luật pháp của Mỹ hết sức phức tạp, mỗi bang lại có thể lệ riêng không thể áp dụng từ bang này sang bang khác. Trong khi đó, các doanh nghiệp lại thiếu kinh nghiệm về thị trường Mỹ, thiếu hiểu biết về môi trường kinh doanh nước Mỹ và thiếu kinh nghiệm kinh doanh quốc tế nên thường bị ép gi á, giao hàng không đúng thời hạn, chậm đổi mới. . . đã làm cho sức cạnh tranh vốn đã yếu của hàng hoá Việt Nam càng khó có thể thâm nhập nhanh và hiệu quả vào thị trường này.
Sự yếu kém trên nhiều phương diện của các doanh ngiệp Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường Mỹ đã trở thành hàng rào cản trở việc thâm nhập vào thị trường Mỹ của các doanh ngiệp Việt Nam trong những năm qua. Vấn đề đặt ra là bất cứ lúc nào các doanh ngiệp Việt Nam cũng phải nhận thức được các cơ hội và thách thức trong việc thâm nhập vào thị trường Mỹ, trên cơ sở đó mà áp dụng các giải pháp đưa được nhiều hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ.
2.2.3. Những thời cơ và thách thức đặt ra đối với hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường Mỹ:
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, việc kí kết và thực thi Hiệp định thương mại Việt-Mỹ sẽ đưa lại cho Việt Nam thời cơ và thách thức không nhỏ.
2.2.3.1. Thời cơ:
Hiệp định thương mại Việt -Mỹ (BTA) kí kết ngày 13/7/2000 được quốc hội hai nước phê chuẩn và có hiệu lực từ ngày 10/12/2001 là cơ hội bằng vàng cho ngành dệt may Việt Nam. Hiệp định BTA có hiệu lực và thị trường được mở rộng sẽ cho phép dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN hay NTR) và ưu đãi phổ cập -GSP với thuế xuất 0%. Đây là cơ hội tiên quyết để dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ mà không bị hạn chế bởi hạn ngạch hay giấy phép nhập khẩu của chính phủ Mỹ đang áp dụng với các nước khác, lợi thế này chỉ có thể kéo dài trong vòng 1 năm kể từ khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực. Song nếu biết tận dụng cơ hội thì các doanh ngiệp dệt may Việt Nam có thể đẩy mạnh hàng xuất khẩu Việt Nam vào thị trường này.
An ninh kinh tế và chính trị của Việt Nam được các tổ chức có uy tín trên thế giới xếp loại nhất trong khu vực Châu á. Vì vậy sự kiện 11-9 lại là cơ hội vàng cho ngành dệt may Việt Nam, vì các doanh nghiệp Mỹ không muốn ký kết hợp đồng làm ăn với những nơi không ổn định về chính trị. Nhiều đơn đặt hàng dệt may Mỹ từ những nước có kim ngạch xuất khẩu lớn được chuyển sang những nước có nền chính trị ổn định như Trung Quốc, Việt Nam. . . Các tập đoàn lớn của Mỹ như JC PENNY, NIKE. . . đã chính thức đặt quan hệ với các doanh nghiệp Việt Nam; đồng thời các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tập trung triển khai nhanh các dự án dệt may tại Việt Nam. Vì Việt Nam là nước được cộng đồng quốc tế đánh giá là một thị trường tiềm năng ổn định và có mức đầu tư tăng.
Mỹ bảo hộ hàng dệt là chính. Do đó lợi thế thứ ba là Việt Nam xuất khẩu hàng may mặc là chủ yếu, còn hàng dệt hiện nay đang tụt hậu nên không đạt mục tiêu cao cho mặt hàng này vào thị trường Mỹ, bởi vậy không cần thiết phải áp dụng quota.
Một lợi thế nữa là: Sự phát triển của khoa học kỹ thuật giúp cho các tổng công ty xuất khẩu Việt Nam giới thiệu và bán trực tiếp hàng may mặc cho người tiêu thụ thay vì qua các trung gian. Giá bán qua trung gian là giá đã bị ép rất nhiều, qua thương mại điện tử nếu bán trực tiếp được cho các bạn hàng lẻ thì giá có khả năng nâng lên từ 30% đến 50% thậm trí từ 80% đến 100% so với giá bán cho các nhà nhập khẩu nước ngoài. Phương án thương mại điện tử và bán trực tiếp cho những người buôn bán lẻ và những người tiêu thụ vừa tăng giá hàng vừa nhân gấp bội lần số hàng xuất khẩu và giải quyết cơ bản việc các doanh nghiệp Việt Nam xé rào nhận gia công với giá thấp.
2.2.3.2 Bên cạnh những thời cơ, ngành dệt may Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn.
Hàng dệt may là lĩnh vực các nước đang phát triển có lợi thế và tiềm năng phát triển cao bởi đặc thù của ngành này là sử dụng nhiều lao động, công nghệ tương đối dễ tiếp cận, quy mô thị trường tiêu thụ lớn. . . Do vậy trong định hướng phát triển kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi để đưa dệt may trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn hướng ra thị trường khu vực và quốc tế. Tuy vậy, trong xu hướng hội nhập kinh tế khu vực và thế gới, trước những khó khăn chủ quan cũng như khách quan của nền kinh tế nước nhà thì bên cạnh những cơ hội là không ít những thách thức đang chờ đón.
Thuế suất: Mỹ là thị trường tiềm năng với sức mua lớn và đa dạng về các sản phẩm dệt may. Thực tế cho thấy mặc dù sản phẩm dệt may Việt Nam đã bắt đầu tìm thấy hy vọng trên thị trường Mỹ nhưng qua những khó khăn mà ta gặp phải cho thấy nó chưa có được vị trí vững chắc trên thị trường đầy hấp dẫn này. Những yếu tố pháp lý là những rào cản lớn cho hàng dệt may Việt Nam trong đó yếu tố quan trọng nhất là sự phân biệt đối sử về thuế suất do Việt Nam chưa ra nhập WTO.
Hạn ngạch: Thị trường Mỹ tuy tiềm năng vô cùng to lớn nhưng Việt Nam vừa mới tiếp cận và được hưởng ưu đãi một năm thì Mỹ đã yêu cầu đàm phán để áp đặt hạn ngạch trong khi chỉ còn hai năm nữa là bãi bỏ hạn ngạch hoàn toàn. Để hoàn thành quá trình đàm phán ra nhập chúng ta phải thoả mãn hàng loạt những yêu cầu của các nước thành viên WTO, điều đó đồng nghĩa với việc mở cửa thị trường trong nước cho các nước thành viên khác thâm nhập và cùng đặt các nhà sản xuất hàng hoá Việt Nam trước những thách thức hết sức to lớn. Rõ ràng mâu thuẫn giữa tất yếu hội nhập và thách thức cạnh tranh, bảo vệ và phát triển nền sản xuất dân tộc là mâu thuẫn không thể lý giải. Chúng ta hội nhập muộn màng, thời gian kinh tế thế giới tiến đến toàn cầu hoá không còn bao lâu nữa, nếu chúng ta do dự thì mặt trái của quá trình toàn cầu hoá sẽ tác động vào nền kinh tế nước ta càng mạnh hơn.
Trong những tháng đầu năm 2003 này các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang lo lắng về việc Mỹ sẽ áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam. Mỹ chỉ áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may của Campuchia 27 tháng sau khi thực hiện Hiệp định thương mại với nước này và với Trung Quốc là 3 năm còn Việt Nam chỉ chưa đầy 16 tháng sau khi thực thi Hiệp định thương mại song phương là không công bằng, đồng thời thể hiện sự bất bình đẳng trong quan hệ kinh doanh. Tuy nhiên thực tế, trong vòng đàm phán thứ hai giữa Việt Nam và Mỹ về Hiệp định dệt may song phương diễn ra ngày 9/4/2003 tại Mỹ, hai bên đã cơ bản nhất trí Việt Nam sẽ xuất khẩu sang Mỹ số hàng dệt may trị giá tối đa là 1, 7 tỉ USD mỗi năm và riêng hạn ngạch (quota) tối thiểu của năm 2003 là 1, 5 tỉ USD. Như vậy Mỹ đã áp đặt hạn ngạch quá thấp so với năng lực sản xuất thực tế của các doanh nghiệp Việt Nam.
Sự cạnh tranh gay gắt các sản phẩm của Mỹ và các nước suất khẩu truyền thống vào Mỹ như Bănglađet, ấn Độ... nhất là Trung Quốc.
Theo kết quả nghiên cứu của một nhóm chuyên gia, khả năng tiếp cận thị trường nước ngoài hiện nay của ngành dệt may Việt Nam bị nhiều cản trở. Số lượng hạn ngạch được hưởng chỉ bằng 5% của Trung Quốc và bằng 10%-20% của các nước ASEAN, số mặt hàng bị hạn chế nhiều.
Trung Quốc giữ vị trí hàng đầu trong ngành dệt may thế giới về sản lượng sợi bông và đứng thứ hai về sợi hoá học (2, 9 triệu tấn). Kể từ đầu những năm 90, Trung Quốc luôn là một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu hàng dệt và may mặc, kim ngạch xuất khẩu chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch buôn bán dệt may toàn cầu. Ngành dệt may Trung Quốc là một ngành có sức cạnh tranh mạnh nhất trên thị trường thế giới vì ngành này có nhiều lợi thế rất lớn từ nguyên liệu bông, xơ hoá chất, thuốc nhuộm đến máy móc thiết bị sợi, dệt, hoàn tất đều do các ngành sản xuất trong nước cung cấp cùng với giá nhân công thấp và các chính sách hỗ trợ xuất khẩu của chính phủ Trung Quốc đã làm cho ngành này phát triển nhanh chóng. Trung Quốc lại là thành viên của WTO và đã được hưởng quy chế tối huệ quốc của Mỹ từ nhiều năm nay nên đã chiếm lĩnh được thị trường quan trọng này.
Mặt khác các doanh nghiệp Trung Quốc đã xây dựng được hệ thống cập nhật thông tin chính xác cũng như có khả năng thích ứng kịp thời trước những yêu cầu mới của thị trường để luôn tung ra những sản phẩm mới. Về điểm này, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa theo kịp. Ngoài ra theo các chuyên gia nghiên cứu cho thấy nhiều doanh nghiệp Việt Nam chỉ nghĩ tới việc thay đổi mẫu mã sản phẩm khi chu kỳ sống của sản phẩm đó đã bước sang giai đoạn thoái trào, hàng không bán được nữa. Điều này khiến cho dù đã chấm dứt sản xuất nhưng sản phẩm đó vẫn còn lưu thông rất nhiều trên thị trường. Trong khi đó, các doanh nghiệp Trung Quốc luôn thay đổi mẫu từ khi sản phẩm vẫn còn đang ăn khách nên mẫu mã hàng hoá của các doanh nghiệp Trung Quốc luôn mới.
Như vậy ta thấy sản phẩm dệt may củaTrung Quốc có sự cạnh tranh với sản phẩm dệt may của nước ta gay gắt nhất, không những sự cạnh tranh đó ở những thị trường trọng điểm như Mỹ, Nhật Bản... mà còn tại trong thị trường nội địa của Việt Nam.
Phần 3: Các giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt May vào thị trường Mỹ.
Để xây dựng hình ảnh sản phẩm dệt may Việt Nam “ có chất lượng - uy tín trách nhiệm xã hội” và trước tình trạng hạn ngạch bị áp đặt q
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 61533.DOC