Những nghiên cứu thực nghiệm về nguồn tăng trưởng kinh tế từ đầu thế kỷ XIX ở các nền kinh tế phương Tây và Nhật Bản cho thấy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn đầu của Cách mạng Công nghiệp chủ yếu dựa trên tích luỹ vốn hơn là tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên sau đó cả Mỹ và Nhật Bản đều đã dịch chuyển được từ tăng trưởng dựa trên tích luỹ vốn sang tăng trưởng dựa trên tăng năng suất.
Tuy nhiên sự thay đổi mô hình tăng trưởng này không xảy ra ở tất cả các nền kinh tế. Thực tế tăng trưởng của Liên Xô (cũ) là sự tương phản hoàn toàn với Mỹ và Nhật. Có thể coi kế hoạch hoá kinh tế của Liên bang Xô viết là trường hợp điển hình của việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tối đa hoá tích luỹ vốn theo định hướng của chính phủ. Tốc độ tăng tỷ lệ vốn-lao động ở Liên Xô cao hơn nhiều so với các nền kinh tế thị trường, tốc độ tăng năng suất lao động nhỏ hơn nhiều so với tốc độ tăng tỷ lệ vốn-lao động, đồng nghĩa với sự gia tăng rất lớn của tỷ lệ vốn-sản lượng.
Mô hình tăng trưởng kinh tế của Liên Xô cho đến thập kỷ 60 của thế kỷ XX vẫn chỉ tương đương với mô hình tăng trưởng kinh tế của Mỹ và Nhật trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá. Rõ ràng là nền kinh tế này đã không thể dịch chuyển từ tăng trưởng dựa trên tích luỹ vốn sang tiến bộ công nghệ, và dường như đã bị “mắc kẹt” bởi quy luật sản phẩm cận biên của vốn giảm dần.
23 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1800 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các khuyến nghị về mặt chính sách đối với sự thay đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhanh. Bình quân thời kỳ 1991-1995 mới đạt 28,2%, thời kỳ 1996-2000 đạt 33,3%, thì thời kỳ 2001-2005 đạt 39,1% và thời kỳ 2006 - 2008 đạt 43%, trong đó năm 2007 là 46,5%, năm 2008 là 41,3%. Đây là tỷ lệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ sau tỷ lệ trên dưới 44% của Trung Quốc - một tỷ lệ làm cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt cao nhất thế giới, đã nhiều năm liền tăng hai chữ số, hiện đang giữ kỷ lục thế giới về số năm tăng trưởng liên tục (28 năm), nhưng Trung Quốc đưa ra mục tiêu giảm độ nóng của tăng trưởng và đẩy mạnh chống lạm phát do tốc độ tăng giá tính theo năm của tháng 2/2008 đã lên đến 8,3%, cao nhất trong 12 năm qua.
Hai là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện còn dựa một phần quan trọng vào yếu tố số lượng lao động, sự quan trọng này được xét trên hai mặt.
Một mặt, Với kết cấu dân số trẻ, lực lượng lao động dồi dào (khoảng 45 triệu người trong độ tuổi lao động), hàng năm bổ sung thêm 1,2-1,5 triệu người. Mặt khác, do tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao.
Ta có thể nhận thấy một bất cập được thể hiện ngay trong các yếu tố tăng trưởng theo chiều rộng. Việt Nam có lợi thế về lao động hơn là lợi thế về vốn, trong khi đó, đóng góp của vốn vào tăng trưởng giai đoạn 2000-2005 gấp 3 lần, giai đoạn 2006-2007 gấp 4 lần so với đóng góp của yếu tố lao động.
Ba là, sự đóng góp hạn chế của yếu tố TFP vào tăng trưởng GDP của Việt Nam.
Bảng : Nguồn tăng trưởng ở châu Âu và Nhật Bản thời kỳ 1950-1973 và ở Đông Á thời kỳ 1960-1994 (% một năm).
Thời kỳ và nền kinh tế
Vốn
Lao động
TFP
GDP
1950-1973
Pháp
1,6
0,3
3,1
5,0
Italia
1,6
0,2
3,2
5,0
Nhật Bản
3,1
2,5
3,6
9,2
Đức
2,2
0,5
3,3
6,0
1960-1994
Trung Quốc
3,1
2,7
1,7
7,5
Hồng Kông
2,8
2,1
2,4
7,3
Indonesia
2,9
1,9
0,8
5,6
Hàn Quốc
4,3
2,5
1,5
8,3
Malaixia
3,4
2,5
0,9
6,8
Thái Lan
3,7
2,0
1,8
7,5
Nguồn: IMF paper, Vol 26, N2, June 1999
Bảng 1. cho thấy, yếu tố công nghệ đã đóng vai trò quyết định đến tăng trưởng GDP của các nước phát triển ngay từ thập niên 50 của thế kỷ trước (từ 40-60%), trong khi đó các nước đang phát triển ở khu vực Đông Á đến thập niên 90, tăng trưởng GDP vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào sự sẵn có của các yếu tố tăng trưởng theo chiều rộng, yếu tố TFP chỉ đóng góp khoảng 10-15%.
Việt Nam cũng là một ví dụ cho các nước đang phát triển. Nếu tính cả sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư và sự đóng góp của yếu tố số lượng lao động, thì hai yếu tố này đã đóng góp trên ba phần tư tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Điều đó chứng tỏ, mặc dù đóng góp của nhân tố TFP có tăng dần qua các năm nhưng không đáng kể, chưa được một phần tư, thấp chỉ bằng hai phần ba tỷ trọng đóng góp của yếu tố này ở các nước trong khu vực hiện nay. Sự đóng góp này chỉ tương đương với các nước Đông Nam Á vào thập niên 90 của thế kỷ trước (khoảng 20%), trong khi các nước này hiện nay đã tạo nên những bước đột phá chiến lược trong phát triển công nghệ, sự đóng góp của TFP vào tăng trưởng đã chiếm khoảng trên 50%.
Những điều trên đã cho thấy, điểm nổi bật nhất của mô hình tăng trưởng của Việt Nam hiện nay là ngày càng phát triển theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào tăng vốn, đặc biệt là vốn nhà nước. Dù thừa nhận nếu so với thời kỳ trước, mô hình tăng trưởng của Việt Nam có tiến bộ rõ rệt nhưng so với các mô hình thành công trên thế giới thì bộc lộ sự tụt hậu về chất lượng và sớm rơi vào tình trạng đuối sức, hụt hơi trong phát triển, dẫn đến khả năng đề kháng với những biến động kinh tế toàn cầu có thể bị tác động sâu và rộng hơn các quốc gia phát triển khác.
1.2. Những hạn chế của mô hình tăng trưởng theo chiều rộng ở Việt Nam
Việc phát triển nền kinh tế theo mô hình tăng trưởng theo chiều rộng đang ngày càng bộc lộ rõ những hạn chế, yếu kém của nền kinh tế Việt Nam.
Thứ nhất, Việt Nam hiện đang ở trong tình trạng năng lực cạnh tranh thấp và có xu hướng tụt hạng so với thời kỳ trước năm 1996. Vào năm 2003, Việt Nam đứng thứ 60 trên thế giới về năng lực cạnh tranh, tăng 5 bậc so với năm 2002, nhưng giảm 7 bậc so với thứ hạng 53 của năm 2000 và giảm 21 bậc so với thứ hạng năm 1998.
Bảng : Năng lực cạnh tranh quốc gia giai đoạn 2007-2009
2007
2008
2009
Việt Nam
68/131
70/134
75/133
Cam-pu-chia
110
109
110
In-đô-nê-xi-a
54
55
54
Ma-lai-xi-a
21
21
24
Phi-lip-pin
71
71
87
Xin-ga-po
7
5
3
Thái Lan
28
34
36
Trung Quốc
34
30
29
Nguồn: Báo cáo cạnh tranh toàn cầu của WEF
Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) trong Báo cáo Cạnh tranh toàn cầu 2009 đã xếp năng lực cạnh tranh của VN thứ 75/133 quốc gia, tụt 7 hạng so với năm 2007, tụt 5 hạng so với năm 2008. Xét theo từng tiêu chí, tình hình cụ thể như sau: thể chế kinh tế xếp thứ 74; kết cấu hạ tầng xếp thứ 83; kinh tế vĩ mô xếp thứ 53; giáo dục phổ thông và y tế xếp thứ 56; giáo dục đại học xếp thứ 90; hiệu quả của cơ chế thị trường xếp thứ 73; công nghệ xếp thứ 85... Nếu so sánh năng lực cạnh tranh của Việt Nam với một số nước ASEAN, thì Xin-ga-po xếp thứ 3, Thái Lan xếp thứ 36, In-đô-nê-xi-a xếp thứ 54, Phi-lip-pin xếp thứ 87, Cam-pu-chia xếp thứ 110. Như vậy, Việt Nam chỉ xếp trên Cam-pu-chia. Các nước Lào, Bru-nây, Mi-an-ma chưa được xếp hạng về năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh thấp và có xu hướng tụt bậc này cho thấy, Việt Nam đang đứng trước rất nhiều nguy cơ có thể bị tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do: trình độ công nghệ hiện đang sử dụng ở Việt Nam thấp tương đối so với các nước trong khu vực.
Biểu đồ: So sánh trình độ công nghệ của một số nước Đông Nam Á (năm 2005)
Nguồn: IPS, kế hoạch tổng thể bảo vệ môi trường ngành công nghiệp
Ở Việt Nam khoảng 60% là các công nghệ có trình độ thấp, ngang với tỷ lệ sử dụng công nghệ trung bình và công nghệ cao của một số nước trong khu vực Đông Nam Á.
Đó là do ở Việt Nam trình độ kỹ thuật, nhất là trang thiết bị, công nghệ sản xuất còn lạc hậu, sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, yếu kém về năng lực quản lý, trình độ và kỹ năng của người lao động.
Phần lớn các doanh nghiệp đang sử dụng công nghệ lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ so với mức trung bình của thế giới. Việc đổi mới công nghệ chậm (như ngành cơ khí chế tạo, ngành luyện kim, hoá chất, chế biến lâm sản). Các doanh nghiệp nước ta mới chỉ đầu tư khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu cho đổi mới công nghệ, so với 10% ở Hàn Quốc hay 5% ở ấn Độ. Tốc độ đổi mới công nghệ ước tính bình quân mới đạt khoảng 10%/năm.
Nhận thức về chất lượng của nhiều bộ/ngành, địa phương, doanh nghiệp còn chưa được quan tâm đúng mức. Thiếu các chính sách cụ thể và đồng bộ về đầu tư tài chính, thuế, ngân hàng, R&D, đổi mới công nghệ nhằm khuyến khích các hoạt động nâng cao NSCL. Phong trào NSCL chưa thực sự thu hút được sự quan tâm và tham gia của nhiều doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong xã hội. Trong khi nhiều nước trong khu vực như Nhật Bản, Singapore, ấn Độ đã hình thành và phát triển phong trào NSCL từ hàng chục năm nay (Nhật Bản từ năm 1955, Singapore từ năm 1981) thì Việt Nam, với vị trí là nước đi sau, nếu biết đón nhận, khai thác các lợi thế và cơ hội, chủ động rút kinh nghiệm, học hỏi các nước đi trước thì khả năng nhân rộng và đẩy nhanh phong trào này là khả thi và tất yếu.
Thứ hai, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nước ta trong giai đoạn đầu mở cửa khá cao, nhưng đang có chiều hướng giảm thấp vào những năm gần đây.
Hiệu quả đầu tư được biểu hiện bằng nhiều chỉ tiêu, với cách tính khác nhau, trong đó, cách tính được sử dụng nhiều là hệ số ICOR được tính bằng cách chia tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP cho tốc độ tăng GDP.
Bảng 4. Động thái ICOR giai đoạn 1995 – 2009
Nguồn: tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê
Từ năm 1995, hệ số ICOR liên tục tăng: từ mức 3,5 (giai đoạn 1991-1995), tăng đến 5,24 (giai đoạn 2001-2003). Năm 2008, hệ số ICOR của nền kinh tế là 6,6 đã gấp hơn 2 lần mức khuyến nghị và đến năm nay, ICOR bằng 8, ở mức rất cao. Nói nôm na là phải bỏ ra 8 đồng vốn đầu tư mới được một đồng tăng trưởng.
Từ các con số trên, có thể rút ra hai nhận xét.
Thứ nhất, để tăng 1% GDP, đòi hỏi phải có tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP ngày một nhiều hơn, chứng tỏ hiệu quả đầu tư đã bị sút giảm qua các thời kỳ, tức là tăng trưởng kinh tế ngày một tốn nhiều vốn đầu tư hơn.
Thứ hai, hệ số ICOR của Việt Nam cao hơn của các nước: trong khi ICOR của Việt Nam tính chung trong thời kỳ 1991-2008 là 5, thì của Đài Loan thời kỳ 1961-1980 là 2,7, của Hàn Quốc thời kỳ 1961-1980 là 3, của Indonesia thời kỳ 1981-1995 là 3,7, của Trung Quốc thời kỳ 2001-2006 là 4 lần... So sánh với các nước trong khu vực, ICOR của Việt Nam gần gấp đôi, có nghĩa là hiệu suất đầu tư của nước ta chỉ bằng một nửa. Một số chuyên gia kinh tế ví việc này cũng giống như một lực sỹ cử tạ phải tốn sức gấp đôi mới nâng được quả tạ cùng cân “mục-tiêu-tăng-trưởng”. Tính cạnh tranh của nền kinh tế, vì vậy mà cũng giảm đi đáng kể.
Có một cách tính khác là chia vốn đầu tư trong năm cho GDP tăng thêm so với năm trước. Để tăng một đồng GDP, trong thời kỳ 1996-2000 cần 0,6 đồng vốn đầu tư, thời kỳ 2001-2005 cần 0,9 đồng và thời kỳ 2006-2008 cần tới 2,4 đồng. Như vậy, để tạo thêm một đồng GDP, ngày càng phải tốn nhiều đồng vốn hơn.
Cũng có một cách tính khác là chia GDP cho vốn đầu tư. Nếu trong thời kỳ 1991-1995, một đồng vốn tạo ra 3,6 đồng GDP, thì thời kỳ 1996-2000 còn 3 đồng, thời kỳ 2001-2005 chỉ còn 2,6 đồng và thời kỳ 2006-2008 còn có 2,3 đồng.
Rõ ràng, dù tính theo cách nào, thì hiệu quả đầu tư của nước ta đều giảm qua các thời kỳ và thấp hơn các nước.
Hiệu quả đầu tư thấp do nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân chủ yếu là do đầu tư dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm; Vốn đầu tư khu vực nhà nước thường bị co kéo, chi phí giải phóng mặt bằng lớn, thi công chậm, tỷ lệ thất thoát lớn... Trong khi đó, vốn ngoài nhà nước thường chưa dồn cho sản xuất - kinh doanh, mà còn chạy lòng vòng ở các kênh khác nhau; công tác cải cách hành chính được thúc đẩy nhưng còn nhiều bất cập.
Thứ ba, Lao động là yếu tố dồi dào nhất của Việt Nam, hiện lại đang có xu hướng dư thừa bởi số người đến độ tuổi bổ sung vào đội quân lao động hằng năm vẫn khá lớn (hơn 1 triệu người). Tuy nhiên, yếu tố này đã không được sử dụng hiệu quả để tạo ra tăng trưởng GDP lớn hơn. Nguồn nhân lực của nước ta đã không được sử dụng hết, thậm chí lãng phí. Cụ thể là:
Tỷ lệ thất nghiệp tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao. tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị khoảng 5,3%, tỷ lệ lao động nông thôn không sử dụng hết quỹ thời gian khoảng 19,4%.
Lực lượng lao động tuy đông về số lượng nhưng chủ yếu là lao động phổ thông, ít qua đào tạo. Hiện tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề mới chỉ chiếm khoảng 25%. Tỷ lệ lao động được đào tạo (tốt nghiệp đại học, cao đẳng và dạy nghề) không có việc làm hoặc việc làm không đúng chuyên môn còn rất lớn, gây lãng phí rất nhiều về chi phí đào tạo của gia đình và xã hội, dẫn đến cơ cấu lao động mất cân đối, thừa thầy thiếu thợ. Nhiều lao động trẻ được đào tạo, có trình độ kỹ thuật, có sức khỏe vẫn bị thất nghiệp. Ngoài ra, chương trình đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Học sinh học lý thuyết nhiều, nhưng khả năng vận dụng thực tiễn rất yếu. Học sinh chuyên các ngành khoa học cơ bản không được khuyến khích nên thiếu hụt nghiêm trọng. Như vậy, nguồn lực năng động nhất, cũng là lợi thế phát triển quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững của Việt Nam đang bị lãng phí rất lớn, khó phục vụ hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế. Điều này được thể hiện qua NSLĐ của Việt Nam những năm vừa qua.
Bảng: Năng suất lao động bình quân giai đoạn 2001-2005 của một số nước
Tên nước
Mức NSLĐ
Tốc độ tăng NSLĐ
Mức NSLĐ(USD)
Thứ tự
Tốc độ (%)
Thứ tự
Mỹ
77,346
1
1,8
12
Nhật Bản
77,061
2
1,9
10
Ireland
62,936
3
1,0
15
Hồng Kông
60,299
4
5,0
4
Pháp
57,677
5
1,4
14
Phần Lan
55,698
6
0,2
18
Singapore
52,426
7
1,9
10
Anh
51,882
8
0,9
16
Đức
50,789
9
0,9
16
Canada
49,308
10
1,6
13
Úc
45,545
11
-1,0
20
Đài Loan
36,856
12
2,7
8
Hàn Quốc
27,907
13
2,6
9
Malaysia
11,300
14
3,0
6
Thái Lan
4,305
15
3,0
6
Philippin
2,807
16
-0,8
19
Trung Quốc
2,232
17
7,1
1
Indonesia
1,952
18
4,6
5
Ấn Độ
1,242
19
6,6
2
Việt Nam
1,237
20
5,5
3
Nguồn: Tạp chí Thời báo kinh tế Việt Nam
Nhìn vào bảng số liệu có thể nhận thấy tốc độ tăng NSLĐ của Việt Nam là khá cao so với các nước trên thế giới. Xét chung lại, tốc độ tăng NSLĐ của Việt Nam thời kỳ 2001 - 2005 đạt bình quân 5,5%/năm Những ngành có NSLĐ tăng cao nhất phải kể đến là ngành khai thác (tăng 17%/năm), ngành điện, khí đốt, nước (tăng 11,1%) nhờ áp dụng nhiều tiến bộ khoa học và công nghệ mới trong sản xuất kinh doanh và quản lý. Tuy nhiên, NSLĐ của Việt Nam hiện vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực.
Năm 2007 NSLĐ mới đạt 25.886 đồng/người, của nhóm ngành nông, lâm nghiệp-thuỷ sản còn đạt thấp hơn chỉ có 9.607 nghìn đồng/người, ngay cả nhóm ngành công nghiệp-xây dựng cao nhất cũng mới đạt 55.072 đồng/người và của nhóm ngành dịch vụ cũng chỉ đạt 38.159 nghìn đồng/người. Nếu quy ra USD theo tỷ giá hối đoái, NSLĐ của toàn nền kinh tế cũng mới đạt khoảng 1,6 nghìn USD, của nhóm ngành nông, lâm nghiệp- thuỷ sản chỉ đạt 0,6 nghìn USD, của nhóm ngành công nghiệp- xây dựng đạt khoảng 3.438 USD, của nhóm ngành dịch vụ đạt khoảng 2.385 USD.
Các con số trên còn thấp xa so với NSLĐ chung của thế giới (khoảng trên 14,6 nghìn USD), còn thấp hơn cả mức bình quân đầu người của thế giới (khoảng 6,5 nghìn USD/người). Với năng suất còn thấp như trên thì giá trị thặng dư còn đang rất nhỏ nhoi.
Có nhiều nguyên nhân làm cho NSLĐ thấp, trong đó có nguyên nhân là cơ cấu lao động theo ngành kinh tế chuyển dịch chậm; tỷ trọng lao động làm việc trong nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thủy sản hiện còn khá cao (52,6%), trong khi năng suất lao động của nhóm ngành này thấp và tỷ lệ thiếu việc làm còn cao (20%); nhóm ngành dịch vụ tuy tăng cao hơn tốc độ chung, nhưng chủ yếu là thương nghiệp thuần túy, trong khi các dịch vụ có giá trị gia tăng cao lại chiếm tỷ trọng nhỏ...
Phần thứ hai: Các khuyến nghị về mặt chính sách đối với sự thay đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam.
2.1. Lựa chọn mô hình tăng trưởng nào cho Việt Nam?
Nguồn tăng trưởng kinh tế ở các nước công nghiệp phát triển
Những nghiên cứu thực nghiệm về nguồn tăng trưởng kinh tế từ đầu thế kỷ XIX ở các nền kinh tế phương Tây và Nhật Bản cho thấy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn đầu của Cách mạng Công nghiệp chủ yếu dựa trên tích luỹ vốn hơn là tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên sau đó cả Mỹ và Nhật Bản đều đã dịch chuyển được từ tăng trưởng dựa trên tích luỹ vốn sang tăng trưởng dựa trên tăng năng suất.
Tuy nhiên sự thay đổi mô hình tăng trưởng này không xảy ra ở tất cả các nền kinh tế. Thực tế tăng trưởng của Liên Xô (cũ) là sự tương phản hoàn toàn với Mỹ và Nhật. Có thể coi kế hoạch hoá kinh tế của Liên bang Xô viết là trường hợp điển hình của việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tối đa hoá tích luỹ vốn theo định hướng của chính phủ. Tốc độ tăng tỷ lệ vốn-lao động ở Liên Xô cao hơn nhiều so với các nền kinh tế thị trường, tốc độ tăng năng suất lao động nhỏ hơn nhiều so với tốc độ tăng tỷ lệ vốn-lao động, đồng nghĩa với sự gia tăng rất lớn của tỷ lệ vốn-sản lượng.
Mô hình tăng trưởng kinh tế của Liên Xô cho đến thập kỷ 60 của thế kỷ XX vẫn chỉ tương đương với mô hình tăng trưởng kinh tế của Mỹ và Nhật trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá. Rõ ràng là nền kinh tế này đã không thể dịch chuyển từ tăng trưởng dựa trên tích luỹ vốn sang tiến bộ công nghệ, và dường như đã bị “mắc kẹt” bởi quy luật sản phẩm cận biên của vốn giảm dần.
Nguồn tăng trưởng của các nước Đông Á
Chỉ trong giai đoạn 1980-95, thu nhập bình quân đầu người của Indonesia, Malaysia, Singapore và Thái Lan đã tăng hơn gấp đôi, so với sự gia tăng 20% ở Mỹ. Ở cả bốn nước này, dường như đầu tư vào vốn vật chất đóng một vai trò quan trọng. Tuy nhiên, câu hỏi liệu đầu tư vào vốn vật chất có giải thích được tốc độ tăng trưởng cao ở Đông Á hay không vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi.
Trong một nghiên cứu nổi tiếng vào năm 1995, dựa trên phương pháp luận hạch toán tăng trưởng, Young đã lập luận rằng tốc độ tăng trưởng cao của Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan có được là nhờ gia tăng đầu tư, tăng tỷ lệ tham gia lực lượng lao động và tăng chất lượng lao động (được phản ánh ở sự gia tăng tỷ lệ lao động có trình độ), chứ không nhờ tiến bộ công nghệ. Vì vậy, theo quan điểm của Young, không có gì thần kỳ trong sự tăng trưởng ở Đông Á.
Tuy nhiên, phân tích của Sarel tập trung vào 5 nước Đông Á: Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan (trong tương quan so sánh với Mỹ) trong thời kỳ 1978-1996, không dựa trên tỷ phần thu nhập (của Young), mà theo một phương pháp nhằm lượng hoá được chênh lệch về cấu trúc sản xuất và trình độ phát triển giữa các nước lại cho thấy tăng trưởng các nhân tố không phải là vốn và lao động lại giải thích phần lớn tốc độ tăng trưởng sản lượng bình quân đầu người trong cả giai đoạn.
Do vậy, kết luận của các nghiên cứu tính toán tăng trưởng này cho thấy: không có sự đồng thuận về tầm quan trọng tương đối của tăng trưởng năng suất với tăng trưởng các đầu vào nhân tố ở Đông Á từ đầu thập kỷ 60 đến giữa những năm 1990.
Khủng hoảng kinh tế thế giới đã làm bộc lộ những “tử huyệt” của nền kinh tế Việt Nam, theo cách gọi và hiểu của nhiều người, thể hiện qua sự giảm sút của xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, dẫn đến tụt giảm tăng trưởng và gia tăng thất nghiệp. Nói cách khác, theo họ, với mức độ phụ thuộc rất lớn vào vốn, công nghệ và thị trường nước ngoài như hiện nay, mô hình tăng trưởng mà Việt Nam đang theo đuổi là không bền vững và sớm muộn cũng phải tìm cách thay đổi nếu không nền kinh tế sẽ không bao giờ cất cánh nổi và một bộ phận lớn dân chúng không bao giờ thoát khỏi được đói nghèo.
Muốn nền kinh tế nước ta thực sự nâng cao tốc độ tăng trưởng đạt mức tiềm năng và cải thiện chất lượng tăng trưởng, cần phải khổ công tạo ra và củng cố những "cơ sở" tăng trưởng. Điều này có nghĩa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng trong ngắn hạn hay trung hạn rất cao nhưng vẫn có thể thua trong cuộc đua tranh phát triển dài hạn do bị thất bại trong cạnh tranh. Đối với các nước nghèo, lạc hậu, khả năng đạt tốc độ tăng trưởng cao thường là khá dễ dàng. Song năng lực cải thiện chất lượng tăng trưởng, tạo ra, duy trì và củng cố các cơ sở tăng trưởng dài hạn của họ thường là thấp. Điều này giải thích tại sao đa số nước nghèo lại vẫn "hoàn nghèo" trong cuộc chạy đua tăng trưởng trường kỳ. Các ví dụ nổi bật như trường hợp Nigeria, Brazil và Argentina trong những năm 1970. Thoạt đầu là thần kỳ tăng trưởng trong hàng chục năm liên tục với mô hình thay thế nhập khẩu, dựa vào khai thác tài nguyên, được dẫn dắt bởi các chính sách hướng nội và sự can thiệp trực tiếp, mang tính chi phối của nhà nước để rồi sau đó, rơi vào thảm họa suy thoái, trì trệ kéo dài.
Nói như vậy có nghĩa là trong một nền kinh tế thế giới mở cửa, cạnh tranh và hội nhập ngày càng sâu rộng thì loại mục tiêu sống còn, thậm chí còn quan trọng hơn cả mục tiêu tăng trưởng GDP 5-7%/năm, chính là loại mục tiêu "động", liên quan đến năng lực cạnh tranh và vị thế trong hệ thống cạnh tranh. Không đạt được những mục tiêu này, đơn giản là nền kinh tế không thể tồn tại với tư cách là một thực thể cạnh tranh, không có cơ may để vươn lên, thoát khỏi tình trạng tụt hậu phát triển và vươn lên, cho dù nó có thể đạt tốc độ tăng trưởng rất cao.
Theo logic đó, sự tụt hạng của Việt Nam trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh tăng trưởng toàn cầu - hiện tượng đồng nghĩa với xu thế tụt hậu xa hơn - còn đáng sợ hơn cả sự sụt giảm 1-2% trong tốc độ tăng trưởng. Đi theo thông điệp đó, tuy có thể tạm thời trong một vài năm trước mắt, nền kinh tế không đạt được tốc độ tăng trưởng cao như kỳ vọng (vì phải dốc sức cho việc tạo lập và củng cố các cơ sở tăng trưởng dài hạn thay vì dốc sức cho chính tốc độ tăng trưởng ngắn hạn), song suốt cả một giai đoạn dài sau đó, nó nhất định đạt được mục tiêu tăng trưởng cao bền vững. Đó chính là cơ sở để nghĩ đến và tin tưởng rằng một giai đoạn tăng trưởng GDP 12-15%/năm kéo dài hàng chục năm đang đến với nền kinh tế Việt Nam.
Với tiềm lực tài chính có hạn, năng lực bộ máy và cán bộ chưa đủ cao, ngay tức thời trong một vài năm tới, Chính phủ khó có thể đồng thời giải quyết tốt như mong muốn cả hai việc: vừa tập trung nỗ lực để tạo ra và củng cố các cơ sở nền tảng của tăng trưởng, lại vừa đáp ứng được đòi hỏi tăng trưởng cao. Cách thức tối ưu nhất trong giai đoạn trước mắt chỉ có thể là tập trung ưu tiên cho nhiệm vụ tạo lập và củng cố cơ sở tăng trưởng thay cho nỗ lực tăng vốn đầu tư nhà nước lên cực đại để đạt bằng được mục tiêu tốc độ.
Nói cụ thể hơn, đã đến lúc chúng ta cần phải thay đổi tư duy về mô hình TTKT, TTKT cần dựa trên nền tảng coi trọng chất lượng. Theo đó, trong dài hạn cần đoạn tuyệt với mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, tăng trưởng nhờ tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên thiên nhiên và sức lao động, mà chuyển dần sang mô hình tăng trưởng dựa ngày càng nhiều hơn vào 2 yếu tố: công nghệ cao, nguồn nhân lực kỹ năng cao và hội nhập quốc tế.
2.2. Các khuyến nghị về mặt chính sách đối với sự thay đổi về mô hình tăng trưởng của Việt Nam
Để tạo lập và củng cố các cơ sở tăng trưởng cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, Tập trung khai thác tối đa lực lượng lao động và đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Với thế mạnh (gọi chính xác hơn là lợi thế so sánh) lớn nhất là lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ như vậy thì đương nhiên Việt Nam phải tập trung vào khai thác tối đa lực lượng lao động. Lực lượng lao động không nhất thiết chỉ tập trung vào những doanh nghiệp xuất khẩu mà còn cần nên được hút thêm vào những doanh nghiệp hướng thị trường nội địa, sản xuất những mặt hàng thâm dụng lao động mà ta vẫn phải nhập khẩu. Mục tiêu chủ yếu là hấp thu tối đa lực lượng lao động hiện có và có xu hướng tăng lên hàng năm nhằm giảm thiểu thất nghiệp và tạo thu nhập cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo.
Nói như thế không có nghĩa là chỉ tập trung khai thác mặt lượng của lực lượng lao động mà điều cốt lõi, nhân tố quyết định chính là phải đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực chất chính là tăng cường đầu tư cho giáo dục - đào tạo. Giải pháp trước mắt đó là nâng cao trình độ văn hoá và trình độ nhận thức cho người lao động. Phấn đấu hoàn thành chiến lược phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010, tiếp tục nâng cao chất lượng phổ cập tiểu học, tiến tới thực thi chiến lược phổ cập trung học phổ thông. Từng bước xây dựng và hoàn thiện các cơ sở dạy nghề hiện có theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá. Cùng với đó, cần tiếp tục đổi mới và chuẩn hoá nội dung, chương trình đào tạo, giáo trình của các cơ sở đào tạo để tăng tính thực tiễn, sát với thực tế VN, theo kịp tiến bộ khoa học kỹ thuật trên thế giới, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong nước và thế giới. Chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý trong các cơ sở đào tạo cũng cần được nâng cao trên tất cả các mặt như phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học.
Nhà nước có chính sách thiết thực khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm, có trình độ quản lý thành lập cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài để đào tạo người lao động. Trong đó chú trọng hướng các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án thuộc các lĩnh vực: đào tạo nghề, phát triển khoa học công nghệ, giáo dục đại học và sau đại học,… Các lĩnh vực này có khả năng tạo lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư, đồng thời cần phát triển nhanh để đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu CNH – HĐH đất nước. Bên cạnh đó, tăng cường vận động ODA cho giáo dục ở mọi cấp học, ưu tiên cho cấp phổ cập, dành một tỷ lệ thích đáng vốn ODA (kể cả đi vay ưu đãi) đầu tư xây dựng đồng bộ hệ thống trường đại học, cao đẳng, dạy nghề ở cả 3 miền Bắc, Trung và Nam.
Vì việc đầu tư này cần đến tiền và thời gian nên sự biến chuyển về chất chỉ có thể diễn ra dần dần, cùng với quá trình tích lũy cho đầu tư của nhà nước và cá nhân, không thể hy vọng và không nên cưỡng bức quá trình này diễn ra theo kiểu đốt cháy giai đoạn, “đại nhảy vọt”. Mọi thứ đều có liên quan với nhau trong một khuôn khổ có hạn các nguồn lực, nên, ví dụ, dồn sức cho đào tạo giáo dục trong khi cắt giảm chi tiêu cho những mục tiêu quan trọng không kém khác như phát triển hạ tầng, phát triển công nghiệp phụ trợ, nâng cao năng lực điều hành kinh tế của Chính phủ và các công ty v.v... thì rốt cuộc một lực lượng lao động với trình độ cao cũng không dẫn đến tăng trưởng cao và bền vững vì bị trói buộc bởi, ví dụ, một cơ sở hạ tầng kém phát triển, một công nghiệp phụ trợ què quặt v.v.
Một khi lợi thế so sánh đã thay đổi, và Việt Nam trở nên kém cạnh tranh hơn trên mặt chi phí lao động giản đơn nhưng lại trở nên cạnh tranh hơn nhờ có một lực lượng lao động có trình độ cao hơn và thể chất tốt hơn thì tự khắc Việt Nam sẽ trở thành điểm đến cho dòng vốn đầu tư nước ngoài hướng đến các phân đoạn giá trị gia tăng cao hơn, tất nhiên vẫn phải có sự phối hợp của lợi thế địa chính trị và với điều kiện Chính phủ vẫn duy trì được n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bình luận về mô hình phát triển của Việt Nam trong thời kỳ qua dưới góc độ vai trò của các yếu tố đầu vào đối với tăng trưởng và đưa ra khuyến nghị đố.doc