Đề tài Các lý luận cơ bản trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển

MỤC LỤC.

 

LỜI MỞ ĐẦU 2

I. Giới thiệu chung về nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập

khẩu (XNK) vận chuyển bằng đường biển. 4

1. Sự ra đời và phát triển. 4

2. Đặc điểm của hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển

và sự cần thiết phải bảo hiểm. 5

II. Rủi ro và tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa XNK

vận chuyển bằng đường biển. 6

1. Rủi ro trong bảo hiểm hàng hóa XNK. 6

2. Tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa XNK. 10

III. Trách nhiệm của các bên liên quan trong quá trình vận

chuyển hàng hóa XNK bằng đường biển. 14

1. Trách nhiệm của người bán hàng hóa (người xuất khẩu). 14

2. Trách nhiệm của người mua (người nhập khẩu). 15

3. Trách nhiệm của người chuyên chở. 16

4. Trách nhiệm của người mua bảo hiểm. 16

5. Trách nhiệm của người bảo hiểm. 17

IV. Điều khoản bảo hiểm hàng hóa. 18

1. Điều khoản bảo hiểm C (ICC C). 18

2. Điều khoản bảo hiểm B (ICC B). 18

3. Điều khoản bảo hiểm A (ICC A). 18

4. Điều khoản bảo hiểm chiến tranh. 18

5. Điều khoản bảo hiểm đình công. 19

V. Hợp đồng bảo hiểm. 19

VI. Một số vấn đề về bảo hiểm hàng hóa XNK ở Việt Nam. 21

KẾT LUẬN. 25

 

 

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2728 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các lý luận cơ bản trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g hóa xuống biển Là hành động ném hàng hóa xuống biển để làm nhẹ tàu làm cân đối tàu, hay cứu tàu khi bị nguy cơ đe dọa thực sự đến hành trình. Vứt hàng xuống biển thuộc trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm. Tuy nhiên vứt những hàng hóa bị hư hỏng (do nội tỳ, thời tiết xấu... là ảnh hưởng đến chất lượng hàng hóa) thì không thuộc phạm vi được bồi thường. -Mất cắp, giao thiếu hàng. Mất cắp là hiện tượng hàng bị mất nguyên kiện hoặc bị cậy phá bao bì để lấy hàng hóa bên trong. Giao thiếu hàng hoặc không giao hàng là hiện tượng hàng không được giao tại cảng đến và không rõ nguyên nhân. Việc xác định hàng bị mất cắp hay giao thiếu hàng là rất khó nên công ty bảo hiểm bồi thường cho cả 2 loại rủi ro này. Nếu giao thiếu hàng do hàng bị rách, vỡ, kém phẩm chất vì không chịu đựng được trong quá trình vận chuyển thì nhà bảo hiểm không bồi thường. Loại 2: Rủi ro phụ Rủi ro phụ là những rủi ro có thể phát sinh chủ yếu đối với hàng hóa vận chuyển. Rủi ro này thông thường được bảo hiểm ở điều kiện mọi rủi ro. Hư hại xảy ra mà nguyên nhân là một sơ xuất nào đó không là lỗi của người được bảo hiểm thì thuộc rủi ro đưọc bảo hiểm. Nếu hư hại gây nên do bản thân hàng hóa, tự hàng hóa bị hỏng thì thuộc rủi ro loại trừ. Rủi ro phụ bao gồm các rủi ro sau: - Hấp hơi là hiện tượng hơ nước thoát ra từ hàng hóa làm hàng hóa bị ẩm mốc, hư hỏng. - Nóng là hiện tượng hàng hóa bị nóng lên do ảnh hưởng từ hàng hóa khác hay bị ảnh hưởng từ buồng ót của tàu (xếp hàng gần khoang máy tàu). Hiện tượng nóng làm hàng hóa bị hư hỏng nhất là đối với hàng hóa tươi sống, lương thực thực phẩm hoặc hàng đông lạnh. - Lây hại là hiện tượng hàng hóa bị mất mùi, biến chất khi người ta xếp những hàng hóa này lây hại sang hàng hóa khác. Cũng có trường hợp hàng hóa bị lây hại từ phương tiện vận chuyển. - Lây bẩn là hiện tượng hàng hóa bị làm bẩn dẫn đến kém phẩm chất. Nhà bảo hiểm chỉ bồi thường hàng hóa bị lây bẩn từ bên ngoài vào trong, còn không bồi thường trường hợp hàng hóa bị lây bẩn từ bên trong ra ngoài do nội tỳ của hàng hóa. - Rỉ là hiện tượng hàng hóa bằng kim loại bị hoen rỉ do nước mưa, nước biển, hơi axit hoặc từ rủi ro được bảo hiểm khác đem lại. Nếu hàng hóa bị hoen rỉ do điều kiện tự nhiên như do thời tiết nóng, ẩm... thì không được bảo hiểm. - Móc cẩu Trong quá trình bốc dỡ hàng hóa móc của cẩn cẩu làm hàng hóa bị vỡ bao bì và dẫn đến hàng hóa bên trong bị vỡ, hỏng gây thiếu hụt hàng hóa. Rủi ro do móc cẩu gây ra thường lẫn với rủi ro mất cắp. Ví dụ: trước một bao gạo bị rách vỡ thì khó có thể phân biệt được là do móc cẩu hay do hành động của kẻ cắp gây nên. Vì vậy, rủi ro móc cẩu được bảo hiểm tùy thuộc vào loại mặt hàng bao bì và tùy từng trường hợp cụ thể. Ngoài ra còn một số rủi ro phụ khác như cong, bẹp, va đập... Loại 3: Rủi ro riêng Là những rủi ro không được bảo hiểm với điều kiện bảo hiểm thông thường trừ khi người được bảo hiểm chấp nhận tham gia thêm rủi ro nay. Phí bảo hiểm loại này thường rất cao. - Rủi ro chiến tranh Là hậu quả của những biến động xã hội, chính trị dùng bạo lực để trấn áp, có hành động đối địch, thù địch lẫn nhau. Nhà bảo hiểm chịu trách nhiệm về những hậu quả do hành động đối địch có tính chất chiến tranh dù có tuyên bố hay không tuyên bố xảy ra. Rủi ro chiến tranh bao gồm: nội chiến, nổi loạn, khởi nghĩa, bạo động, phiến loạn, chiếm giữ, bắt giữ, tịch thu hàng hóa, bị trúng mìn, thuỷ lôi, bom, đạn,... Trách nhiệm của bảo hiểm chiến tranh được giới hạn trong phạm vi “trên mặt nước” tức là bắt đầu từ khi xếp hàng lên tàu đến khi rời lô hàng cuối cùng. Những tổn thất được bảo hiểm phải là hậu quả trực tiếp của chiến tranh. - Rủi ro đình công Là rủi ro do người đình công phá hủy hàng hóa hay do công nhân đình công mà hàng hóa không có người khuân vác, để lâu ngày bị hư hỏng. Rủi ro đình công bao gồm: Đình công, bạo động, nổi loạn dân sự. Thời gian hiệu lực của bảo hiểm đình công là 30 ngày sau khi dỡ lô hàng cuối cùng tại bến đến ra khỏi phương tiện chuyên chở, hoặc nếu chưa hết thời hạn này mà hàng đã được đưa đến kho của người mua. Loại 4: Rủi ro loại trừ. Rủi ro loại trừ là những rủi ro không được bảo hiểm đối với bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển đường biển. Rủi ro loại trừ bao gồm các rủi ro chủ yếu sau: - Lỗi của người được bảo hiểm: Đó là những sơ xuất, sai lầm hay sự thiếu trung thực của người được bảo hiểm đối với hàng hóa. - Nội tỳ của hàng hóa là những hư hại mang tính chất của hàng hóa như gạo bị mọt, hoa quả bị thối... - Hành vi buôn lậu của chủ hàng, chủ tàu thuyền trưởng, thuỷ thủ. Đây là hành vi buôn bán hàng cấm, hàng không có giấy phép theo luật lệ của nươc xuất, nhập hoặc buôn bán lén lút, gian lận nhằm trốn thúê... - Mất thị trường, sụt giá, chênh lệch tỉ giá hối đoái. Xảy ra rủi ro này khi thị trường tiêu thụ bị mất, hàng không bán được, hàng hóa bị giảm giá do thị hiếu và thời vụ thay đổi. Chủ hàng mất khả năng tài chính. Đây là rủi ro do chủ tàu không đáp ứng được những nhu cầu chi tiêu bất thường trong quá trình vận chuyển. Tàu đi chệch hướng là trường hợp tàu không đi đúng hành trình qui định không vì nguyên nhân cứu nạn, lánh nạn, tránh gặp rủi ro... dẫn đến hàng hóa bị tổn thất do chậm giao hàng, không giao được hàng... Hao hụt tự nhiên, hao hụt thương mại của hàng hóa. Một số loại hàng rời và hàng lỏng thường bị hao hụt trong quá trình chuyên chở như rơi vãi, bay hơi Chậm trễ hành trình là sự kéo dài thời gian hành trình so với hành trình bình thường không phải vì lý do cứu nạn, lánh nạn, dẫn đến tổn thất cho đối tượng bảo hiểm như hư hỏng hàng hóa nông sản phẩm, vật tươi sống... hoặc bị mất thị trường vào thời điểm tiêu thụ tốt. Ví dụ: tàu chậm trễ hành trình nên lô hàng đưa về để phục vụ tết không kịp làm mất thời điểm tiêu thụ tốt và hàng hóa bị sụt giá. Tàu, sà lan không đủ khả năng đi biển hoặc không đảm bảo an toàn chuyên chở hàng hóa. Tài sản bị bắt, tịch thu, cầm giữ, câu thúc, câu lưu. 2. Tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển đường biển Tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển đường biển là những thiệt hại, hư hỏng, mất mát của hàng hóa được bảo hiểm do rủi ro gây ra. Nếu rủi ro là nguyên nhân gây ra tổn thất thì tổn thất là cái đã xảy ra rồi và là hậu quả của rủi ro. Trong bảo hiểm, người bảo hiểm chỉ bồi thường tổn thất chứ không bồi thường rủi ro. Tổn thất muốn được bồi thường thì phải do những rủi ro đã thỏa thuận gây nên. Trong bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển đường biển người ta chi tổn thất làm nhiều loại. 2.1. Căn cứ vào mức độ và qui mô của tổn thất, tổn thất được chia làm hai loại. Loại 1: Tổn thất bộ phận. Tổn thất bộ phận là sự mất mát, hư hại hoặc giảm giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa được bảo hiểm nhưng sự hư hỏng ấy chưa ở mức độ hoàn toàn. Ví dụ: Một lô hàng bảo hiểm gồm 1000 tấm thảm, bị hư hại 100 tấm do cháy trong khi vận chuyển, hay lô hàng bảo hiểm 1000 bao xi măng bị ướt 100 bao... Các dạng cụ thể của tổn thất bộ phận có thể là: - Tổn thất toàn bộ một phần hàng hóa. Ví dụ: lô hàng có 10 kiện kính bị vỡ 3 kiện. - Giảm một phần hoặc toàn bộ giá trị của hàng hóa được bảo hiểm. Ví dụ: Gạo bị ngấm nước phải làm thức ăn cho gia súc. - Giảm về trọng lượng do bao bì rách vỡ làm thiếu hụt hàng. - Giảm về số lượng, số bao, kiện, thùng, hòm do bị người bán giao thiếu hoặc do nước cuốn trôi. - Giảm về thể tích. Ví dụ: Rượu, xăng dầu đựng trong thùng phi bị rò, rỉ ra ngoài. Cần phân biệt tổn thất bộ phận với hao hụt tự nhiên của hàng hóa về trọng lượng. Bảo hiểm không bồi thường hao hụt tự nhiên. Với những hàng hóa có hao hụt tự nhiên, người ta đề ra mức miễn đền có khấu trừ để loại trừ các hao hụt tự nhiên ra khỏi tổn thất được bồi thường. Loại 2: Tổn thất toàn bộ. Tổn thất toàn bộ là toàn bộ hàng hóa được bảo hiểm theo một hợp đồng bị hư hỏng, mất mát, thiệt hại, không còn khả năng lấy lại được. Ví dụ: hàng bị mất do tàu bị đắm hoặc bị mất tích... Có 2 loại tổn thất toàn bộ là tổn thất toàn bộ thực tế và tổn thất toàn bọ ước tính. Tổn thất toàn bộ thực tế: Là hàng hóa được bảo hiểm bị hư hỏng, mất mát, thiệt hại hoặc bị biến chất, biến dạng không còn là vật phẩm như cũ hay người được bảo hiểm bị tước hẳn quyền sở hữu đối với hàng hóa. Trường hợp hàng hóa được coi là tổn thất toàn bộ thực tế khi: Hàng bị cháy, nổ, hàng chở trên tàu bị đắm. Hàng không có khả năng lấy lại được nữa như trường hợp hàng rơi xuống biển, bị chiếm giữ, bị tước đoạt... Hàng bị mất hoàn toàn giá trị sử dụng. Ví dụ: Xi măng ngấm nước. Hàng chở trên tàu mất tích. Một tổn thất là tổn thất toàn bộ thực tế thì người được bảo hiểm sẽ nhận được toàn bộ giá trị bảo hiểm hoặc số tiền bảo hiểm. Tổn thất toàn bộ ước tính: Là hàng hóa bảo hiểm bị thiệt hại, mất mát chưa tới mức độ tổn thất toàn bộ toàn bộ thực tế, nhưng không tránh khỏi tổn thất toàn bộ thực tế; hoặc nếu bỏ thêm chi phí để cứu chữa, khôi phục lại thì chi phí cứu chứa có thể bằng hoặc lớn hơn giá trị bảo hiểm. Ví dụ về dạng tổn thất mà chi phí lấy lại hàng cao hơn giá trị: Tàu chở sắt thép trên hành trình gặp tai nạn nên phải tạm dựng để sửa chữa. Các chi phí dỡ, lưu kho, bốc hàng chở tiếp... lớn hơn giá trị ban đầu của lô hàng. Khi xảy ra tổn thất toàn bộ ước tính, người được bảo hiểm có thể được bồi thường toàn bộ néu họ từ bỏ đối tượng bảo hiểm tức là từ bỏ hàng hóa. Đó là sự từ bỏ mọi quyền lợi của mình đối với hàng hóa cho người được bảo hiểm để đòi người bảo hiểm bồi thường toàn bộ. - Việc từ bỏ hàng được thực hiện thông qua các bước: - Thông báo cho người bảo hiểm biết về tình trạng tổn thất toàn bộ ước tính. - Tuyên bố từ bỏ hàng bằng văn bản, gửi cho người bảo hiểm. - Chỉ từ bỏ hàng khi hàng hóa còn ở dọc đường và chưa tổn thất toàn bộ thực tế. - Khi từ bỏ hàng được chấp nhận thì không thay đổi được nữa. Nếu hàng hóa đã bị tổn thất toàn bộ thực tế hay người bảo hiểm nhận được thôn g báo về tình trạng tổn thất quá chậm tài sản đã bị tổn thất toàn bộ thực tế thì không cần gửi thông báo từ bỏ. 2.2. Căn cứ vào trách nhiệm đối với tổn thất. Tổn thất được chia thành 2 loại. Loại 1: Tổn thất riêng. Là tổn thất chỉ gây ra thiệt hại cho một hoặc một số quyền lợi của các chủ hàng và chủ con tàu chuyên chở do những rủi ro được bảo hiểm gây nên. Nên tổn thất riêng chỉ liên quan đến từng quyền lợi riêng biệt, tổn thất của ai thì người đó tự chịu trách nhiệm. Ví dụ: Tàu bị đắm do bão lớn, tổn thất của tàu là tổn thất riêng của tàu, tổn thất về hàng là tổn thất riêng của chủ hàng. Khi xảy ra tổn thất riêng ngoài thiệt hại về vất chất còn phát sinh những chi phí liên quan nhằm hạn chế tổn thất. Đó là những chi phí bảo quản hàng để giảm bớt hoặc để hàng hóa khỏi hư hỏng thêm, bao gồm chi phí xếp dỡ, gửi hàng, đóng gói lại, thay thế bao bì... ở bến khởi hành và dọc đường. Tổn thất riêng có thể là tổn thất toàn bộ hay bộ phận, có thể hư hỏng về phẩm chất hay thiếu hụt về mặt trọng lượng, số lượng. Tổn thất riêng khác với các tổn thất khác là do: Tổn thất riêng xảy ra một cách ngẫu nhiên, có thể xảy ra ở bất kỳ đâu chứ không chỉ ở trên biển. Tổn thất của người nào thì người đó chiụu mà không có sự đóng góp giữa các bên. Ví dụ: tổn thất riêng thuộc trách nhiệm người bảo hiểm, người bảo hiểm phải bồi thường. Tổn thất riêng vừa thuộc trách nhiệm người bảo hiểm và người chuyên chở thì người bảo hiểm phải bồi thường cho chủ hàng, sau đó thế quyền đòi lại người chuyên chở. Nếu tổn thất riêng không thuộc trách nhiệm của ai cả thì chủ hàng phải tự gánh chịu. Tổn thất riêng có được người bảo hiểm bồi thường hay không phụ thuộc vào rủi ro đó có được thoả thuận trong hợp đồng không. Loại 2: Tổn thất chung. Là những thiệt hại xảy ra do những chi phí hoặc hi sinh đặc biệt được tiến hành một cách hữu ý và hợp lý nhằm mục đích cứu tàu và hàng hóa chở trên tàu. Người bảo hiểm có trách nhiệm về sự hi sinh tổn thất chung đối với một phần hoặc toàn bộ tài sản được bảo hiểm và cả về sự đóng góp tổn thất chung mà người được bảo hiểm có thể phải đóng góp cho hàng hóa của họ, bao gồm mọi chi phí tổn thất chung trong chuyến đi. Để xác định tổn thất chung người ta dựa vào các nguyên tắc sau: Thứ nhất : Phải có nguy cơ đe dọa thực sự cho toàn bộ hành trình, sự hi sinh tổn thất chung phải ở trong điều kiện bất thường. Tai hoạ đe dọa phả mang tính cấp bách, hành động hi sinh tổn thất chung nhằm tránh tai họa chung nhưng phải ở trong tình trạng thực sự có tai họa và tai họa có tính khẩn cấp. Tai họa phải đe dọa toàn bộ tàu và hàng. Vì vậy phải hy sinh quyền lợi cục bộ của một số người (chủ tàu và hàng) để cứu vãn các quyền lợi còn lạ. Điều kiện bất thường còn có ý nghĩa là ngoài nhiệm vụ chức trách của thủy thủ đoàn. Thứ hai : Phải là hành động hy sinh tự nguyện, cố ý, có dụng ý của con người trên tàu. Hành vi hy sinh tổn thất chung phải là tự nguyện chứ không phải là tàu không thể tránh được. Ví dụ để tránh nguy hiểm chung do gặp bão lớn, thuyền trưởng tự giác đưa tàu vào cạn. Hành động hy sinh bao hàm một mục đích cao cả chịu thiệt thòi về phần mình, cứu vãn đem lại quyền lợi chung trong một tình thế nguy cấp đòi hỏi. Thứ ba : Sự hy sinh tài sản và các chi phí bỏ ra phải hợp lý. Tài sản hy sinh phải là tài sản nguyên lành. Không thể vì nguy cơ đe dọa mà thủy thủ đoàn muốn hy sinh tài sản và chi phí bao nhiêu cũng được. Thứ tư : Hành vi hy sinh tổn thất chung phải là vì an toàn chung và các quyền lợi trên tàu. Nguyên tắc này thể hiện ý chí của sự hy sinh. Mục đích và dụng ý của sự hy sinh phải đặt quyền lợi an toàn chung lên trên hết và phải đem lại an toàn chung cho tất cả các quyền lợi trên tàu. Thứ năm : Tai họa phải thực sự xảy ra và nghiêm trọng. Thứ sáu : Tai nạn phải xảy ra trên biển. Tổn thất chung bao gồm hai bộ phận chủ yếu đó là hy sinh tổn thất chung và chi phí tổn thất chung. * Hy sing tổn thất chung là những thiệt hại hoặc chi phi do hậu quả trực tiếp của một hành động tổn thất chung. Ví dụ: Tàu chở 100 kiện hàng, gặp bão lớn phải vứt bỏ 30 kiện xuống biển để tàu nhẹ bớt, chạy thoát ra khỏi vùng có bão. 30 kiện bị vứt xuống biển là hy sinh tổn thất chung. Hoặc tàu bị mắc cạn, để tàu ra khỏi chỗ cạn đó phải thúc máy nồi hơi làm nồi hơi bị nổ, thiệt hại về nồi hơi là hy sinh tổn thất chung. * Chi phí tổn thất chung là những chi phí phải trả cho người thứ ba trong việc cứu tàu, hàng, cước phí cứu nạn... Chi phí tổn thất chung bao gồm: - Chi phí cứu nạn. - Chi phí tàu ra vào cảng lánh nạn. - Chi phí bốc dỡ hàng tại cảng lánh nạn. - Chi phí tạm thời sửa chữa những hư hại của tàu. - Chi phí tăng thêm về lương, nhiên liệu... iii. trách nhiệm của các bên liên quan trong quá trình vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển. Do đặc điểm của hàng hóa xuất nhập khẩu là thường được vận chuyển bằng đường biển từ nước này sang nước khác tức là từ người bán (người xuất khẩu) tới người mua (người nhập khẩu). Việc chuyên chở hàng hóa là nghĩa vụ đồng thời là quyền lợi của mỗi bên - người bán và người mua. Thông thường người bán hay người mua hàng hóa không trực tiếp vận chuyển mà phải thuê một người thứ ba đó là người chuyên chở. Mặt khác vận chuyển đường biển thường gặp nhiều rủi ro dẫn đến tổn thất. Mà tổn thất trong bảo hiểm hàng hải nói chung là rất lớn. Do đó bảo hiểm là một bộ phận không thể tách rời trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Trách nhiệm của mỗi bên liên quan trong quá trình vận chuyển hàng hóa đường biển được phân chia rõ ràng. Cụ thể như sau: 1. Trách nhiệm của người bán hàng hóa (người xuất khẩu) Trách nhiệm của người bán phụ thuộc vào điều kiện giao hàng. Theo Incoterms, có 13 điều kiện giao hàng. Trong quá trình giao nhận hàng hóa XNK thì thường áp dụng điều kiện F.O.B, điều kiện C & F và điều kiện C.I.F. Điều kiện giao hàng F.O.B (Free on board): Giao hàng lên tàu do người mua chỉ định tại cảng xếp hàng. Điều kiện giao hàng C & F: (Cost and freight): Cảng đến chỉ định. Điều kiện giao hàng C.I.F: (Cost, insurance, Freight): Cảng đến qui định. ở mỗi điều kiện giao hàng trách nhiệm của người bán cũng có đôi chút khác nhau. Cụ thể người bán có những trách nhiệm sau: Thứ nhất: Cung cấp hàng hóa theo đúng hợp đồng bán hàng về số lượng, chất lượng, loại hàng... Dù áp dụng điều kiện giao hàng nào thì trách nhiệm này là trách nhiệm bắt buộc. Thứ hai: Giao hàng lên tàu. Trách nhiệm của người bán là khác nhau tùy thuộc vào giao hàng theo giá nào. Nếu hàng được giao theo giá F.O.B thì việc thuê tàu vận chuyển, mua bảo hiểm cho hàng hóa là do người mua đảm nhận. Do đó người bán có trách nhiệm gửi hàng lên tàu do bên mua chỉ định, tại cảng chỉ định, trong thời hạn nhất định. Nếu hàng được bán theo giá C.I.F thì người bán có trách nhiệm thuê tàu và mua bảo hiểm. Vì vậy khi đến thời hạn giao hàng người bán phải xếp hàng hóa lên tàu và thanh toán cước vận chuyển lô hàng tới cảng đến đã thỏa thuận. Nếu hàng được bán theo giá C & F thì trách nhiệm của người bán là giống với bán theo giá C.I.F nhưng người bán phải tự mua bảo hiểm cho lô hàng. Thứ ba : Người bán phải chịu mọi phí tổn, rủi ro cho đến khi hàng hóa được xếp lên tàu. Thứ tư : Thanh toán mọi khoản thuế xuất khẩu, các khoản thuế khác và những lệ phí khác phát sinh liên quan đến lô hàng xuất khẩu. Ngoài ra, hàng được giao theo giá F.O.B và C & F thì người bán còn phải chịu các phí tổn đóng gói bao bì, kiểm tra hàng hóa, thanh toán các khoản nợ phát sinh liên quan đến lô hàng tới thời điểm xếp hàng lên tàu. Ngay sau khi giao hàng lên tàu xong, những chi tiết về lô hàng phải được thông báo cho người mua để dùng vào mục đích bảo hiểm. Mặt khác phải cung cấp cho người mua bộ chứng từ gửi hàng hoàn hảo chứng minh việc giao hàng và những chứng từ khác nếu có yêu cầu (giao hàng theo giá F.O.B) hoặc cung cấp cho người mua bộ vận tải đơn đầy đủ và hoàn hảo (giao hàng theo giá C & F). Còn nếu giao hàng theo giá C.I.F thì người mua ngoài việc phải cung cấp bộ vận tải đơn đầy đủ và hoàn hảo còn phải cung cấp hợp đồng bảo hiểm lập theo dạng chuyển quyển để chuyển nhượng quyền lợi bồi thường cho người mua; cung cấp hóa đơn đã được ký tên và những chứng từ khác như chứng thư xuất xứ, bảng kê bao bì đóng gói... nếu người mua yêu cầu; xin cấp giấy phép xuất khẩu hoặc giấy phép của cơ quan cần thiết cho xuất khẩu hàng hóa. 2. Trách nhiệm của người mua (người nhập khẩu) Người mua sau khi nhận được thông báo giao hàng và các chứng từ hóa đơn trên cần làm thủ tục nhập khẩu và có các trách nhiệm như: - Nhận hàng của người chuyên chở theo đúng số lượng, chất lượng đã ghi trong hợp đồng, lấy giấy chứng nhận kiểm đếm, biên bản kiểm toán giao nhận hàng... Chấp nhận thanh toán các chứng từ tượng trưng về lô hàng được lập theo đúng hợp đồng. - Chịu mọi phí tổn và rủi ro ngay khi nhận được thông báo giao hàng và trước khi tàu hành trình. - Thu xếp mua bảo hiểm cho lô hàng (trừ trường hợp giao hàng theo giá C.I.F việc mua bảo hiểm là do người bán) Ngoài ra, nếu giao hàng theo giá F.O.B thì người mua có một số trách nhiệm như: - Trả tiền lô hàng. - Bằng tiền của chính mình thuê hay chỉ định tàu hoặc dành chỗ trên tàu và thông báo cho người bán ngày giao hàng lên tàu, tên tàu chở hàng và chịu trách nhiệm về mọi cước phí vận chuyển phải trả tại nơi đến. Nếu hàng được giao theo giá C.I.F hoặc C & F thì người mua có một số trách nhiệm: - Tiếp nhận hàng hóa tại cảng dỡ hàng đã thỏa thuận và chịu mọi chi phí dỡ hàng bao gồm phí chuyển hàng qua tàu nhỏ và lệ phí bến bãi. - Thanh toán mọi khoản thuế hải quan và những thứ thuế nhập khẩu khác vào thời điểm nhận hàng từ chủ tàu và phải xin phép nhận khẩu nếu hải quan yêu cầu. Nếi sai lệch về số lượng, chất lượng hàng hóa với hợp đồng mua bán, nhưng đúng với hợp đồng vận chuyển thì người mua có quyền khiếu nại với người bán. Nếu phẩm chất, số lượng sai lệch so với biên bản giao hàng thì người mua sẽ căn cứ vào hàng hư hỏng đổ vỡ mà khiếu nại với người vận chuyển. Nếu rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm thì người mua phải mời giám định bảo hiểm. 3. Trách nhiệm của người chuyên chở. Người chuyên chở có thể là chủ tàu hoặc người thuê tàu để chuyên chở hàng hóa. Trách nhiệm của người chuyên chở đối với hàng hóa bắt đầu kể từ khi hàng hóa được xếp lên tàu và kết thúc khi hàng hóa được dỡ khỏi tàu. Người chuyên chở có trách nhiệm: - Cung cấp một con tàu có đủ điều kiện chuyên chở hàng hóa, đủ khả năng đi biển, có tham gia bảo hiểm thân tàu và bảo hiểm trách nhiệm của chủ tàu, trang bị đầy đủ phương tiện, máy móc, nhiên liệu...để đảm bảo trên hành trình con tàu không gặp rủi ro. - Cấp vận đơn bảo hiểm theo yêu cầu của người gửi hàng. Người chuyên chở phải tiến hành một cách thích hợp các hoạt động liên quan đến chuyên chở như xếp hàng đúng kỹ thuật, đúng vị trí, cẩn thận trong bốc, xếp hàng... không làm tròn các trách nhiệm này dẫn đến tổn thất xảy ra thì phải bồi thường cho chủ hàng. Người chuyên chở sẽ phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do hàng bị mất mát hư hỏng hoặc giao chậm hàng... trong khi hàng hóa đang chịu trách nhiệm của, trừ trường hợp họ chứng minh được rằng họ đã áp dụng những biện pháp hợp lý để tránh sự cố đó. Tại cảng dỡ hàng khi có tổn thất của hàng hóa hay có điều nghi ngại về hàng hóa có thể bị hư hỏng tổn thất thì phải ghi nhận xét của mình lên vận tải đơn để thoát trách. Nếu người khiếu nại được tổn thất thuộc trách nhiệm của người chuyên chở như chứng minh được tàu không đủ khả năng đi biển... thì người chuyên chở phải bồi thường cho chủ hàng. 4. Trách nhiệm của người mua bảo hiểm(cũng là người được bảo hiểm) Người mua bảo hiểm chính là người được các công ty bảo hiểm (hay chính là người bảo hiểm) bồi thường cho những rủi ro, tổn thất xảy ra trong quá trình vận chuyển hàng hóa XNK đường biển (Những rủi ro này thuộc phạm vi bảo hiểm) Tùy từng điều kiện giao hàng mà người mua bảo hiểm có thể là ngườ xuất hay người nhập khẩu. Nếu hàng được giao theo giá C.I.F thì người xuất khẩu là người, còn nếu hàng được giao theo giá F.O.B hay C & F thì việc mua bảo hiểm là của người nhập khẩu. Khi có nhu cầu mua bảo hiểm thì họ phải có làm giấy yêu cầu bảo hiểm trong đó ghi rõ: - Tên người được bảo hiểm - Tên hàng hóa được bảo hiểm - Loại bao bì, cách đóng gói và ký mã hiệu của hàng hóa - Trọng lượng, số lượng hàng hóa được bảo hiểm - Tên tàu hay phương tiện chuyên chở. - Cách sắp xếp hàng hóa trên tàu (dười khoang hay trên boong) - Hành trình vận chuyển (nơi đi, nơi đến, nơi truyền tải) - Ngày tàu khởi hành và dự kiến ngày đến. - Điều kiện bảo hiểm - Nơi giải quyết khiếu nại. Việc kê khai này phải đúng, chính xác. Nếu có sự thay đổi nào về những thông tin đã cung cấp liên quan đến được bảo hiểm thì người được bảo hiểm phải có trách nhiệm cho người bảo hiểm biết ngay. Sau đó người mua bảo hiểm có trách nhiệm thanh toán phí bảo hiểm cho người bảo hiểm ngay khi nhận được đơn hay giấy chứng nhận bảo hiểm. Nếu hàng hóa được theo giá F.O.B hay C&F thì ngay khi nhận được thông báo giao hàng của người bán thì người nhập khẩu phải làm thủ tục mua bảo hiểm ngay cho lô hàng đó, còn nếu giao hàng theo giá C.I.F thì trước hoặc ngay khi hàng được xếp lên tàu người xuất khẩu sẽ mua bảo hiểm cho lô hàng và chuyển quyền đòi bồi thường cho người nhập khẩu hàng hóa. Trường hợp xảy ra tổn thất thì người được bảo hiểm phải áp dụng các biện pháp hợp lý nhằm ngăn ngừa giảm nhẹ tổn thất. Nếu tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm thì người đượcc bảo hiểm phảI có trách nhiệm làm các thủ tục để đòi bồi thường. Cụ thể làm các việc sau: - Thông báo tổn thất ngay cho người bảo hiểm hoặc đại lý của họ để họ giám định tổn thất. - Làm các thủ tục cần thiết để bảo lưu quyền đòi bồi thường đối với người chuyên chở hay người thứ ba khác đối với những tổn thất, mất mát hàng hóa trong tai nạn đó. - Cứu chữa hàng hóa. 5. Trách nhiệm của người bảo hiểm. Trách nhiệm bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực từ khi hàng hóa được bảo hiểm xếp lên phương tiện chuyên chở tại điểm xuất phát ghi trong hợp đồng bảo hiểm để bắt đầu vận chuyển, tiếp tục có hiệu lực trong suốt quá trình vận chuyển bình thường và kết thúc vào lúc hàng hóa được dỡ khỏi phương tiện chuyên chở tạI nơI đến ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Người bảo hiểm sẽ cấp đơn cho người mua bảo hiểm sau khi đã thu phí bảo hiểm, kiểm tra các chứng từ xem người mua bảo hiểm khai trong các thủ tục có đúng không... Khi xảy ra tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm người bảo hiểm có trách nhiệm tiến hành giám định, bồi thường tổn thất của hàng hóa và đòi người thứ ba nếu họ gây ra tổn thất này. người bảo hiểm phải làm công tác bồi thường theo đúng nguyên tắc chính xác, kịp thời, khách quan và trung thực. iv. đIều khoản bảo hiểm hàng hóa. Trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa XNK vận chuyển bằng đường biển, hiện nay các công ty bảo hiểm trên thế giới thường áp dụng các điều kiện bảo hiểm của Anh (ra đời ngày 1/1/1982 và có hiệu lực ngày 1/4/1983 của viện những người bảo hiểm Luân Đôn. Bao gồm: 1. Điều kiện bảo hiểm C (ICC C) Theo điều kiện này thì người bảo hiểm chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại do những rủi ro sau: - Bị mất cắp hàng hóa, cháy, nổ, mắc cạn, đâm va, chìm đắm - Đóng góp vào tổn thất chung. - Phần thiệt hại của người được bảo hiểm khi 2 tàu đâm va và cùng có lỗi. Những trường hợp sau người bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường. - Hành động xấu, cố ý của người được

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc229.doc
Tài liệu liên quan