Đề tài Các nguyên nhân của sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Nhật Bản giai đoạn 1952 - 1973

Từ năm 1955 đến 1973, Nhà nước đã thông qua 7 kế hoạch, đa số là kế hoạch 5 năm, nhưng thời gian thực hiện trung bình là hai năm rưỡi vì các dự kiến kế hoạch đều thấp hơn mức tăng trưởng thực tế. Các kế hoạch kinh tế đều có ba nội dung cơ bản: phương hướng kinh tế xã hội phương hướng chính sách của chính phủ nhằm thực hiện các mục tiêu trên, những chỉ dẫn hoạt động cho các cơ sở kinh doanh, các ngành công nghiệp. Bộ công nghiệp và thương mại quốc tế (MITI) và Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) có vị trí quan trọng trong việc phát huy vai trò của Nhà nước đối với phát triển kinh tế. Thông qua các hệ thống này, các chính sách về tài chính, tiền tệ, đối ngoại của Nhà nước được thực thi có hiệu quả.

 

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2295 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các nguyên nhân của sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Nhật Bản giai đoạn 1952 - 1973, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp chế tạo đã tăng thêm 6 điểm phần trăm chỉ trong nvòng 5 năm. Trong thời gian này khối lượng xuất khẩu của Nhật Bản tăng vọt, trong đó tỷ trọng hàng công nghiệp nặng và hoá chất tăng thêm 10 điểm % từ 62,4% năm 1965 lên 73% năm 1970. Điều này có thể nói cũng là do sự tăng mạnh tỷ trọng xuất khẩu của sản phẩm công nghiệp cơ khí, năm 1965: 35,4%; năm 1970: 46,6%. Chúng ta đều biết rằng Nhật Bản hầu như không có mỏ dầu nhưng đã đứng đầu các nước tư bản về nhập và chế biến dầu tho, riêng năm 1971 đã nhập tới 186 triệu tấn dầu tho; công nghiệp sản xuất thép năm 1950 là 4,8 triệu tấn. Năm 1960, công nghiệp ô tô Nhật Bản còn đứng hàng thứ sau trong thế giới tư bản, đến năm 1967 vươn lên ngang hàng thứ hai sau Mỹ. Năm 1968, Nhật Bản sản xuất được 2 triệu ô tô. Công nghệp đóng tàu đến những năm 70 chiếm trên 50% tổng số tàu biển và có sau trong mười nhà máy đóng tàu lớn nhất thế giới tư bản. Ngành nông nghiệp tuy tỉ trọng trong tổng sản phẩm quốc dân giảm, nhưng sản lượng và năng suất lao động lại tăng nhanh. Lao động nông nghiệp giảm từ 14,5 triệu năm 1960 xuống còn 8,9 triệu năm 1969. Tổng giá trị sản lượng nông, lâm, ngư nghiệp năm 1969 là 9 tỷ USD. Hơn nữa cuộc cải cách ruộng rất được tiến hành dưới sự chiếm đống của quân đội Mỹ đã làm biến đổi một cách căn bản chế độ sở hữu nửa phong kiến trong nền công nghiệp Nhật Bản trước chiến tranh. Cuộc cải cách này đã giải phóng người nông dân Nhật Bản khỏi chế độ địa chủ, biến họ trở thành người tự do thực hiện sản xuất nông nghiệp trên mảnh đất thuộc quyền sở hữu của mình. Và từ đó đời sống của người nông dân được nâng lên. Giao thông vận tải, nhất là phương tiện vận chuyển ăng nhanh. Đến đầu thập kỷ 70, Nhật Bản đứng đầu các nước tư bản về vận tải đường biển. Còn một vấn đề mà chúng ta không thể nói đến, đó là ngoại thương. Ngoại thương được coi là nhịp thở của nền kinh tế Nhật Bản. Từ năm 1950 đến năm 1971 kim ngạch ngoại thương tăng 25 lần từ 17 tỷ USD lên 43,6 tỷ USD. Trong đó xuất khẩu tưng 30, nhập khẩu tăng 21 lần. III. Các nguyên nhân của sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Nhật Bản giai đoạn 1952 - 1973 Thứ nhất, phát huy vai trò nhân tố con người Trước hết, phải nói rằng chế độ giáo dục ở Nhật Bản khá phát triển và hoàn thiện. Kế thừa nền giáo dục của thời kỳ trước, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã phổ cập giáo dục hệ 9 năm. Trên cơ sở trình độ văn hoá chung khá cao đó, người Nhật Bản rất chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, có đủ khả năng nắm bắt và sử dụng những kỹ thuật, công nghệ mới. Công nhân được đào tạo không chỉ trong các trường dạy nghề mà có thể đào tạo ngay tại các xí nghiệp. Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật của Nhật Bản khá đông đảo, có chất lượng cao đã góp phần đắc lực vào bước phát triển nhảy vọt về kỹ thuật và công nghệ của đất nước. Giới quản lý và kinh doanh của Nhật Bản được đánh giá là những người sắc xảo, nhạy bén trong việc nắm bắt thị trường, đổi mới phương pháp kinh doanh, đem lại thẳng lợi cho các Công ty Nhật Bản trên thị trường quốc tế. Từ lâu, người Nhật được giáo dục theo những luân lý của đoạn khổng. Trong thời kỳ hiện đại, những đức tính cần kiệm, kiên trì, lòng trung thành, tính phục tùng… vẫn được đề cao. Những tinh hoa văn hoá của quá khứ được tôn trọng và kế thừa nền tảng để người Nhật nắm bắt những tri thức mới của thời đại. Do đó, giới quản lý đã đặc biệt thành công trong việc củng cố kỷ luật lao động, lợi dụng và khai thác sự tận tụy và trung thành của người lao động. Các Công ty của Nhật Bản thường được bao trùm bởi một bầu không khí thấm đậm tình " gia tộc" "gia đình" không ít nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng sự thành công trong phát triển kinh tế của Nhật Bản là kết quả của sự thành công trong phát triển kinh tế của Nhật Bản là kết quả của sự kết hợp khéo léo giữa "công nghệ phươngTây" và "tính cách Nhật Bản". Thứ hai, duy trì mức tích luỹ cao thường xuyên, sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả cao. Tích luỹ vốn Nhật Bản thời kỳ này được coi là một nước có tỷ lệ tích luỹ vốn cao nhất trong các nước tư bản phát triển. Tỷ lệ tích luỹ vốn thường xuyên của thời kỳ 1952 - 1973 vào khoảng từ 30 đến 30% thu nhập quốc dân, gấp hơn hai lần so với Mỹ, Anh. Trong đó, tỷ lệ đầu tư vào tư bản cố định trong tổng sản phẩm xã hội của Nhật Bản cao hơn tất cả. Năm 1966, tổng số vốn đầu tư vào tư bản cố định của Nhật Bản là 30,6 tỷ USD. Đây là một trong những nhân tố bảo đảm cho nền kinh tế Nhật Bản phát triển với tốc độ cao. Những giải pháp duy trì mức tích luỹ cao của Nhật Bản là: + Tận dụng triệt để nguồn lao động trong nước, áp dụng chế độ tiền lương thấp. Tiền lương công nhân Nhật Bản những năm 50,60 rất thấp so với các nước tư bản phát triển. Trong các xí nghiệp lớn của ngành công nghiệp chế biến ở Nhật Bản, tiền lương công nhân chỉ bằng 1/3 tiền lương của công nhân anh và 1/7 tiền lương công nhân Mỹ. Tư bản độc quyền Nhật Bản một mặt lợi dụng mức sống thấp của nhân dân và tình trạng thất nghiệp sau chiến tranh, mặt khác tuyên truyền cho "lối sống" cổ truyền. Bằng phương pháp quản lý tinh vi, chế độ thuê mướn suốt đời kết hợp với các hình thức thuê mướn khác, các ông chủ đã buộc công nhân phải tận tâm, trung bình với xí nghiệp, vì quyền lợi của xí nghiệp. Chế độ tiền lương thấp là nhân tố quan trọng nhất để mức tích luỹ vốn cao và hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường nước ngoài. + Để tạo vốn cho phát triển kinh tế, Nhật Bản đã chú ý khai thác v à sử dụng tốt nguồn tiết kiệm cá nhân. Từ 1961 - 1967, tỷ lệ gửi tiết kiệm Anh ( 7,7%). Năm 1968 - 1969, tổng số tiền tiết kiệm tới là 157,5 tỷ USD. Tính trung bình mỗi người dân Nhật có số tiền tiết kiệm là1.550 USD. Ngoài ra, mức tích luỹ cao ở Nhật Bản còn là kết quả của việc giảm chi phí quân sự xuống mức dưới 1% tổng sản phẩm quốc dân (ở Mỹ là 9 - 10%). Do nhu cầu của phát triển kinh tế thời kỳ này Chính phủ Nhật Bản đã hạn chế các khoản chi tiêu cho các phúc lợi xã hội, y tế, nhà ở… Bộ máy hành chính cũng được chú ý giảm tới mức tối thiểu, số người phục vụ trong các cơ quan Nhà nước và quan đội chỉ khoảng 1,3 triệu. Trong khi đó ở Pháp, dân số chỉ bằng một nửa Nhật Bản nhưng con số này là 3 triệu người. Có thể khẳng định rằng người Nhật Bản đã rất thành công trong việc huy động nguồn vốn nội bộ cho phát triển kinh tế thời kỳ sau chiến tranh. Tuy vậy, nguồn vốn từ bên ngoài cũng đóng vai trò khá quan trọng đối với nền kinh tế Nhật, nhất là nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA chủ yếu được dành cho việc cải tạo, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng và phát triển công nghiệp nặng. Trong thời kỳ từ 1944 đến 1955 số vốn của bên ngoài vào Nhật Bản là 230 triệu USD, và đã tăng lên rất nhanh trong thời kỳ 1956 - 1973 với 24 tỷ USD, trong đó vay trực tiếp và tiếp nhận đầu tư cổ phiếu nước ngoài chiếm 89%. Trong các nguồn tín dụng của nước ngoài, tín dụng Mỹ giữ vai trò quan trọng thông qua các tổ chức Ngân hàng Xuất - Nhập khẩu Mỹ, Ngân hàng phát triển Quốc tế Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Có thể nói rằng trong thời kỳ sau chiến tranh, Nhật Bản không phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn bên ngoài. Chính phủ giao cho Bộ Tài chính quản lý và kiểm soát rất chặt chẽ việc sử dụng các nguồn vốn đó. Đầu tư trực tiếp chỉ được khuyến khích cho mục tiêu tìm kiếm công nghệ và bí quyết sản xuất. - Sử dụng vốn Nhật bản được coi là một nước sử dụng vốn một cách táo bạo và có hiệu quả. ở Nhật Bản nhiều ngân hàng thương mại chấp nhận cho vay tới 95% tổng số vốn. Biện pháp mạo hiểm này đã tạo điều kiện tăng nhanh số vốn chuyển vào sản xuất kinh doanh. Trong sử dụng vốn, Nhật Bản trước hết tập trung vào những ngành sản xuất lớn, hiện đại và có hiệu quả cao, Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất diễn ra rất nhanh chóng, đạt trình độ và quy mô quốc tế. Năm 1969, ở Nhật Bản có hơn 10 Công ty độc quyền với doanh số trên 1 tỷ USD một số Công ty như Mitsubisi, Mitusi… có doanh số khoảng 10 tỷ USD. Do đó, Nhật Bản đã có những điều kiện thuận lợi để nhanh chóng áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại, hợp lý hoá quy trình sản xuất, nâng cao hiệu quả của tư bản đầu tư. Về đầu tư trong nước, phần lớn số vốn được tập trung vào các ngành then chốt như luyện kim, đóng tàu, chế tạo máy, hoá chất, điện tử và vi điện tử… Vốn đầu tư cũng được tập trung vào đổi mới thiết bị sản xuất. Sau hơn 20 năm, Nhật Bản hầu như đã đổi mới toàn bộ tư bản cố định. Trong một số ngành như chế tạo máy, luyện kim, đóng tàu biển, điện tử… trình độ trang bị kỹ thuật vào loại cao nhất thế giới. Ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, một số Công ty của Nhật Bản đã chú ý tới việc đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên, trong thập kỷ 50 và nửa đầu thập kỷ 60, hoạt động đầu tư nước ngoài còn chậm vì thiếu ngoại tệ và ít có nguồn tư bản dài hạn nước ngoài. ở giai đoạn đầu này, Nhật Bản chủ yếu đầu tư ở khu vực Đông Nam á với những kỹ nghệ sử dụng nhiều lao động, thích hợp với trình độ của các nước này. Từ nửa cuối thập kỷ 60, Nhật Bản đã chú ý nhiều hơn vào đầu tư khai thác tài nguyên, đồng thời đa dạng hoá khu vực đầu tư. Tổng số vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh qua các năm. Nếu vào thời kỳ 1955 - 1957, mức bình quân là 50 triệu USD thì đến thời kỳ 1963 - 1965 lên 130 triệu USD và năm1970 lên tới 900 triệu USD. Cho đến năm 1973, tổng số đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật Bản đạt khoảng 19,3 tỷ USD. Mặt khác, cơ cấu đầu tư theo khu vực cũng thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng đầu tư vào Mỹ và Châu Âu, giảm tỷ trọng đầu tư vào Trung và Nam Mỹ (Mỹ: 26,4%, Châu Âu: 16,1% Châu á: 23%, Trung Nam Mỹ: 13% ). Có thể nói đầu tư nước ngoài là một yếu tố góp phần vào sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế trong nước, tăng vị thế và sức cạnh tranh của các Công ty của Nhật Bản trong nền kinh tế thế giới. Nhật Bản đã nhanh chóng xây dựng nên các ngành kinh tế mũi nhọn dựa trên kỹ thuật công nghệ hiện đại. Tới đầu thập kỷ 70, sức cạnh tranh và vị thế của các Công ty của Nhật Bản đã tăng lên nhanh chóng. Nhật Bản đã đuổi kịp trình độ phát triển kinh tế của các nước tư bản phát triển phương Tây. Thứ ba, tiếp cận và ứng dụng nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản là một nước lạc hậu so với các nước tư bản khác. Nhưng cũng ngay trong những năm tháng khó khăn đó, Nhật Bản đã giành một số vốn lớn cho việc nghiên cứu, phát triển khoa học kỹ thuật hiện đại. Chi phí nghiên cứu phát triển của Nhật Bản năm 1995 còn ở mức 40,1 tỷ yên (0,84% thu nhập quốc dân) đã tăng lên nhanh chóng đạt gần 2.200 tỷ yên. (1,96 thu nhập quốc dân) vào năm 1970. Năm 1955, ở kỹ thuật thì nă 1970 đã tăng lên đến12.594 gấp 9 lần trong 15 năm. Ngoài ra, các Công ty, các trường đại học cũng tham gia tích cực vào việc nghiên cứu và đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật. Nhật Bản đã phát huy được sức mạnh của cả khu vực Nhà nước và kh vực tư nhân trong lĩnh vực nghiên cứu và đào tạo khoa học kỹ thuật. Năm 1970 ở Nhật Bản có tới 419.000 các nhà khoa học và các chuyên gia khoa học kỹ thuật. Song thành công hơn cả của người Nhật Bản vẫn là lĩnh vực khoa học ứng dụng. Nhật Bản đã chú trọng ứng dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật mới nhất của âu - Mỹ bằng cách nhập khẩu công nghệ, kỹ thuật mua các phát minh sáng chế. Từ năm 1950 đến năm 1971, tổng số vụ nhập khẩu kỹ thuật của Nhậet là 15.289 vụ, gần 70% là của Mỹ, hơn 10% của Tây Đức. Nhờ đó đã cải tạo căn bản tài sản cố định và góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội. Tốc độ tăng năng suất lao động trung bình hàng năm của Nhật Bản thời kỳ 1955 - 1965 là 9,4% việc mua các phát minh cho phép Nhật Bản tiếp cận với thành tựu mới nhất của khoa học - kỹ thuật. Tính đến năm 1968, tổng giá trị những pháp minh đó, các nước khác phải tốn tới khoảng 120 - 130 tỷ USD, như vậy Nhật Bản đã tiết kiệm được khoảng 100 tỷ USD, bằng 1/3 tổng tài sản cố định tích luỹ trong thời gian này. Bằng cách đi khôn ngoan, chỉ hơn 20 năm sau chiến tranh, nền khoa học kỹ thuật của Nhật Bản có bước phát triển nhảy vọt. Đến đầu những năm 1970, Nhật Bản đã đạt trình độ cao về động hoá, trình độ sử dụng máy vi tính trong một số ngành sản xuất… Do đó những nhân tố tác động rất mạnh đến tốc độ phát triển kinh tế của Nhật Bản sau chiến tranh. Thứ tư, chú trọng vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước Ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện hàng loạt biện pháp để đẩy mạnh tự do hoá nền kinh tế, kích thích kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường kết hợp với sự điều tiết của Nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô. Nhà nước đã tạo ra môi trường kinh tế thuận lợi cho tăng trưởng bằng hệ thống pháp luật và khả năng duy trì trật tự xã hội bằng pháp luật và sự đầu tư trực tiếp vào kinh tế. Từ năm 1955 đến 1973, Nhà nước đã thông qua 7 kế hoạch, đa số là kế hoạch 5 năm, nhưng thời gian thực hiện trung bình là hai năm rưỡi vì các dự kiến kế hoạch đều thấp hơn mức tăng trưởng thực tế. Các kế hoạch kinh tế đều có ba nội dung cơ bản: phương hướng kinh tế xã hội phương hướng chính sách của chính phủ nhằm thực hiện các mục tiêu trên, những chỉ dẫn hoạt động cho các cơ sở kinh doanh, các ngành công nghiệp. Bộ công nghiệp và thương mại quốc tế (MITI) và Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) có vị trí quan trọng trong việc phát huy vai trò của Nhà nước đối với phát triển kinh tế. Thông qua các hệ thống này, các chính sách về tài chính, tiền tệ, đối ngoại… của Nhà nước được thực thi có hiệu quả. Vai trò nổi bật của Nhà nước thời kỳ này là cẩicchs hệ thống thuế để thúc đẩy tích luỹ vốn, thúc đẩy nhập khẩu kỹ thuật mới và khuyến khích xuất khẩu. Để khuyến khích tích luỹ cá nhân, Chính phủ đã không đánh thuế thu nhập có tính thuế luỹ tiến cao như ở mốtố nước thuế Công ty ở mức thấp, các loại thuế trực thu tăng nhưng thuế gián thu lại giảm. Do vậy thuế trong thu nhập quốc dân ở Nhật Bản thời kỳ này nhìn chung thấp hơn các nước tư bản khác. Nhà nước Nhật Bản còn đóng vai trò hướng dẫn và kiểm tra hoạt động đầu tư cũng như việc hỗ trợ về tài chính cho hoạt động đó, Nhà nước Nhật Bản nắm khoảng 1/3 tổng số đầu tư tư bản cố định trong nước. Đầu tư của Nhà nước thường tập trung vào cơ cấu hạ tầng xây dựng các ngành công nghiệp mới và nghiên cứu khoa học. Những ngành này đòi hỏi vốn đầu tư lớn, chu chuyển chậm, lợi nhuận thấp nhưng hết sức quan trọng tạo, tiền đề cho sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Sự can thiệp và tham gia trực tiếp của Nhà nước vào các hoạt động kinh tế đã có tác dụng chống đỡ khủng hoảng, tạo ra những điều kiện cần thiết cho nền kinh tế tăng trưởng cao. Thứ năm, mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước - Mở rộng thị trường trong nước Nhờ cải cách ruộng đất, hình thành chủ trang trại kinh doanh nhỏ đã mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, sử dụng máy móc công nghệ tiên tiến. Do đó, nông nghiệp nông thôn tạo ra thị trường rộng lớn cho sản xuất phát triển Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các Công ty luôn cố gắng giữ uy tín bằng việc đưa ra thị trường những sản phẩm đảm bảo chất lượng. Trên thực tế, khoảng 80% sản phẩm quốc dân của Nhậet Bản là phục vụ cho thị trường nội địa. Vì vậy, phương châm của các Công ty Nhật Bản là hàng hoá dù bán ở thị trường nội địa hay nước ngoài đều phải có chất lượng. Mặt khác, để bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ và thị trường nội địa, Nhật Bản đã kết hợp khéo léo giữa chiến lược phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu với chiến lược hướng về xuất khẩu. Lộ trình tự do hoá thương mại và hội nhập được thực hiện một cách thận trọng, được quản lý thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Mở rộng và đứng vững trên thị trường nội địa tạo tiền đề cho các Công ty Nhật Bản vươn ra chiếm lĩnh các thị trường nước ngoài. Thời kỳ này, thị trường trong nước còn được mở rộng do sự gia tăng dân số, sự tăng nhanh số người làm công ăn lương, tốc độ tăng thu nhập thực tế của người lao động… Do đó đã làm tăng khối lượng tiêu dùng cá nhân ở trong nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản. - Mở rộng thị trường nước ngoài Là một nước nghèo tài nguyên thiên nhiên, Nhật Bản phải phụ thuộc vào thị trường cung cấp vật tư, nguyên liệu, năng lượng và thị trường tiêu thụ hàng hoá, do đó thị trường nước ngoài được coi là điều kiện sống còn của nền kinh tế Nhật Bản. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã tìm mọi cách để xâm nhập vào thị trường thế giới nhưng tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá nhờ giảm chi phí sản xuất và chú trọng chất lượng sản phẩm, xây dựng đội ngũ thương nhân có năng lực, nhiều kinh nghiệm, thực hiện chính sách đối ngoại linh hoạt… Đối với các nước đang phát triển, Nhật Bản dùng cách lôi kéo về chính trị kết hợp với thâm nhập kinh tế, viện trợ, tăng cường quan hệ mậu dịch thương mại… được sử dụng một cách rộng rãi. Đối với các nước Châu á, Nhật Bản còn sử dụng các chính sách như bồi thường chiến tranh, xây dựng khu vực thịnh vượng chung… nhằm thâm nhập sâu vào thị trường các nước này. Từ những năm 70, Nhật Bản đã dẫn đầu các nước tư bản về đầu tư và quan hệ mậu dịch với nhiều nước và lãnh thổ Đông và Nam á như Thái lan, Malaysia, Indonesia, Hồng Kông, Philipines, Đài Loan… Ngoài ra hàng Nhật Bản còn thâm nhập và cạnh tranh gay gắt với các nước tư bản phát triển ngay trên thị trường Tây Âu, Bắc Mỹ và các khu vực khác. Từ năm 1965 trở đi, Nhật Bản thường xuyên là nước xuất siêu trong quan hệ thương mại với thế giới bên ngoài. Điều đó đã giúp cải thiện căn bản cán cân thanh toán của Nhật Bản. Có thể thấy rằng ngoại thương nói riêng và kinh tế đối ngoại nói chung là một nhân tố quan trọng đem lại sự thành công của người Nhật thời kỳ sau chiến tranh. Vì vậy có nhà nghiên cứu đã cho rằng ngoại thương chính là"nhịp thở" của nền kinh tế Nhật Bản. Thứ sáu, kết hợp khéo léo cấu trúc kinh tế hai tầng. Cấu trúc kinh tế hai tầng là đặc điểm nổi bật của Nhật Bản thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Đó là sự liên kết, hỗ trợ lẫn nhau giữa khu vực kinh tế hiện đại và khu vực truyền thống. Khu vực kinh tế hiện đại bao gồm c Công ty lớn với Công ty kỹ thuật công nghệ tiên tiến, lượng vốn đầu tư lớn, sử dụng lao động suốt đời, tiền lương cao theo thâm niên, điều kiện làm việc tốt. Khu vực truyền thống chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ, sử dụng kỹ thuật công nghệ lạc hậu, lao động hợp đồng hoặc theo thời vụ, tiền lương và điều kiện làm việc thấp kém. ở Nhật Bản thơèi kỳ này số doanh nghiệp sử dụng dưới 100 công nhân chiếm 99% tổng số xí nghiệp và 76% tổng số công nhân. các doanh nghiệp nhỏ thường là các cơ sở gia công phụ tùng máy móc hoặc nhận thầu khoán nghệ từ các Công ty lớn. Nhiều doanh nghiệp nhỏ trở thành vệ tinh của một Công ty lớn. Khi nền kinh tế lâm vào khó khăn, khu vực truyền thống sẽ trở thành những " đệm giảm xóc" cho khu vực hiện đại. Với cấu trúc kinh tế hai tầng, nguồn vốn dư thừa và công nghệ lạc hậu thời kỳ sau chiến tranh được sử dụng hợp lý và có hiệu quả. Thứ bảy, đẩy mạnh hợp tác với Mỹ và các nước khác Sau 3 năm chiếm đóng và kiểm soát Nhật Bản, tháng 10 - 1948 Mỹ chuyển giao quyền quản lý kinh tế xã hội cho chính phủ Nhật Bản. Bắt đầu từ đây mối quan hệ kinh tế Mỹ - Nhật đã phục hồi và phát triển nhanh chóng. Việc thực hiện đường lối kinh tế của Joseph Dodege đã giúp Nhật Bản ổn định nền tài chính tiền tệ. Mức tỷ giá 360 yên/1USD được duy trì suốt 22 năm đã tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp xuất khẩu cạnh tranh được trên các thị trường quốc tế. Sau khi Hiệp ước hoà bình San Francisco được ký kết vào năm 1951, Nhật Bản và Mỹ trở thành bạn hàng của nhau. Trong các cuộc chiến tranh ở CHDCND Triều Tiên và Việt Nam, Chính phủ Mỹ đã có hàng loạt đơn đặt hàng với các Công ty của Nhật Bản về vũ khí, khí tài và các đồ quân dụng khác. Trong khoảng thời gian từ năm 1950 đến 1969, Nhật Bản đã thu được 10,2 tỷ USD do đơn đặt hàng của Mỹ. Trong cơ cấu ngoại thương của Nhật Bản thời kỳ này có tới 34% tổng giá trị hàng xuất khẩu sang Mỹ và 30% giá trị hàng nhập của Nhật là từ thị trường Mỹ. Có thể nói nhu cầu về hàng hoá của Mỹ cho các cuộc chiến tranh ở CHDCND Triều tiên và Việt Nam là hai "ngọn gió thần" đối với nền kinh tế Nhật Bản. Ngoài ra, một số nhân tố khác cũng có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển kinh tế Nhật Bản thời kỳ này như xu thế hội nhập quốc tế hợp tác và nhất thể hoá kinh tế tư bản chủ nghĩa, xu thế hoà hoãn và hợp tác của Công ty độc quyền quốc tế.. Năm 1955 Nhật Bản xin gia nhập GATT, tháng 4 / 1964 trở thành viên của IMF và OECD. Đó là những cơ hội để các Công ty Nhật Bản mở rộng thị trường, tăng cường tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, ngay trong giai đoạn phát triển nhanh chóng này, nền kinh tế Nhật Bản đã phải đối mặt với những mâu thuẫn kinh tế xã hội gay gắt. - Đó là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các vùng kinh tế, giữa khả năng sản xuất hiện đại với cơ sở hạ tầng lạc hậu, giữa tài chính và tín dụng, giữa tiềm lực của công nghiệp và nông nghiệp. Phần lớn công nghiệp tập trung ở vùng phía đông nước Nhật. Riêng ba trung tâm công nghiệp là Tokyo- Osaka - Nayoga chỉ chiếm 1,25% diện tích cả nước nhưng tập trung tới 60 triệu dân và hơn 50% sản lượng công nghiệp. Trong khi đó các vùng phía Tây còn trong tình trạng lạc hậu. Nhiều nhà kinh tế phương Tây nhận xét rằng có hai nước Nhật: nước Nhật rất hiện đại và nước Nhật cũ "khuất sau bóng núi". Nông nghiệp lạc hậu so với công nghiệp, trong nông nghiệp, sản xuất nhỏ vẫn chiếm ưu thế. Năm 1968, số hộ nông dân có dưới 2 ha chiếm 68% tổng số hộ. Nông nghiệp vẫn chưa đảm bảo được nhu cầu trong nước. Mặc dù nền sản xuất công nghiệp đã đạt đến trình độ cao nhưng cơ sở hạ tầng ở Nhật Bản bị coi là loại lạc hậu trong các nước tư bản phát triển. Làmột nền kinh tế bấp bênh, không ổn định về thị trường và nguồn nguyên liệu. Sự phát triển của nền kinh tế Nhật bản phụ thuộc nhiều vào bên ngoài cả về thị trường tiêu thụ hàng hoá và nguồn cung cấp nguyên liệu. Sự biến động của thị trường quốc tế, cũng như cạnh tranh gay gắt của Mỹ và Tây Âu có ảnh hưởng nghiêm trọng, hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản. - Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt do các Công ty mải chạy theo lợi nhuận nên đã hạn chế những chi phí cho phúc lợi xã hội, duy trì mức sống thấp so với các nước tư bản phát triển, vấn đề nhà ở, tai nạn giao thông trầm trọng. Đặc biệt do chạy theo tốc độ tăng trưởng cao, vấn đề bảo vệ môi trường đã không được chú ý đúng mức. Kết quả là đến cuối thập kỷ 60 và đầu thập kỷ 70, môi trường sống bị xuống cấp nhanh chóng, một số vùng công nghiệp bị ô nhiễm nặng nề. Đó là mặt trái, là cái giá phải trả cho sự tang trưởng "thần kỳ" của Nhật Bản thời kỳ 1951 - 1973. IV. những bài học kinh nghiệm rút ra từ sự phát triển kinh tế nhật bản giai đoạn ( 1952 - 1973) để có thể áp dụng phát triển kinh tế Việt Nam Hiện nay, Việt Nam đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá để phát triển đất nước. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của nước ta đó là phát triển một nền kinh tế vững mạnh, tăng trưởng nhanh. Cùng với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, trong những năm gần đây đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu về kinh tế như tăng trưởng kinh tế nhanh, GDP cao đời sống nhân dân được cải thiện, và ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên Việt Nam vẫn bị xếp vào các hàng ngũ các nước đang phát triển mà thực tế là các nước có nền kinh tế kém phát triển, chưa có đủ điều kiện kinh tế để gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO.. Do đó nền kinh tế Việt Nam cần phải có một bước phát triển thần kỳ như kinh tế Nhật Bản gian đoạn (1952 - 1973) thì mới có thể thoát khỏi lạc hậu và vươn lên trở thành nước phát triển. Như vậy, giai đoạn phát triển thần kỳ của kinh tế Nhật Bản (1952 - 1973) là một bài học rất bổ ích và thiết thức để Việt Nam học hỏi và áp dụng trong phát triển kinh tế. Nhưng chúng ta áp dụng không có nghĩa là dập khuôn, máy móc mà chúng ta chỉ dựa vào điều kiện trong nước để áp dụng những cái gì phù hợp. Đặc biệt là việc phát triển một nềnkt thị trường nhưng phải theo định hướng XHCN. A. Những đặc điểm thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế 1. Những đặc điểm khó khăn. * Việt Nam là một nước thuần nông nghiệp từ xưa đến nay. Hiện nay, ở nước ta vẫn còn đến hơn 80% dân số làm nông nghiệp. Do đó nền công nghiệp nước ta rất lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật hạn chế, trình độ tay nghề của công nhân rất thấp, chủ yếu là không qua đào tạo. Một nền tảng công nghiệp mạnh mới giúp cho kinh tế phát triển chứ không phải nông nghiệp giúp kinh tế phát triển. Với những thực tại như trên, thì nước ta sẽ còn rất nhiều khó khăn trong việc tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá để phát triển kinh tế. * Khi thực dân pháp đô hộ, chúng chủ yếu phát triển công nghiệp nặng để phục vụ cho chiến tranh và bóc lột chứ không chú trọng phát triển công nghiệp nhẹ và các ngành sản xuất dịch vụ, mặt hàng tiêu dùng. Vì thế nước ta không có được một cơ sở vật chất toàn diện, không có cơ hội học hỏi, nắm bắt được nhiều sự tiến bộ khoa học kỹ thuật trên thế giới mà chỉ quen vận hành những cố máy lạc hậu đã được lắp sẵn mà không cần qua đào tạo. Đó cũng đang là một khó khăn cho việc phát triển kinh tế của nước ta vì nước ta chỉ có thể phát triển những ngành công nghiệp nhẹ song vốn thì lại chẳng có gì ngoài những máy móc cũ kỹ, lạc hậu chủ yếu phục vụ cho công nghiệp nặng. * Đất nước ta phải trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân pháp và đế quốc Mỹ. Do đó

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28330.doc
Tài liệu liên quan