M ỤC L ỤC
A. Phần mở đầu: 1
B: Phần nội dung: 1
Chương 1: Lý thuyết về chi tiêu đầu tư và kích cầu đầu tư: 1
I. Lý thuyết về chi tiêu đầu tư: 1
II. Lý thuyết về kích cầu đầu tư : 4
Chương 2: Thực trạng kích cầu đầu tư ở Việt Nam . 7
I.Đánh giá tình hình chi tiêu đầu tư của Việt Nam . 7
II.Thực trạng kích cầu đầu tư ở VN . 9
III. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động kích cầu đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 1996-2006. 12
Chương 3. Các giải pháp tăng cường vốn đầu tư ở Việt Nam. 23
I. Tiếp tục đổi mới để tạo môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn, khuyến khích sản xuất kinh doanh. 13
II : Đa dạng hoá các kênh, hình thức huy động nguồn lực cho hoạt động đầu tư. 15
III: Nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược đầu tư. 16
C. Kết luận 16
Danh mục những tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình kinh tế phát triển (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân).
2. Giáo trình kinh tế đầu tư (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân).
3. Giáo trình kinh tế vĩ mô I & II (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân).
4. Giáo trình lịch sử các học thuyêt kinh tế (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân).
5. Kinh tế học (Samuelson).
6. Của cải của các dân tộc (Keynes).
7. Báo khu công nghiệp Việt Nam (Bộ tài chính).
8. Báo Đầu tư.
9. Thời báo kinh tế Việt Nam.
10. Thông tin trên vietnamnet, wikipedia, báo điện tử của bộ kế hoạch & đầu tư .
18 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2243 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Các nhân tố tác động đến chi tiêu đầu tư, giải thích tình hình kích cầu đầu tư tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịa phương. Từ mục đích này chúng ta có thể thấy được những công việc chính của hoạt động kích cầu đầu tư trước tiên là phải làm sao để huy động được vốn, sau đó là phải tạo cho được những điều kiện thuận lợi và quản lí các dự án đầu tư cho có hiệu quả.
Để thực hiện được mục tiêu trên, công tác kích cầu phải sử dụng nhiều biện pháp chính sách để tạo ra những điều kiện huy động một cách hiệu quả nhất các nguồn vốn đầu tư:
+ Các phương pháp tạo lập nguồn vốn đầu tư. Đầu tiên là phải thực hiện khuyến khích huy động vốn từ tiết kiệm tư nhân. Kinh tế cổ điển Anh thế kỷ XIX cho rằng sự can thiệp của chính phủ vào quyết định đầu tư và tiết kiệm tư nhân có thể làm giảm tính hiệu quả của nền kinh tế. Theo quan điểm này cho rằng: Vốn đầu tư có thể có các nguồn hình thành sau: Tiết kiệm của các hộ gia đình đã trở thành một nguồn lớn hình thành nên cung vốn đầu tư. Ngoài ra, khoản thu nhập giữ lại của một đơn vị kinh doanh cũng là một nguồn quan trọng hình thành nên vốn đầu tư. Tiết kiệm của các đơn vị kinh doanh bao gồm tiết kiệm từ lợi nhuận cũng như từ các nguồn phi lợi nhuận. Các nguồn này là các khoản tài trợ chính cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Điều này có nghĩa rằng : lãi suất sẽ làm cân bằng cung tiết kiệm với cầu đầu tư kinh doanh.
Tuy nhiên theo Keynes thì lãi suất phải được xác định theo cung và cầu tiền tệ. Do vậy chương trình tiết kiệm của các hộ gia đình và chương trình đầu tư của các doanh nghiệp thường không trùng hợp với nhau. Tiết kiệm phụ thuộc vào thu nhập, còn đầu tư là hàm số của tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng. Ở các nước đang phát triển do ít có thiên hướng chấp nhận các quyết định tiết kiệm của các hộ gia đình. Để thu hút được vốn cho hoạt động đầu tư cần có một lãi suất huy động vốn cao, và để kích thích đầu tư thì lãi suất cho các nhà đầu tư vay để tài trợ cho các dự án lại cần thấp. Nếu để thị trường tự điều tiết thì sẽ không xảy ra điều này và hoạt động kích cầu đầu tư không hiệu quả. Lúc này chính phủ có vai trò tích cực trong việc tăng tỷ lệ hình thành vốn bằng một tỷ lệ tiết kiệm cao.
Hoàn thiện các tổ chức trung gian tài chính, điển hình là các ngân hàng thương mại, các quĩ tiết kiệm, thị trường chứng khoán…Chúng ta biết lượng vốn nằm khê đọng trong dân rất nhiều song lại rải rác và khó tập trung. Mặt khác những nguồn vốn này sẽ không thể trực tiếp đến tay các nhà đầu tư được bởi không phải doang nghiệp nào cũng có khả năng huy động vốn bằng cổ phiếu và trái phiếu. Do vậy các trung gian tài chính này sẽ là nơi thu hút và phân bổ nguồn vốn đầu tư cho các dự án. Đây là giải pháp có ý nghĩa rất quan trọng với các hoạt động đầu tư vì nó có tác dụng huy động vốn và phân bổ để nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư.
+ Tạo lập và duy trì một năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền kinh tế. Đặt trong bối cảnh của tổng quát và dài hạn, năng lực tăng trưởng của nền kinh tế là yếu tố quan trọng xác định triển vọng huy động các nguồn vốn đầu tư một cách có hiệu quả. Vấn đề tăng trưởng ở đây được nhìn nhận như yếu tố tạo ra sức hấp dẫn cho các luồng vốn trong nước và nước ngoài. Điều này tuân theo logic là khi mà các dự án đầu tư được thực hiện có hiệu quả thì nó sẽ lại càng thu hút nhiều vốn đầu tư hơn. Cơ chế tác động của điều này chính là tác động vào kỳ vọng của các nhà đầu tư mà chúng ta đã nói ở trên. Có điều này bởi vì trước hết với năng lực tăng trưởng nhanh, thì trong bản thân nội bộ nước đó cũng sẽ có được một mức tích luỹ lớn hơn và do đó qui mô của các nguồn vốn trong nước sẽ tăng lên. Mặt khác, triển vọng tăng trưởng cao như vậy sẽ là một tín hiệu tốt đối với các hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài.
+ Đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô. Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô luôn được coi là diều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Về nguyên tắc, để thu hút được các nguồn vốn đầu tư nhằm ngày càng đáp ứng tốt hơn các yêu cầu phát triển của đất nước, đảm bảo được nền kinh tế đó trước hết là nơi an toàn cho sự vận động của nó và sau nữa là nơi có năng lực sinh lời cao.
Khi đầu tư trước tiên các nhà đầu tư muốn sao cho đồng vốn của mình được an toàn. Như vậy với một nước có môi trường kinh tế vĩ mô ổn định thì sẽ tạo ra được một lòng tin bước đầu với các nhà đầu tư. Với những nhà đầu tư nước ngoài còn có những yêu cầu về năng lực trả nợ tối thiểu của những nước nhận đầu tư. Để ổn định kinh tế vĩ mô phải đảm bảo các điều kiện cụ thể sau:
Ổn định giá trị tiền tệ. Đây là vấn đề hết sức quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động vốn cho đầu tư. Ổn định giá trị tiền tệ ở đây bao gồm kiềm chế lạm phát và khắc phục hậu quả của giảm phát nếu có Để có được điều này, cần phải rạo ra sự vận động một cách đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường, cân đối thu chi Ngân sách Nhà nước.
Điều tiết lãi suất, về lý thuyết lãi suất càng cao thì xu hướng tiết kiệm càng lớn và từ đó tiềm năng của các nguồn vốn đầu tư càng cao. Bên cạnh đó, nếu mức lãi suất trên thị trường nội địa cao tương đối so với lãi suất quốc tế thì lại tạo ra sự hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài. Hơn nữa nó còn giúp các chính phủ bảo vệ được nguồn vốn của mình. Song phải chú ý đến mặt thứ hai của tăng lãi suất tức là khi lãi suất tăng thì đồng thời chi phí của hoạt động đầu tư cũng tăng lên do đó phải cẩn thận cân nhắc kỹ khi sử dụng công cụ này.
Về lâu dài cần hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước trong mối quan hệ chặt chẽ với lĩnh vực thu hút các nguồn đầu tư. Nhanh chóng cải thiện và đồng nhất môi trường đầu tư để tạo điều kiện cho việc khai thác nguồn vốn đầu tư phát triển trong các thành phần kinh tế.
+ Xây dựng các chính sách huy động các nguồn vốn có hiệu quả. Bên cạnh hai điều kiện trên thì để có thể huy động được có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho phát triển cần phải có các chính sách và giải pháp hợp lý và đồng bộ. Các chính sách này phải được thực hiện trên cơ sở đảm bảo những nguyên tắc sau: Các chính sách huy động vốn phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế xã hội từng thời kỳ. Phải đảm bảo mối tương quan hợp lý giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Cần quán triệt nguyên tắc vốn trong nước là quyết định còn vốn nước ngoài là quan trọng. Cần phải đa dạng hoá và hiện đại hoá các hình thức và phương tiện huy động vốn. Các chính sách vay vốn phải được tiến hànhđồng bộn cả về nguồn vốn và biện pháp thực hiện, đảm bảo sự bình đẳng giữa các nguồn vốn.
Chương 2: Thực trạng kích cầu đầu tư ở Việt Nam .
I.Đánh giá tình hình chi tiêu đầu tư của Việt Nam .
Trên góc độ nền kinh tế, vốn đầu tư phát triển có thể huy động từ hai nguồn: nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó mỗi nguồn lại được chia thành các nguồn nhỏ hơn. Nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm nguồn vốn Nhà nước, nguồn vốn từ khu vực tư nhân và nguồn vốn khác. Vốn đầu tư nước ngoài lại bao gồm vốn FDI, vốn tài trợ phát triển chính thức, vốn vay thương mại, vốn ngoại tệ thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ ra nước ngoài.
Trong những năm vừa qua Việt Nam đã có những thành tựu rất đáng hy vọng trong hoạt động huy động vốn đầu tư phát triển. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội liên tục tăng trưởng mạnh về qui mô. Đây chính là yếu tố quyết định nhất tới những thành tựu về kinh tế của nước ta trong giai đoạn vừa qua. Điều này được thể hiện qua số liệu thông kê vốn đầu tư phát triển giai đoạn 1996-2005:
Đơn vị : Nghìn tỷ đồng,%
Năm
Tổng vốn đầu tư
Lượng tăng tuyệt đối
Tốc độ tăng vốn tuyệt đối (%)
Vốn đầu tư/GDP
1996
88.8
11.48
10.2
32.1
1997
105.9
17.1
19.2
34.5
1998
108.8
2.9
2.7
32.4
1999
119.4
10.6
9.8
32.8
2000
132.2
12.8
10.7
32.9
2001
160.4
28.2
10.4
34.0
2002
173.2
12.8
8.0
34.3
2003
189.3
16.1
9.3
35.5
2004
216.0
26.7
14.1
36.2
2005
236.9
20.9
9.7
36.8
Bảng 1. Vốn đầu tư phát triển ở Việt Nam giai đoạn 1996 – 2005.
Trong chi tiêu cho đầu tư phát triển, khoản chi tiêu của chính phủ Nước ta luôn chiếm một tỷ trọng lớn nhất, là một nguồn quan trọng nhất trong đầu tư phát triển. Nguồn vốn này bao gồm nguồn vốn của Ngân sách Nhà nước nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển và nguồn vốn đầu tư phát triển doanh nghiệp Nhà nước. Theo số liệu thống kê, tổng chi đầu tư phát triển đã đạt 85,7 ngàn tỷ (2006), dự toán năm 2007 là 99,5 ngàn tỷ, với đà thực hiện vượt dự toán như hàng năm thì chi đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước chắc chắn sẽ vượt ngưỡng 100 ngàn tỷ đồng trong năm 2007.
Vốn Ngân sách Nhà nước gia tăng liên tục qua các năm và luôn chiếm tỷ trọng vao trong các nguồn vốn đầu tư phát triển. Sở dĩ có được kết quả này là vì trong những năm gần đây, quy mô Ngân sách Nhà nước không ngừng tăng lên nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau mà chủ yếu là thông qua huy động thuế và phí (chiếm 90%), trung bình tăng 17% năm. Tỷ lệ động viên GDP vào Ngân sách Nhà nước bình quân đạt 23,5%, nhờ đó chi cho đầu tư phát triển cũng tăng lên. Tỷ lệ chi đầu tư phát triển trong tổng Ngân sách bình quân năm đạt khoảng 29.8%.
Đặc điểm nổi bật về đầu tư trong nước giai đoạn 1996-2005 là sự tăng lên mạnh mẽ của đầu tư từ khu vực tư nhân và dân cư. Do tác động tích cực của luật doanh nghiệp, đầu tư của khu vực tư nhân diễn ra mạnh mẽ. Tỷ trọng đầu tư của khu vực này tăng liên tục và đã cao hơn cả tỷ trọng đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước.Tốc độ tăng bình quân năm của nguồn vốn này khỏang 12,25% năm.
Trong cơ cấu vốn đầu tư giai đoạn 1996-2005 vốn tư nhân và dân cư là nguồn chiếm tỷ trọng cao nhất. Điều này đã cho thấy đây thực sự là nguồn vốn quan trọng, có thể khai thác với khối lượng đáng kể của nền kinh tế song việc khai thác tiềm năng này thật sự còn rất nhiều điều đáng bàn. Theo tổng cục thống kê, hiện chỉ có khoảng 1,53 tỷ USD từ khu vực này dùng trực tiếp cho các dự án đầu tư và lại chủ yếu là ngắn hạn trong tổng số vốn khê đọng trong dân khoảng 8 tỷ USD.
Cơ cấu của các nguồn vốn đầu tư phát triển trong một số năm gần đây được thể hiện thông qua bảng sau:
Đơn vị tính:%
Giai đoạn
1996-2000
2001-2005
Tổng số
100.0
100.0
Vốn Ngân sách Nhà Nước
21.9
22.8
Vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước
15.3
13.3
Vốn của các doanh nghiệp Nhà nước
16.1
17.7
Vốn dân cư và tư nhân
22.8
26.2
Vốn FDI
23.8
17.0
Vốn khác
2.9
Bảng 2: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển các thời kỳ
Theo số liệu mới nhất năm 2006 thì về tỷ trọng nguồn vốn đầu tư của nguồn vốn Nhà nước đã giảm từ 59,8% năm 2001 xuống 50,1% năm 2006. Trong đó, vốn đầu tư thuộc Ngân sách Nhà nước chiếm tỷ trọng 20.5% trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước chiếm 16,1% vốn tín dụng đầu tư Nhà nước chiếm tỷ trọng 13,5%. Trong khi đó tỷ trọng nguồn vốn ngoài Nhà nước tăng nhanh, từ 22,6% năm 2001 lên 33,6% năm 2006. Còn tỷ trọng FDI ở mức trên dưới 16%.
Năm 2006 là năm mà chúng ta không thể quên 3 sự kiện: Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO; được đề cử tham gia Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc vào năm 2008 và tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh APEC.Cho dù vậy đó chỉ là trên phương diện ngoại giao, còn trên thực tế, các doanh nhân quốc tế đã ”đi trước thời đại” và chúng ta đã gặt hái được vụ mùa bội thu vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Cụ thể, nguồn vốn FDI đạt kỉ lục về cả vốn đăng kí mới và vốn bổ sung: 10,2 tỷ USD. Đây là năm thu hút vốn kỷ lục của nước ta trong 19 năm qua, bởi kỷ lục của suốt 18 năm trước thuộc về năm 1996 với hơn 8 tỷ USD đã bị bỏ quá xa cả về lượng và về chất. So với năm 1996, các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bây giờ có tiềm năng hơn rất nhiều và sẽ tạo ra con số vốn thực hiện cao hơn. Vốn cam kết thực hiện trong số hơn 10 tỷ USD kia lên đến 4,1 tỷ USD. Có thể kể ra hai “đại gia ” Intel của mỹ và Canon của Nhật là điển hình.
Thu hút vốn ODA trong thời gian vừa qua cũng đạt thành tựu quan trọng. Tổng mức ODA các nhà tài trợ cam kết cho nước ta trong giai đoạn 1993-2005 ước đạt khoảng 31 tỷ USD trong đó các khoản viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 15-20% tổng vốn. Cụ thể có thể phân chia cơ cầu của nguồn vốn này như sau: giao thông vận tải chiếm 25,7%, điện chiếm 22,4%, nông nghiệp chiếm 16,3%, cấp thoát nuớc 8,8%, giáo dục đào tạo chiếm 7,9%, các lĩnh vực khác chiếm 18,9%.
Theo số liệu mới nhất, năm 2006 nguồn vốn ODA cũng đạt kỉ lục về cả lượng vốn cam kết 4,45 tỷ USD và cả lượng vốn thực hiện 1,8 tỷ USD.Theo con số dự kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nguồn vốn ODA thực hiện trong giai đoạn 2006-2010 sẽ đạt khoảng 11-12 tỷ USD, đóng góp gần 9% nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội.
Trong vài năm gần đây, Việt Nam cũng đã bắt đầu xúc tiến phát hành trai phiếu chính phủ ra nước ngoài và đã đạt được những thành công bước đầu. Tuy nhiên, hoạt động này chưa thật sự tác động nhiếu đến khả năng huy động vốn ngoài nước của nước ta. Như vậy với đóng góp gần 30% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài thật sự rất cần thiết và quan trọng đối với Việt Nam.
Theo ông Hồ Quang Minh – Vụ trưởng Vụ kinh tế Đối ngoại (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Chính phủ Việt Nam luôn xác định cần phải tranh thủ nguồn vốn ODA để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn các công trình, dự án đã được ký kết và chú trọng xây dựng chiến lược thu hút và sử dụng vốn quan trọng này. Có khoảng 50 nhà tài trợ quốc tế đa phương và song phương đang hoạt động ở Việt Nam, tuy mỗi bên có một điểm riêng trong chính sách hỗ trợ Việt Nam tuỳ thuộc vào quan hệ nhiều mặt với Việt Nam và chính sách viện trợ phát triển quốc gia từng thời kỳ, nhưng tất cả đều có một mục đích chung là hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển ưu tiên của Việt Nam trong kinh tế xã hội và xoá đói giảm nghèo.
II.Thực trạng kích cầu đầu tư ở VN .
1.Những giải pháp kích cầu đã được áp dụng ở VN.
Trong những năm vừa qua chúng ta đã có được những bước tiến đáng kể trong mọi mặt của nền kinh tế. Có được điều đó nhân tố đầu tiên mà chúng ta nhắc đến luôn là nguồn vốn đầu tư (yếu tố vốn đóng góp vào tăng trưởng tới 60%), trong khi nước ta trong điều kiện một nước đang phát triển nên rất khan hiếm nguồn vốn đầu tư, do vậy các giải pháp kích cầu đầu tư luôn là điều được chú trọng nhất. Thực tế cho thấy Việt Nam đã thực hiện rất nhiều các giải pháp và đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong hoạt động kích cầu đầu tư.
Như trong phần lý luận chung đã nhắc đến , muốn thực hiện kích cầu đầu tư có hiệu quả thì đầu tiên chúng ta phải tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền kinh tế. Thực tế trong những năm gần đây chúng ta đã đạt được một nhịp độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định.
Cụ thể hơn 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước, với mức tăng bình quân hàng năm 7,5%. Từ một nước có nền công nghiệp kém phát triển, nay từng bước xây dựng một nền công nghiệp theo hướng hiện đại. Đồng thời cơ cấu kinh tế không ngừng chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, tỷ trọng nông nghiệp giảm dần tương ứng.
Trong giai đoạn 1996-2006, cơ chế chính sách trong lĩnh vực kích cầu đầu tư đã có nhiều đổi mới góp phần quan trọng trong việc cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích các chủ thể trong nền kinh tế bỏ vốn đầu tư.Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật; nguồn vốn đầu tư phát triển được đa dạng hoá, cơ chế bao cấp trong hoạt động đầu tư đã từng bước được hạn chế và dần xoá bỏ.Chương trình kích cầu đầu tư được thực hiện với hàng loạt chương trình và hoạt động: Chương trình kiên cố hóa hệ thống kênh tưới thủy lợi liên huyện, liên xã; chương trình kiên cố hóa hệ thống kênh tưới thủy lợi liên thôn và nội đồng; chương trình nâng cấp mặt bằng đường giao thông nông thôn; chương trình khuyến khích xây dựng nhà ở khu vực đô thị và vùng khó khăn bão lụt; chương trình phát triển hệ thống điện; khuyến khích dân cư hoặc các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ sở hạ tầng với quy mô thích hợp; triển khai chương trình hỗ trợ giải quyết việc làm... Chính sách đầu tư qua ngân sách, đặc biệt là đầu tư của khu vực doanh nghiệp nhà nước đã làm cho tổng tích lũy tài sản của Việt Nam trong giai đoạn kích cầu tăng mạnh, từ 1,2% năm 1999 lên 10,6% năm 2002. Đầu tư đã đóng góp 3,69 điểm phần trăm vào tốc độ tăng trưởng bình quân 7,16% bình quân năm của giai đoạn này. Khai thác tiềm năng của yếu tố đầu tư cho tăng trưởng đã được phân tích kỹ ở phần trên.
Đến nay các nguồn vốn đầu tư phát triển được huy động đa dạng.Ngoài các nguồn vốn hiện có, chính phủ đã tiến hành phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế và được đánh giá. Mới đây,tập đoàn định mức tín nhiệm Moody’s của Mỹ vừa nâng mức tín nhiệm đối với trái phiếu chính phủ Việt Nam từ ổn định lên tích cực trong bậc xếp hạng Ba3 hiện có, đó là tín hiệu của những dòng đầu tư, làn sóng đầu tư trực tiếp (FDI) và cả gián tiếp (FII) hứa hẹn sẽ đổ vào Việt Nam.Dòng vốn đầu tư từ Mỹ tới bất cứ nước nào cũng được chú ý cao, bởi đó là một kênh rất quan trọng với số lượng và chất lượng thường là vượt trội. Đây là dòng vốn đầu tư mang tính chất quyết định với nhiều nước.
Để tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, trong những năm qua, chúng ta đã sửa đổi, bổ sung nhiều cơ chế chính sách trong lĩnh vực này. Bao cấp đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách đã giảm đáng kể. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước trực tiếp sản xuất kinh doanh có điều kiện thu hồi vốn thì khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng vốn tín dụng ưu đãi, tự chịu trách nhiệm về mặt tài chính, vay và trả nợ, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư.
Đồng thời, Nhà nước cũng có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp Nhà nước tự huy động thêm các nguồn vốn từ khấu hao cơ bản, từ nhà xưởng mặt bằng chưa dùng đến hoặc dùng chưa có hiệu quả, từ các nguồn lợi nhuận sau thuế để đưa vào đầu tư.
Trong 10 năm trở lại đây, với việc ban hành các chính sách phù hợp, chúng ta đã huy động được phần đáng kể nguồn tiết kiệm trong dân cư (khoảng trên 50% số tiết kiệm có được) để đưa vào đầu tư. Những đổi mới kịp thời trong chính sách huy động, nâng cao hiệu quả sử dụng và nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư đã củng cố được lòng tin đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, huy động vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng phục hồi và gia tăng.
Cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển đã có nhiều thay đổi. Các văn bản pháp quy trong lĩnh vực ĐTPT luôn được cập nhật, đổi mới phù hợp theo hướng phân cấp mạnh hơn trong quản lý đầu tư và xây dựng, đồng thời, tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước. Nhiều Nghị định mới, văn bản luật mới được ban hành thay thế cho những nghị định không còn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế và những đòi hỏi khắt khe của xu thế toàn cầu hoá (Như Nghị định 07/2003, Nghị định 16/2005; Luật đầu tư chung, luật đấu thầu, Luật doanh nghiệp thống nhất…).
Công tác quy hoạch cũng có nhiều đổi mới, thực hiện tốt vai trò định hướng đầu tư và là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Chất lượng công tác quy hoạch đã được chú ý, các quy hoạch phát triển đã được lập, rà soát theo hướng gắn với thực tế, bám sát hơn nhu cầu thị trường, khai thác tốt hơn tiềm, thế mạnh của từng địa phương.
Công tác quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài đã được từng bước kiện toàn thông qua việc thành lập cục đầu tư nước ngoài với các trung tâm xúc tiến đầu tư; thực hiện chủ trương phân cấp và uỷ quyền cấp phép, quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài cho các địa phương và ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh. Việc xây dựng quy hoạch, pháp luật, chính sách, thẩm định, giải quyết vướng mắc của các dự án đầu tư nước ngoài… đã có sự cộng tác, phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành, địa phương cũng như tăng cường gặp gỡ và đối thoại chính sách với các nhà đầu tư nước ngoài.
2. Những tồn tại cần giải quyết.
Bên cạnh những thành tựu, hoạt động đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 1996-2006 vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục như sau:
Một là, Nhu cầu vốn đầu tư phát triển của đất nước rất lớn nhưng khả năng đáp ứng các nguồn vốn còn hạn chế, chưa huy động hết tiềm năng. Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư so với GDP còn thấp so với nhiều nước vào thời kỳ phát triển tương tự, tiềm lực trong dân còn rất lớn nhưng huy động cho đầu tư thấp. Các thành phần kinh tế còn dè dặt trong việc bỏ vốn đầu tư.
Hai là, Cơ cấu các nguồn vốn đầu tư phát triển chưa phù hợp.
Vốn đầu tư từ ngân sách còn nặng tính bao cấp. Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước bằng nguồn khấu hao tài sản cố định để lại chưa được quan tâm đúng mức. Nguồn vốn tín dụng đầu tư chiếm tỷ trọng thấp so với tổng vốn đầu tư Nhà nước, đối tượng vay không nhất quán, lãi suất vay ưu đãi cao, thiếu hấp dẫn.
Ba là, Cơ cấu hoạt động đầu tư chuyển dịch chậm, còn nhiều bất hợp lý cần khắc phục.
Cơ cấu vùng đã có những điều chỉnh nhưng chênh lệch về đầu tư giữa các vùng còn khá lớn, đầu tư cho các công trình liên vùng liên tỉnh còn kém, bị chia cắt theo địa giới hành chính địa phương.
Cơ cấu vốn FDI cũng có nhiều bất hợp lý. Trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp mặc dù đã có những chính sách ưu đãi nhất định nhưng đầu tư nước ngoài còn quá thấp và tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký liên tục giảm. Chất lượng một số dự án đầu tư nước ngoài chưa cao. Một số dự án khác nhất là các dự án thực hiện theo hình thức liên doanh hoạt động kém hiệu quả. Một số dự án có trình độ trung bình, thậm chí lạc hậu và theo hình thức gia công lắp ráp là chính.
Bốn là, Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư còn chưa cao. Tình hình thất thoát lãng phí trong hoạt động đầu tư còn lớn, đặc biệt là vốn Ngân sách Nhà nước. Việc bố trí vốn đầu tư thuộc Ngân sách Nhà nước dàn trải, thiếu tập trung, số lượng các dự án được phê duyệt vượt xa khả năng cân đối. Thất thoát, lãng phí trong hoạt động đầu tư chưa được giải quyết thoả đáng. Hiện tại, vì chưa thể kiểm toán, thanh tra đánh giá toàn bộ các dự án đầu tư xây dựng nên chưa thể khẳng định chính xác con số thất thoát mà dư luận lâu nay đề cập. Tuy nhiên, kết quả thanh tra các dự án cho thấy: số sai phạm về tài chính phát hiện chiếm 14-19% tổng số vốn đầu tư được thanh tra. Trong tổng số vốn được phát hiện sai phạm nói trên, số vốn kiến nghị thu hồi chiếm 5-6% tổng số vốn được thanh tra.
Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước quá thấp kém dù đã được ưu đãi, theo đánh giá sơ bộ có khoảng 23% doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ với số vốn luỹ kế lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Khả năng thanh toán nợ của các doanh nghiệp Nhà nước rất hạn chế, nguồn vốn tự có rất thấp, có doanh nghiệp kinh doanh tới trên 90% vốn đi vay dẫn tới lãi thấp, khả năng thanh toán nợ thấp.
Năm là, công tác quản lý đầu tư còn bộc lộ nhiều yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Chất lượng các quy hoạch chưa cao, chưa thực sự là cơ sở vững chắc cho hoạch định các kế hoạch phát triển nhất là xây dựng các chương trình đầu tư. Việc quản lý vừa rườm rà, phức tạp lại vừa lỏng lẻo đối với hoạt động đầu tư, gây ra tình trạng thất thoát vốn đầu tư, nhất là vốn đầu tư từ ngân sách. Bao cấp về vốn còn nhiều, cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng còn chưa phù hợp. Chưa có những chế tài cụ thể thực sự nghiêm khắc và có hiệu lực cao để quản lý hoạt động đầu tư và xử lý thích đáng những trường hợp vi phạm. Công tác nghiên cứu dự báo, xây dựng quy hoạch và kế hoạch dài hạn hoạt động đầu tư ở một số ngành và lĩnh vực chất lượng chưa cao, chưa gắn được sản xuất với thị trường.
3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động kích cầu đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 1996-2006.
Quá trình đầu tư chịu tác động bởi rất nhiều nhân tố, trong đó có những nhân tố khách quan và cả những nhân tố chủ quan. Những nhân tố này tác động liên tục và tạo ra những ảnh hưởng lớn tới việc huy động, sử dụng vốn đầu tư phát triển và những kết quả của hoạt động đầu tư. Qua phân tích có thể thấy, những hạn chế của hoạt động hoạt động đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 1996-2006 xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:
Trước hết, do sự nhận thức khác nhau trong các ngành, các cấp, tư duy kinh tế chậm đổi mới. Thêm vào đó, việc quản lý theo cơ chế thị trường mới được hình thành, chưa hoàn chỉnh, còn thiếu nhiều yếu tố của thị trường. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, ngành, vùng chưa đầy đủ, và sát thực. Công tác xây dựng chiến lược và kế hoạch đầu tư còn thiếu khoa học và chưa nhất quán, làm cho quy hoạch, kế hoạch chưa thực hiện tốt vai trò định hướng đầu tư. Pháp luật chính sách liên quan đến đầu tư chưa thông thoáng và thiếu nhất quán, chưa tạo ra động lực khuyến khích hoạt động đầu tư. Phân cấp quản lý trong đầu tư xây dựng còn nhiều chồng chéo, chưa hợp lý. Các cơ chế chính sách trong lĩnh vực đầu tư phát triển còn chậm được sửa đổi, bổ sung, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tế của công tác quản lý hiện nay. Công tác giám sát đầu tư, giám sát thi công chưa chặt chẽ, thiếu chế tài cụ thể để quy rõ trách nhiệm cá nhân và tập thể tham gia vào quá trình đầu tư. Việc ban hành các định mức kinh tế, kỹ thuật, các tiêu chuẩn còn cứng nhắc.
Sự giao lưu vốn đầu tư chủ yếu được thực hiện theo phương thức gián tiếp thông qua bộ phận trung gian là ngân hàng, các trung gian khác như công ty bảo hiểm xã hội chưa thể hiện vai trò đáng kể. Sự giao lưu vốn theo phương
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các nhân tố tác động đến chi tiêu đầu tư, giải thích tình hình kích cầu đầu tư tại Việt Nam.docx