Lời mở đầu 3
I. Tổng quan đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 3
1. Khái niệm 3
1.1 Đầu tư: 3
1.2 Đầu tư nước ngoài 4
2. Các hình thức FDI 5
2.1 Phân theo bản chất đầu tư 5
2.1.1 Đầu tư phương tiện hoạt động 5
2.1.2 Mua lại và sáp nhập 5
2.2 Phân theo tính chất dòng vốn (Tùng) 5
2.2.2 Vốn tái đầu tư: 6
2.2.3 Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ: 6
2.3 Phân theo động cơ của nhà đầu tư (Hưng) 6
2.3.1 Vốn tìm kiếm tài nguyên: 6
2.3.2 Vốn tìm kiếm hiệu quả: 6
2.3.3 Vốn tìm kiếm thị trường: 6
2.4 Phân theo lọai hình tổ chức đầu tư 6
2.4.1 Doanh nghiệp liên doanh: 7
2.4.2 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài 7
2.4.3 Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh 7
2.4.4 Đầu tư theo hợp đồng BOT (Build Opera Transfer), BTO, BT: 8
2.4.5 Đầu tư thông qua công ty mẹ và con (Holding company) 8
2.4.6 Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài 8
3. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước đang phát triển 9
3.1 Tác đông tích cực 9
3.2 Tác động tiêu cực 10
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài 11
1. Nhóm động cơ về kinh tế 11
1.1 Nhân tố thị trường 11
1.2 Nhân tố lợi nhuận 12
1.3 Nhân tố về chi phí 12
2. Nhóm động cơ về tài nguyên (Hưng) 13
2.1 Nguồn nhân lực 13
2.2 Tài nguyên thiên nhiên 14
2.3 Vị trí địa lí 14
3. Nhóm động cơ về cơ sở hạ tầng (Tùng) 14
3.1 Nhóm động cơ về cơ sở hạ tầng kỹ thuật 14
3.2 Cơ sở hạ tầng xã hội : 15
4. Nhóm động cơ về chính sách (Thy) 15
III. Đánh giá thực tế ở Việt Nam 15
1. Lợi thế thu hút 15
2. Hạn chế 17
3. Vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với Việt Nam trong giai đoạn vừa qua 20
IV. Các giải pháp vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 22
1. Giải pháp về nhân tố kinh tế 22
2. Giải pháp chính sách 22
3. Giải pháp về tài chính, ngoại hối 24
4. Giải pháp về luật pháp 25
5. Giải pháp về động cơ về cơ sở hạ tầng 26
6. Giải pháp về cơ sở hạ tầng kĩ thuật 27
7. Giải pháp về cơ sở hạ tầng xã hội 28
8. Giải pháp về nguồn nhân lực 28
9. Giải pháp về quy hoạch 28
10. Giải pháp về xúc tiến đầu tư 30
11. Xây dựng và công khai quy hoạch vốn FDI dài hạn đối với từng ngành và từng vùng cụ thể. 31
12. Phê duyệt và quản lý dự án đầu tư 32
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6870 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các nhân tố thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và giải pháp thúc đẩy thu hút tại Việt Nam giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tránh được các rào cản thương mại. Tuy vậy trong ngắn hạn, không phải lúc nào lợi nhuận cũng được đặt lên hàng đầu để cân nhắc.
1.3 Nhân tố về chi phí
Nhiều nghiên cứu cho thấy, phần đông các MNEs đầu tư vào các nước là để khai thác các tiềm năng, lợi thế về chi phí. Trong đó, chi phí về lao động thường được xem là nhân tố quan trọng nhất khi ra quyết định đầu tư. Nhiều nghiên cứu cho thấy, đối với các nước đang phát triển mà cụ thể là Việt Nam lợi thế chi phí lao động thấp là cơ hội để thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong các thập kỷ qua. Khi giá nhân công tăng lên, đầu tư nước ngoài có khuynh hướng giảm rõ rệch. Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư trực tiếp ở nước ngoài cho phép các công ty tránh được hoặc giảm thiểu các chi phí vận chuyển và do vậy có thể nâng cao năng lực cạnh tranh, kiểm soát được trực tiếp các nguồn cung cấp nguyên nhiên vật liệu với giá rẻ, nhận được các ưu đãi về đầu tư và thuế, cũng như các chi phí sử dụng đất. Ngoài chi phí vận chuyển và các khía cạnh chi phí khác, cũng cần nhấn mạnh đến động cơ đầu tư của các công ty xuyên quốc gia nhằm tránh ảnh hưởng của hàng rào quan thuế và phi quan thuế, cũng như giúp giảm thiểu đáng kể chi phí xuất nhập khẩu. Trong một cuộc điều tra các MNEs có mặt tại Philippines hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau cho thấy vị trí địa lý, chi phí nhân công thấp và thị trường nội địa là ba nhân tố cơ bản có tính quyết định đến việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Nhóm động cơ về tài nguyên (Hưng)
2.1 Nguồn nhân lực
Khi quyết định đầu tư một cơ sở sản xuất mới ở một nước đang phát triển, các các chủ đầu tư nước ngoài cũng nhắm đến việc khai thác nguồn nhân lực trẻ, dồi dào, trình độ thấp và giá rẻ ở nhiều nước đang phát triển. Thông thường nguồn lao động phổ thông luôn được đáp ứng đầy đủ và có thể thỏa mãn yêu cầu của các công ty, lực lượng này đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp chế tạo cần nhiều lao động. Ngược lại, những ngành, lĩnh vực, những dự án đầu tư đòi hỏi công nghệ cao thường kèm theo yêu cầu về lao động có trình độ cao, có tay nghề và được đào tạo bài bản. Tuy vậy, chỉ có thể tìm được các nhà quản lý giỏi, cũng như cán bộ kỹ thuật có trình độ và kinh nghiệm ở các thành phố lớn. Động cơ, thái độ làm việc của người lao động cũng là yếu tố quan trọng trong việc xem xét, lựa chọn địa điểm để đầu tư.
Không phải lúc nào các chủ đầu tư nước ngoài cũng đem công nghệ cùng với vốn đi đầu tư ở các nước khác. Bản thân họ cũng kỳ vọng tìm được những công nghệ nghệ, phát minh, sáng chế và các tài sản mới do doanh nghiệp ở nước nhận đầu tư sáng tạo ra và sở hữu độc quyền. Điều này đặc biệt đúng với các dòng vốn FDI chảy giữa các nước công nghiệp phát triển với nhau.
2.2 Tài nguyên thiên nhiên
Sự dồi dào về nguyên vật liệu với giá rẻ cũng như có các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đã từng là nhân tố tích cực thúc đẩy thu hút đầu tư nước ngoài của các nước. Các nước chủ đầu tư, vốn phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu thô trên thị trường thế giới, muốn giảm bớt sự phụ thuộc này để đảm bảo tính ổn định cho nền kinh tế. Họ tìm cách đầu tư trực tiếp sang các nước có nhiều tài nguyên để có được quyền khai thác lâu dài các nguồn tài nguyên đó. Trong khi đó phần lớn các nước đang phát triển đều thiếu vốn, đặc biệt là thiếu thiết bị, công nghệ khai thác, kỹ thuật bán hàng, cơ sở hạ tầng, ... để khai thác các nguồn lực của mình. Trong trường hợp của Malaysia, nguồn tài nguyên thiên nhiên của nước này có sức hút FDI mạnh mẽ nhất. Các nhà đầu tư nước ngoài đổ xô đến nước này là nhắm đến các nguồn tài nguyên dồi dào về dầu mỏ, khí đốt, cao su, gỗ... Đặc biệt tại các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), khai thác tài nguyên thiên nhiên là mục tiêu quan trọng của nhiều MNEs trong các thập kỷ qua. Thực tế cho thấy, trước khi có sự xuất hiện của Trung Quốc trên lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài, FDI chỉ tập trung vào một số quốc gia có thị trường rộng lớn và nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào. Chỉ có 5 quốc gia là Brazil, Indonesia, Malaysia Mexico và Singapore đã thu hút hơn 50% FDI của toàn thế giới trong giai đoạn 1973-1984.
Vị trí địa lí
Một nghiên cứu về các nhân tố thu hút đầu tư nước ngoài tại các nước đang phát triển trong thời kỳ 1980-2005 đã xác định rằng, lợi thế về vị trí địa lý giúp tiết kiệm đáng kể chi phí vận chuyển, dễ dàng mở rộng ra các thị trường xung quanh, khai thác có hiệu quả nguồn nhân lực và thúc đẩy các doanh nghiệp tập trung hóa.
Nhóm động cơ về cơ sở hạ tầng (Tùng)
Nhóm động cơ về cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Chất lượng của cơ sở hạ tầng kỹ thuật và trình độ công nghiệp hóa có ảnh hưởng rất quan trọng đến dòng vốn đầu tư nước ngoài vào một nước ( hoặc một địa phương ). Quốc gia được đầu tư vốn có một hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật hoàn chỉnh (bao gồm hệ thống đường bộ, đường sắt, đường hàng không, mạng lưới cung cấp điện, nước, bưu chính viễn thông và các dịch vụ tiện ích khác) là điều mong muốn đối với mọi nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào 1 nơi nào đó . Và nói đến cơ sở hạ tầng kỹ thuật không chỉ nói đến đường sá, cầu cống, kho tàng, bến bãi... mà còn phải kể đến các dịch vụ hỗ trợ khác như hệ thống ngân hàng, các công ty kiểm toán, tư vấn... Thiếu sự hỗ trợ cần thiết của các hoạt động này, môi trường đầu tư cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ngoài ra, hiệu quả hoạt động của các cơ sở công nghiệp địa phương, sự có mặt của các ngành công nghiệp hỗ trợ, sự tồn tại các đối tác tin cậy để các công ty nước ngoài có thể liên doanh liên kết cũng là những yêu cầu rất quan trọng cần phải được xem xét đến.
Cơ sở hạ tầng xã hội :
Ngoài cơ sở hạ tầng kỹ thuật, môi trường thu hút đầu tư còn chịu ảnh hưởng khá
lớn của cơ sở hạ tầng xã hội. Cơ sở hạ tầng xã hội ở đây bao gồm hệ thống y tế và chăm sóc sức khỏe cho người dân, hệ thống giáo dục và đào tạo, vui chơi giải trí và các dịch vụ khác. Ngoài ra, các giá trị đạo đức xã hội, phong tục tập quán, tôn giáo, văn hóa ... cũng cấu thành trong bức tranh chung về cơ sở hạ tầng xã hội của một nước hoặc một địa phương.
Nhóm động cơ về chính sách (Thy)
Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào các nước đang phát triển không chỉ được quyết định bởi các yếu tố về kinh tế, mà còn chịu sự chi phối của các yếu tố chính trị. Sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô, kết hợp với các ổn định về chính trị được xem là rất quan trọng. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy mối quan hệ rất chặt chẽ giữa ổn định về chính trị với việc thu hút đầu tư nước ngoài. Chính sách cởi mở và nhất quán của chính phủ cũng đóng một vai trò rất quan trọng.
Đánh giá thực tế ở Việt Nam
Lợi thế thu hút
Có thể nói trong thời gian vừa qua Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có sức hút lớn đối với FDI. Để tạo được sức hút lớn như vậy phải kể đến những thuận lợi sau:
Môi trường xã hội và chính trị ổn định:
Sự ổn định về chính trị và xã hội là yêu cầu đầu tiên quan trọng nhất, quyết định đối với việc thu hút đầu tư. Một quốc gia có môi trường chính trị ổn định thì các nhà đầu tư mới yêu tâm đầu tư. Nếu môi trường không ổn định, thường xuyên có bạo loạn thì khó có thể bảo toàn vốn cũng như không thể tiến hành sản xuất kinh doanh để sinh lời.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước, nền chính trị xã hội của nước ta luôn ổn định. Theo đánh giá của các nhà đầu tư thế giới thì Việt Nam được coi là nước có sự ổn định về chính trị và xã hội đặc biệt cao, không tiềm ẩn xung đột về tôn giáo và sắc tộc. Đó là điều kiện cơ bản để đảm bảo cho sự phát triển của kinh tế đối ngoại, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài.
Đường lối đối ngoại mở rộng và tích cực:
Cùng với sự ổn định về chính trị-xã hội ,Việt Nam có đường lối đối ngoại mở rộng, đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược mở cửa hướng về xuất khẩu, mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư nước ngoài. Với phương châm “Việt nam muốn làm bạn và đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”, nước ta đã chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình thích hợp và thực hiện đúng các cam kết quốc tế trong quan hệ đa phương và song phương. Việt Nam đã là thành viên thứ 7 của ASEAN (Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á) từ ngày 28/7/1995, gia nhập APEC (Diễn đàn Hợp Tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương) tháng 11/1998, là thành viên đầu tiên của ASEM (Diễn đàn Hợp Tác Á-Âu), và là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương Mại thế giới (WTO) từ ngày 7/11/2006. Hiện nay, chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước, quan hệ buôn bán với hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ và tiếp nhận đầu tư của gần 80 quốc gia. Chính việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện cần thiết và thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài.
Có những lợi thế so sánh:
Việt Nam có vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi: Nằm ở vị trí trung tâm của vùng Đông Nam Á. Các tuyến đường hàng không và hàng hải trên thế giới đều rất gần Việt Nam, tạo điều kiện cho giao thương buôn bán với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nguồn tài nguyên vô cùng đa dạng và đứng thứ 7 trong số 15 quốc gia giàu tài nguyên nhất thế giới. Thêm vào đó, Việt Nam là nước có dân số đông nên có lực lượng lao động dồi dào (tính đến ngày 1/4/2009, dân số nước ta đứng thứ 3 Đông Nam Á và thứ 13 trên thế giới), lao động Việt Nam cần cù sáng tạo trong công việc, nhân công giá rẻ. Bên cạnh đó, Việt Nam là một nền kinh tế đang phát triển với tốc độ tăng GDP ấn tượng trung bình trên 7% trong suốt từ năm 1988 đến 2008, chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế 2008 nhưng Việt Nam vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng 5.3% có dấu hiệu hồi phục mạnh mẽ, dự đoán tốc độ tăng trưởng là 6.5% .
Với những thuận lợi trên Việt Nam được đánh giá là một trong những điểm đến thật sự hấp dẫn cho các nhà đầu tư.
Hạn chế
Bên cạnh những thuận lợi trên vẫn tồn tại những khó khăn hạn chế việc thu hút đầu tư vào nước ta.
Nền kinh tế thị trường còn sơ khai:
Hơn 20 năm qua nền kinh tế của Việt Nam đã thành công trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường của Việt Nam còn rất sơ khai.
Thị trường hàng hoá dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực (hàng giả, hàng lậu, hàng nhái nhãn hiệu làm rối loạn thị trường…).
Thị trường tiền tệ và thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc trở. Rất nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn nhưng không vay được vì vướng về thủ tục. Trong khi nhiều ngân hàng thương mại lại không thể cho vay nên để dư nợ quá hạn đến mức báo động. Thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động nhưng vẫn còn thiếu “hàng hoá” để mua bán và chưa được kiểm soát chặt chẽ.
à Trình độ sơ khai của nền kinh tế thị trường của Việt Nam chưa đủ đảm bảo cho một môi trường đầu tư thuận lợi, chưa thực sự có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Sự yếu kém này đang đặt ra thách thức lớn đối với chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam
Năng lực của doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế:
Mối liên kết lỏng lẻo giữa khu vực FDI và khu vực kinh tế nội địa là một điểm yếu của nền kinh tế nước ta. Công nghệ phụ trợ yếu kém, trong nhiều lĩnh vực, để có thể xuất khẩu được thì cần nhập khẩu tới 70-80% nguyên liệu từ nước ngoài. Các đối tác Việt Nam phần lớn tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước mà trình độ năng lực của các doanh nghiệp này còn nhiều hạn chế và yếu kém. Theo kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu Kinh Tế Trung Ương và Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật bản cho thấy phần lớn các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2 - 3 thế hệ: 80% - 90% công nghệ nước ta đang sử dụng là công nghệ ngoại nhập. Có 76% máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ 1950 - 1960, 75% số thiết bị đã hết khấu hao, 50% là đồ tân trang. Rất nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang sử dụng máy móc, thiết bị do các doanh nghiệp nước ngoài đã thải bỏ. Các hoạt động R&D (Nghiên cứu và Phát triển) chưa thực sự được các công ty trong nước quan tâm một cách thích đáng. Phần lớn chỉ giành một phần kinh phí rất hạn hep cho hoạt động này. Công tác nghiên cứu thị trường còn rất yếu kém.
Sự lạc hậu về công nghệ và kỹ thuật sẽ tạo ra chất lượng sản phẩm thấp và không ổn định làm hạn chế năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp nội địa
à Với quy mô còn nhỏ bé, lại yếu kém về năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp Việt Nam chưa trở thành các đối tác thực sự tin cậy và ngang tầm để các nhà đầu tư tin tưởng đặt quan hệ làm ăn lâu dài. Mặc khác làm hạn chế tác dụng lan tỏa của FDI đối với các doanh nghiệp trong nước, tăng chi phí kinh doanh của các doanh nghiệp FDI. Đây cũng là khó khăn trở ngại rất lớn mà chúng ta cần phấn đấu để nhanh chóng vượt qua.
Hệ thống pháp luật còn nhiều nhược điểm:
Tính minh bạch, nhất quán và ổn định của của luật pháp là nhược điểm lớn nhất, đồng thời cũng là đòi hỏi của nhà đầu tư nước ngoài. Tình trạng không nhất quán và không ổn định của luật pháp kéo theo những thay đổi khó lường trước đối với doanh nghiệp và làm cho một số nhà đầu tư không thể thực hiện được những dự tính ban đầu của mình.
Sự mâu thuẫn và chồng chéo giữa các luật với nhau, giữa luật và pháp lệnh, nghị định, thông tư đã làm cho các đối tượng thi hành luật gặp nhiều khó khăn, đồng thời cũng chính là kẽ hở để các tổ chức và cá nhân lách luật trong các hoạt động không hợp pháp.
Tình trạng “phép vua thua lệ làng” là khá phổ biến trong việc một số cơ quan trung ương và chính quyền địa phương tự ý ban hành các văn bản trái với luật hoặc không thi hành luật.
Hiện tại thì hệ thống luật của Việt Nam còn nhiều mâu thuẫn và chưa phù hợp với các cam kết quốc tế đã tham gia. Yêu cầu này đã được đặt ra cách đây nhiều năm song nhiệm vụ sửa đổi này tiến hành rất chậm so với tiến độ đặt ra.
Một số nhà đầu tư vào thị trường bất động sản cho biết, cùng một dự án như nhau, nếu như ở Trung Quốc hay Thái Lan chỉ cần 1-2 năm để hoàn tất, thì Việt Nam tốn gấp đôi thời gian vì thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp.
Cơ sở hạ tầng yếu kém:
Cơ sở hạ tầng yếu kém, và quá tải là một trong những yếu tố làm nản lòng các nhà đầu tư.
Tình trạng mất điện đột ngột, không báo trước, hay nhiều tuyến đường giao thông huyết mạch thường xuyên bị tắc nghẽn, hàng hóa bị ách tắc ở cảng…là những điều được phản áng nhiều lần nhưng vẫn không được cải thiện.
Mặc dù hạ tầng cơ sở đã được cải thiện trong những năm qua nhưng khả năng sẵn có và chất lượng kết cấu của Việt Nam vẫn dưới mức trung bình trong khu vực.
Khi giá nguyên liệu biến động khó lường, có thể nhiều nhà đầu tư sẽ phải định vị lại địa điểm đầu tư gần những thị trường tiêu thụ chính để giảm chi phí vận chuyển, và khi ấy Việt Nam không thể tận dụng được một số lợi thế có sẵn của mình.
Do đó mà, việc tăng cường chất lượng cơ sở hạ tầng để giảm chi phí cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp FDI nói riêng là yêu cầu cấp bách không chỉ để thu hút thêm các dự án FDI mới mà còn để giữ chân các dự án hiện hữu.
Tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực có kĩ năng, lành nghề vẫn chưa được khắc phục, thậm chí ngày càng rõ rệt, không chỉ ở các khu kinh tế mới hình thành mà còn ở cả những trung tâm công nghiệp như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương… Mặt hạn chế này đã tồn tại từ các giai đoạn trước nhưng trong thời gian gần đây càng trở nên bức xúc hơn trong điều kiện nhiều dự án Đầu tư nước ngoài (ĐTNN), đặc biệt là các dự án lớn đi vào triển khai thực hiện.
Công tác giải phóng mặt bằng là mặt hạn chế chậm được khắc phục của môi trường đầu tư của ta. Trên thực tế, công tác quy hoạch sử dụng đất đã được các địa phương quan tâm nhưng vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ với quy hoạch ngành, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương nói chung và thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI nói riêng.
Bên cạnh đó nền kinh tế thế giới tuy đã có dấu hiệu vượt qua khủng hoảng nhưng sự phục hồi diễn ra chậm, vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do đó, vẫn còn có nhiều khó khăn, trở ngại đối với các nhà đầu tư lớn trong việc triển khai các dự án đầu tư ra nước ngoài.
Tóm lại, kể từ khi Việt Nam ban hành Luật Đầu tư Nước ngoài (1987) thì con đường để các nhà đầu tư vào Việt Nam đã được khai thông. Việt Nam đã đạt được một số kết quả nhất định trong việc thu hút vốn FDI về tổng số vốn đầu tư, số dự án, số lượng nhà đầu tư. Nguồn vốn FDI này cũng có tác động rất lớn đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều nguyên nhân khiến cho môi trường đầu tư trở nên kém hấp dẫn. Để tăng cường thu hút vốn FDI Việt Nam cần có những giải pháp đồng bộ và nhất quán.
Vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với Việt Nam trong giai đoạn vừa qua
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội . Đối với Việt Nam đầu tư nước ngoài là kênh vốn quan trọng góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ huy động vốn trong nước thông qua kênh tiết kiệm và các khoản thu của Nhà nước không đáp ứng đủ nhu cầu vốn đầu tư. Hiện nay, tỷ lệ huy động của Việt Nam khoảng 22% GDP, trong khi đó tỷ lệ vốn đầu tư phải 30-35% GDP. Khoản lệch này nếu không tìm được nguồn vốn nước ngoài thì sẽ tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đồng thời tình trạng nhập siêu không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá đất nước đã dẫn đến sự thiếu hụt ngoại tệ trong một thời gian dài. Cả hai vấn đó có thể được giải quyết bằng cách thu hút vốn nước ngoài, mà nguồn vốn đầu tư trực tiếp ( FDI ) chính là 1 trong những nguồn vốn quan trọng hàng đầu
Thứ hai, đầu tư trực tiếp đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Để tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế, thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế của mình cho phù hợp. Mặt khác, sự gia tăng của hoạt động đầu tư nước ngoài làm xuất hiện nhiều ngành mới, lĩnh vực mới. Góp phần thúc đẩy sự phát tiển nhanh chóng trình độ kĩ thuật-công nghệ của nhiều ngành kinh tế, thúc đẩy sự gia tăng năng suất lao động ở các ngành này và tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế. Thông qua các dự án đầu tư FDI nhiều công nghệ mới, hiện đại đã đưa vào sử dụng ở Việt Nam trong các ngành tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí, ngành bưu chính viễn thông, sản xuất vi mạch điện tử, sản xuất máy tính, hóa chất, sản xuất ô tô, thiết kế phần mềm… những dự án này góp phần đáng kể tăng khả năng cạnh tranh của công nghệ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Thứ ba, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần thu hút thêm lao động, giải quyết nạn thất nghiệp ở các nước ta. Số lượng lao động làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng Một số lượng đáng kể các nhà quản lý kinh doanh và người lao động được đào tạo trong và ngoài nước góp phần làm chất lượng lao động tăng lên, đây là nhân tố quan trọng góp phần làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh
Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài thường đòi hỏi nguồn lao động có chất lượng cao, do đó sự gia tăng các dự án đầu tư nước ngoài đã đặt ở các nước sở tại trước yêu cầu khách quan là phải nâng cao chất lượng, trình độ chuyên môn kỹ thuật , trình độ ngoại ngữ... cho người lao động.
Thứ tư, hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài đã góp phần tăng tỷ trọng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán, cán cân vãng lai, tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, với hoạt động xuất khẩu các dự án đầu tư FDI góp phần cải thiện cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam.
Thứ năm, đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp đẩy mạnh tốc độ phát triển nền kinh tế, đưa nền kinh tế các nước này hội nhập nhanh với nền kinh tế thế giới. Tận dụng, tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang phát triển đã sử dụng để thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế nhằm đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói.
Một số lượng lớn các công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới đầu tư vào Việt Nam, chính những dự án này đã có tác động không nhỏ tới thay đổi cơ chế chính sách quản lý kinh tế Việt Nam theo hướng hội nhập quốc tế, chúng tác động đến xóa bỏ sự bao vây, cấm vận quốc tế đối với Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam hội nhập vào thị trường thế giới 1 cách mạnh mẽ
Các giải pháp vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Giải pháp về nhân tố kinh tế
- Đẩy nhanh việc thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho đầu tư nước ngoài.
- Rà soạn có hệ thống các loại phí, lệ phí đang áp dụng liên quan đến quá trình hoạt động của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, bãi bỏ các loại phí không cần thiết. Giảm các chi phí đầu vào (điện, viễn thông, dịch vụ cảng…) bằng hoặc thấp hơn các nước trong khu vực để giảm giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu. Kiến nghị sửa đổi những bất hợp lý về thuế thu thập doanh nghiệp, thuế thu thập cá nhân liên quan đến đầu tư nước ngoài.
Giải pháp chính sách
Sự mềm dẻo, hấp dẫn của hệ thống chính sách khuyến khích ĐTNN.
Chính sách thương mại cần thông thoáng theo hướng tự do hóa để bảo đảm khả năng xuất - nhập khẩu các máy móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất, cũng như sản phẩm, tức bảo đảm sự thuận lợi, kết nối liên tục các công đoạn hoạt động đầu tư của các nhà ĐTNN.
Chính sách tiền tệ phải giải quyết được các vấn đề chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Chính sách lãi suất và tỷ giá tác động trực tiếp đến dòng chảy của FDI với tư cách là những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định. Việc xem xét sự vận động của vốn nước ngoài ở các nước trên thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư dài hạn, nhất là FDI đổ vào một nước thường tỷ lệ thuận với sự gia tăng lòng tin của các chủ đầu tư, đồng thời lại tỷ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi suất trong -ngoài nước, trong - ngoài khu vực. Nếu độ chênh lệch lãi suất đó càng cao, tư bản nước ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu cho vay ngắn hạn, ít chịu rủi ro và hưởng lãi ngay trên chỉ số chênh lệch lãi đó. Hơn nữa, khi mức lãi suất trong nước cao hơn mức lãi suất quốc tế, thì sức hút với dòng vốn chảy vào càng mạnh. Tuy nhiên, đồng nghĩa với lãi suất cao là chi phí trong đầu tư cao, làm giảm đi lợi nhuận của các nhà đầu tư. Một tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ở từng giai đoạn thì khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu càng lớn, sức hấp dẫn với vốn nước ngoài càng lớn. Một nước có mức tăng trưởng xuất khẩu cao sẽ làm yên lòng các nhà đầu tư vì khả năng trả nợ của nước đó được bảo đảm hơn, độ mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm xuống.
Các mức ưu đãi tài chính - tiền tệ dành cho vốn ĐTNN trước hết phải bảo đảm cho các chủ đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận cao nhất trong điều kiện kinh doanh chung của khu vực, của mỗi nước để khuyến khích họ đầu tư vào trong nước và vào những nơi mà Chính phủ muốn khuyến khích đầu tư.
Những ưu đãi về thuế chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong số các ưu đãi tài chính giành cho ĐTNN. Mức ưu đãi thuế cao hơn luôn được giành cho các dự án đầu tư có tỷ lệ vốn nước ngoài cao, qui mô lớn, dài hạn, hướng về thị trường nước ngoài, sử dụng nhiều nguyên vật liệu và lao động trong nước, tái đầu tư lợi nhuận và có mức độ "nội địa hóa" sản phẩm và công nghệ cao hơn.
Hệ thống thuế thi hành sẽ càng hiệu quả nếu càng rõ ràng, đơn giản, dễ áp dụng và mức thuế không được quá cao (so với lãi suất, lợi nhuận bình quân, so với mức thuế chung của khu vực và quốc tế...). Các thủ tục thuế, cũng như các thủ tục quản lý ĐTNN khác, phải được tinh giản hợp lý, tránh vòng vèo nhiều khâu trung gian, phải công khai và thuận lợi cho đối tượng chịu quản lý và nộp thuế. Tự do hóa đầu tư càng cao càng thu hút được nhiều vốn nước ngoài.
Sự hỗ trợ tín dụng (ở nhiều nước, Chính phủ đã lập ra các Quĩ hỗ trợ ĐTNN để hỗ trợ tín dụng cho các nhà đầu tư, nhất là cho những dự án thuộc diện khuyến khích đầu tư), cùng với các dịch vụ tài chính, bảo lãnh của Chính phủ, của các cơ quan tín dụng xuất khẩu và của các tổ chức tài chính đa phương như Ngân hàng thế giới (WB) đã, đang và sẽ đóng vai trò to lớn làm tăng dòng vốn nước ngoài, nhất là FDI tư nhân vào các nước và khu vực, (trong đó có Việt Nam nói chung, Hà Nội nói riêng), đặc biệt vào lĩnh vực hạ tầng.
Như vậy, một khi các rủi ro giảm xuống, tỷ lệ lợi nhuận tăng lên, thì các luồng vốn nước ngoài sẽ đổ vào nhiều và ổn định ngay cả khi tốc độ tăng trưởng chung của nước đó chậm lại. Ngược lại, tư bản nước ngoài sẽ thận trọng hơn, thậm chí bỏ chạy nếu nước tiếp nhận đầu tư có "độ tin cậy thấp về tín dụng" - một chỉ số tổng hợp của các yếu tố như: Rủi ro chính trị cao, phát triển kinh tế chậm, xuất khẩu kém, nợ cao và bất ổn định kinh tế vĩ mô. Khi đó, dù những ưu đãi tài chính rất cao được đưa ra cũng khó hấp dẫn được các nhà ĐTNN vốn năng động, thận trọng, luôn mong muốn và thường có nhiều cơ hội lựa chọn thị trường đầu tư như ý trên toàn thế giới. (Nguồn: Các động lực và nhân tố chủ yếu tác động tới thu hút FDI –Nguyễn Thị Kim Nhã)
Giải pháp về tài chính, ngoại hối
Trong chính sách khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài của các nước, các khuyến khích về tài chính luôn chiếm vị trị quan trọng và luôn được n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc trang va giai phap thu hut von dau tu nuoc ngoai.doc