Đề tài Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

MỤC LỤC

 

MỞ ĐẦU trang

1. Tính cấp thiết của đề tài 1

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2

3. Phạm vi nghiên cứu 2

4. Phương pháp nghiên cứu 3

5. Cơ cấu của niên luận 3

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHÂP KINH DOANH - THƯƠNG MẠI 4

1.1.Khái quát về tranh chấp kinh doanh thương mại 4

1.1.1.Khái niệm và đặc điểm 4

1.1.2.Các hình thức giải quyết tranh chấp KDTM 6

1.2.Quy định của pháp luật về các phương thức giải quyết tranh chấp trong KDTM 15

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GÓP PHẦN HOÀN THIỆN 18

2.1.Thực trạng áp dụng các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Việt Nam 18

2.1.1.Tinh hình kinh tế xã hội ở Việt Nam 18

2.2.2.Thực tiển hoạt động giải quyết tranh chấp ở Việt Nam trong thời gian qua 19

2.2.Một số đề xuất 26

KẾT LUẬN 28

TÀI LIỆU THAM KHẢO 29

 

 

doc36 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9703 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
manh, kết quả thương lương thương bế tắc. Ngoài ra, kết quả thương lượng không được đảm bảo bằng cơ chế pháp lý mang tính bắt buộc . Kết quả thương lượng phụ thuộc vào sự tự nguyên của các bên phải thi hành. Nếu một bên không tự nguyên thi hành thì kết quả thương lượng cững chỉ tồn tại trên giấy mà không có cơ chế trưc tiếp nào bắt buộc thi hành. Nhưng hạn chế này đễ bị lạm dụng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp KDTM. Nhiều trường hợp do thiếu sự thiện chí mà đã tìm mọi cách trì hoãn kéo dài vụ tranh chấp, nhất là khi thời hiệu khởi kiện không còn nhiều. Hoà giải Hoà giải là phương thức giải quyết tranh chấp KDTM mà trong đó các bên trong đó các bên trong quá trình thương lượng với nhau có sụ tham gia của các bên thứ ba độc lập do hai bên cung chấp nhận hay chỉ định làm vai trò trung gian để hỗ trợ cho các bên nhằm tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giai quyết xung đột bất đồng để chấm dứt các tranh chấp các tranh chấp phát sinh giữa các bên tham gia quan hệ. Hoà giải là giải pháp mang tính tự nguyện, tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của các bên. Đặc biệt là bên thứ ba với tính chất trung gian hoà giải phải có vị trí độc lập đối với các bên. Điều đó thể hiện rõ bên thứ ba không ở vị trí xung đột lợi ích với các bên hoặc không có những lợi ích gắn liền với lợi ích của một trong các bểntong các vụ việc đang có tranh chấp. Bên thứ ba tham gia làm trung gian hoà giải thường là những cá nhân, tổ chúc có trình độ chuyên môn cao và có kinh nghiệm về những vụ việc có liên quan đến các vụ việc phát sinh. Công việc của bên thứ ba là; xem xét, phân tích, đánh giá và dưa ra những ý kiến, nhận định , bình luận về chguyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ để các bên tham khảo lựa chọn và quyết định. Bản chất của hoà giải được thể hiện qua những đặc trưng sau đây: Thứ nhất, việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong KDTM bằng phương pháp hoà giải đã có sụ hiện diện của bên thứ ba (do các bên lựa chọn) làm trung gian để trợ giúp các bên tìm kiếm giải pháp tối ưu nhằm loại trừ tranh chấp. Điểm khác biệt cơ bản giữa hoà giải và thương lượng là trong hoà giải luôn có sụ xuất hiện của người thứ ba tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp còn thương lượng là sự tự giải quyết tranh chấp giữa các bên mà không có sụ hiện diện của người thứ ba. Tuy nhiên, bên thứ ba làm trung gian hoà giải không có quyền quyết định hay áp đặt bất cứ vấn đề gì nhằm ràng buộc các bên tranh chấp. Quyết định cuối cùng vẫn thuộc về các bên tranh chấp khi họ thống nhất được ý chí với nhau về giải quyết vụ tranh chấp trên cơ sở hướng dẫn, trợ giúp của người thứ ba làm trung gian hoà giải. Tuy cùng có sụ tham gia của người thứ ba vào quá trình giải quyết tranh chấp nhưng hoà giải khác với phương thức giải quyết tranh chấp thương mại trọng tài hay Tòa án bởi vai trò của người thứ ba. Trong tài hay Tòa án với vai trò là người thứ ba tham gia vào giải quyết vụ tranh chấp lại có thẩm quyền ra phán quyết để ràng buộc các bên tranh chấp. Thứ hai, quá trình hoà giải các bên tranh chấp cũng không chịu sự chi phối bởi các quy định có tính khuôn mẫu, bắt buộc của pháp luật về thủ tục hoà giải. Cũng giống như thương lượng, pháp luật hiện hành của Việt Nam, không có quy định nào ràng buộc, chi phối đến cơ chế hoà giải ngoài các quy định có tính chất ghi nhận thương lương, hoà giải là những phương thức giải quyết tranh chấp được các bên ưu tiên lựa chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh. Thứ ba: kết quả hoà giải thành được thực thi cũng hoàn toàn phụ thuộc vào sụ tự nguyện của các bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào bảo đảm thi hành những cam kết của các bên trong quá trình hoà giải. Cũng giống như thương lượng giải quyết tranh chấp bằng hoà giải thực chất vẫn được thưc hiện bởi cơ chế tự giải quyết và hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện của các bên tranh chấp. Để tiến hành hoà giải đạt hiệu quả mong muốn, thông thương các bên tranh chấp cần tiền hành các bước sau: Các bên tranh chấp trao đổi thông tin, tài liệu những vấ đề có liên quan đẻ làm rõ yêu cầu cũng như khả năng, vị thế của mỗi bên (hoặc các bên) làm trung gian hoà giải (hội đồng định giá, giám định viên…) nếu các bên chưa có thoả thuận hoặc mới có thoả thuận mang tính nguyên tắc về trung gian hoà giải. Các bên có thể xác định một thủ tục (quy trình) tiến hành hoà giải qua trung gian. Các bên trình bày ý kiến, quan đển của mình về nội dungvụ tranh chấp, lắng nge ý kiến của người khác và đề xuất phương án giải quyết tranh chấp. Người trung gian hoà giải xem xét, phân tích đánh giá các tình tiết của vụ việc, làm sang tỏ vị thế của các bên tranh chấp. Khi cầ thiết người trung gian có thể gặp gỡ, trao đổi riêng với các bên để phân tích thuyết phục các bên. Các ý kiến, nhận xét và giải pháp của người trung gian chỉ có tính chất khuyến nghị, tham vấn đối với các bên tranh chấp. Trên cơ sở nhưng phân tích đánh giá và khuyến nghị của người trung gian hoà giải về các giải pháp cầ lụa chọn, nếu các bên thoả thuận được với nhau về phương án giải quyết tranh chấp thì nội dung sự thoả thuận phải được ghi nhận bằng văn bản có đầy đủ chũ ký của đại diện các bên và người trung gian hoà giải. Văn bản thoả thuận này có giái trị rang buộc các bên và các bên phải tôn trọng, tự nguyện thực hiện cam kết. * Giải quyết tranh chấp KDTM bằng hoà giải cũng có những ưu điểm như thương lượng bởi tính đơn giản thuận tiện, nhanh chóng, sự linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém. Bên cạnh đó thì hoà giải còn có ưu điểm vượt trội được mang lại bởi có sự tham gia của người thứ ba trong quá trình giải quyết tranh chấp. Người thứ ba thường là người có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm, am hieeur lĩnh vực và vắn đề đang tranh chấp. Khi hiểu rõ được nguyên nhân, hoàn cảnh phát sinh mâu thuẫn cũng như quan điểm nhận thức của các bên, họ sẽ biết cách làm cho ý chí của các bên dễ gặp nhau trong quá trình dàm phán để lọai trừ tranh chấp. Ngoài ra, kết quả hoà giải được ghi nhận và chứng kiến của bên thứ ba. Nên mức độ tự nguyên thực hiện của các bên cung cao hơn so với phương thức thương lượng. * Bên cạnh đó thì hoà giải cũng có những hạn chế bởi nền tảng của hoà giải vẫn được quyết định trên cơ sở tự nguyện thi hành của các bên. Bởi vậy, dù có sự trợ giúp của người thứ ba làm trung gian hoà giải mà một bên không trung thực, thiếu thiện chí, hợp tác trong quá trình đàm phán thì hoà giải cũng khó đạt được kết quả cao. Bên cạnh đó, thì trong quá trình hoà giải các bên phải trao đổi, cung cấp thông tin cho người thứ ba về hoạt động kinh doanh của mỗi bên liên quan đến vụ tranh chấp nên uy tín cũng như bí mặt kinh doanh của mỗi bên dễ bị ảnh hưởng. Cũng như chi phí bỏ ra cho khoản dịch vụ phí cho người thứ ba làm trung gian hoà giải. Trọng tài thương mại Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hinh thức, đó là trọng tài vụ việc và trọng tài thương trực. Trọng tài vụ việc: là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thoả thuận thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ tự chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp Bản chất của trọng tài vụ việc được thể hiện qua đặc trưng sau đây; Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt hoạt động khi giải quyết xong tranh chấp. Thứ hai, trọng tài vụ việc không có trụ sở thương trực, không có bộ máy điều hành và không có danh sách trọng tài viên riêng. Thứ ba, trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình. So với trọng tài thường trực trọng tài vụ việc có một số ưu thế sau: Có thể giải quyết một cách nhanh chóng vụ tranh chấp và ít tốn kém, bởi xét cho cùng trọng tài vụ việc vẵn chủ yếu phụ thuộc vào ý chí của các bên tranh chấp. Quyền lựa chọn trọng tài viên của các bên đương sự không bị giới hạn bởi danh sách trọng tài viên sẵn có như hình thức trọng tài thường trực mà có thể lựa chọn bất kỳ trọng tài viên nào trong và ngoài danh sách trọng tài viên của bất kỳ trung tâm trọng tài nào. Các bên tranh chấp có quyền rộng rãi trong việc xác định quy tắc tố tụng để giải quyết tranh chấp giữa các bên. Trọng tài thường trực: Theo pháp luật Việt Nam trọng tài thường trực dưới dạng các trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và trụ sở giao dịch ổn định. Các trung tâm trọng tài có một số đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước. Các trung tâm trọng tài được thành lập theo sang kiến của các trọng tài viên sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, chứ không phải được thành lập bởi nhà nước. Hoạt động của trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải. Chứ không được cấp kinh phí từ ngân sách nhà nước. Trọng tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài không nhân danh quyền lực mà nhân danh người thứ ba độc lập phán quyết. Là tổ chức phi chính phủ nhưng các trung tâm trọng tài vẵn luôn đặt dưới sự quản lý của nhà nước. Nhà nước là chủ thể quản lý đối với mọi mặt của đồi sống xã hội. Nhà nước quản lý đối với các trung tâm trọng tài thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của các trung tâm trọng tài. Việc quản lý của nhà nươc còn được thực hiện thông qua hoạt động quản lý của hệ thống các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc cấp,thay đổi, bổ sung, hay thu hồi giấy phếp thành lập, giấy đăng ký hoạt động của các trung tâm trọng tài… Trong quá trình hoạt động cảc trung tâm trọng tài cũng cần có sụ hỗ trợ của nhà nước trên nhiều phương diện. Như: hỗ trợ chỉ định, thay đổi trọng tài viên, hỗ trợ trong việc xem xét lại quyết định của trọng tài, hỗ trợ trong việc quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, hỗ trợ trong việc huỷ hay không huỷ quyết định trọng tài, hỗ trợ trong việc cương chế thi hành quyết định trọng tài… Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau. Trung tâm trọng tài là tổ chức thoả mãn các điều kiện của pháp nhân, bao gồm: Được thành lập hợp pháp; Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiêm bằng tài sản đó; Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Mỗi trung tâm trọng tài là một pháp nhân, tồn tại độc lầp và bình đẳng với các trung tân trọng tài khác. Giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên, cấp dưới như hệ thống cơ quan tài phán. Nên đặc thù của tố tụng trọng tài là áp dụng nguyên tắc xét xử một lần. Thứ ba, tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ cấu của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trong tài viên của trung tâm. Thứ tư, mỗi trung tân trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố tụng riêng. Thứ năm, hoạt động xét xử của trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài viên của trung tâm Tòa án Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp KDTM tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của Tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Ở các nước khác nhau, có thể có sự khác nhau trong việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp KDTM. Một số nước (Mỹ, Nhật, Hà lan…) trao thẩm quyền xét xử mọi tranh chấp, trong đó có các tranh chấp trong thương mại cho Tòa án thường (Tòa án dân sự). Một số nước khác lại trao thẩm quyền xét xử tranh chấp thương mại cho toà thương mại – Toà chuyên trách trong cơ quan tư pháp (Đức, Pháp, Áo, Bỉ…) Các toà thương mại chỉ xét xử sơ thẩm, nếu có kháng án sẽ được đưa ra xét xử tại toà thượng thẩm dân sự. Có nước thành lập hệ thống Tòa án độc lập gọi là Tòa án trọng tài để giải quyết tranh chấp như Cộnh hoà liên bang Nga. Ở nước ta, tranh chấp thương mại chủ yếu thuộc thẩm quyền xết xử của toà kinh tế- Toà chuyên trách trong hệ thống Tòa án nhân dân. Thẩm quyền của Tòa án về giải quyết các tranh chấp trong KDTM được pháp luật phân định theo cấp Tòa án, theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn. 1.2. Quy định của pháp luật về các phương thức giải quyết tranh chấp trong KDTM Giải quyết tranh chấp trong KDTM bằng thương lượng, hoà giải và trọng tài là các phương thức giải quyết tranh chấp không mang ý chí quyền lực nhà nước. Không nhân danh quyền lực nhà nước như phán quyết của Tòa án. Mà chủ yếu được giải quyết dựa trên nền tảng ý chí tự định doạt của các bên tranh chấp hoặc phán quyết của bên thứ ba độc lập (được các bên lựa chọn) theo thủ tục linh hoạt mềm dẻo. Trong khi đó Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại mang ý nghĩa quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự thủ tục chặt chẽ. Cụ thể: a.Thẩm quyền theo vụ việc Theo Điều 29 Bộ luât tố tung dân sự năm 2004, có bốn nhóm tranh chấp về KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bao gồm: 1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM giữa cá nhân, tỏ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: a) Mua bán hàng hoá; b) Cung úng dịch vụ; c) Phân phối; d) Ký gửi; e)Thuê; cho thuê, thuê mua; f) Xây dựng; g) Tư vấn kỹ thuật; h) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; i) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đương biển; j) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu, và giấy tờ có giá khác; k) Đầu tư, tài chính, ngân hàng; l) Bảo hiểm; m) Thăm dò, khai thác; 2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. 3. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sát nhập, hợp nhất, chia tách, chuyển đổi hình thức tổ chứ của công ty. 4. Các tranh chấp khác nhau về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định. b. Thẩm quyền theo cấp Tòa án Ở Việt Nam có hai cấp Tòa án tiến hành xét xử sơ thẩm là Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh. Tòa án cấp huyện: Có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về KDTM từ điểm a đến điểm l Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án cấp tỉnh: Có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về KDTM thuộc thẩm quyền của Tòa án còn lại, trù nhưng tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện. Khi cần thiết Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết những tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện. c. Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ Khi đã xác định tranh chấp được giải quyết tại Tòa án cấp nào, còn phải xác định Tòa án ở địa phương nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ và thi hành án, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sụ năm 2004 quy định: có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án về KDTM là Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc của bị đơn (nếu bị đơn là cá nhân) hoặc nơi bị đơn có trụ sở (nếu bị đơn là cơ quan tổ chức). Để đảm bảo quyền tự định doạt của các bên, pháp luật tố tụng còn quy định các bên có tranh chấp cũng có quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn (nếu nguyên đơn là cá nhân) hoặc nơi nguyên đơn có trụ sở (nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức) giải quyết vụ án. Trường hợp vụ án liên quan đến bẩt động sản thì Toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết. d. Thẩm quyền xết xử theo sự lựa chọn của nguyên đơn Trong thực tế khi xác định thẩm quyền của toà án theo cấp nào và theo lãnh thổ sẽ có trường hợp có nhiều Toà án cùng có thẩm quyền giải quyết một vụ án. Chính vì vậy để bảo vệ quyền và lợi ích hợp phap của nguyên đơn khi tiến hành khởi kiện pháp luật còn quy định nguyên đơn có quyền lụa chọn Toà án để yêu cầu giải quyết vụ án trong trường hợp sau đây: Toà án nơi có tài sản, nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú côia cùng cử bị đơn giải quyết. Nếu tranh chấp phát sinh từ chi nhánh của tổ chức thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Toà án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chứ có chi nhánh giải quyết. Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết. Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau, thì nguyên đơn có thể yêu cầu của Toà án một trong các bị đơn cư trú, làm việc có trụ sở giải quyết. Nếu tranh chấp đến bất động sản mà bất động sản ở nhiều nơi khác nhau,thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có một trong các bất động sản giải quyết. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GÓP PHẦN HOÀN THIỆN 2.1. Thực trạng áp dụng các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Việt Nam. 2.1.1. Tình hình kinh tế xã hội ở Việt Nam Cùng với những bước tiến của nền kinh tế được ghi nhận, trong thời gian qua theo chủ trương hội nhập. Nền kinh tế đất nước ta đã có những tác động mạnh mẽ. Theo báo cáo công bố tình hình kinh tế xã hội quý I năm 2010 của bộ kế hoach đầu tư tài cuộc họp kinh tế, nước ta vẫn tiếp tục đã phục hồi của những quý cuối năm 2009. Với GDP trong nước đạt 5,83% gấp 1,9 lần tốc độ tăng trong quý I/2009. Đáng chú ý là sự phục hồi xảy ra ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực kinh tế then chốt: già trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,8 %; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,6 %; thị trường trong nước tiếp tục phatf triển ổn định, với tốc độ phát triển cao, trong đó, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế tăng 24,1%, họt động du lịch sôi nổi, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng 36,2% so với năm trước; thực hiện vốn đầu tư ước tính tăng 26,3% so với pphungf kì năm trước đặc biệt là khu vực ngoài nhà nước tăng tới 46,38%;… Tuy nền kinh tế vẫn kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn. Vừa có tính trước mắt vừa có tính lâu dài. Chất lượng, hiệu quả tăng trưởng hạn chế; sức cạnh tranh nền kinh tế nói chung và của nhiều ngành, nhiều loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ còn thấp. Một số cân đối kinh tế vĩ mô chưa được cải thiện dáng kể, thiếu tính bền vững. Tình hình kinh tế xã hội trong thời gian này vẫn còn những tồn tại, hạn chế, nếu không tích cực tìm những giải pháp khắc phục có hiệu quả thì sẽ ảnh hưởng rraats lớn đến việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế phát triển trong năm 2010 và các năm tiếp theo. Đặc biệt là các yếu tố do tác động từ phục hồi kinh tế, lạm phát và giá cả thế giới tăng. Gây áp lực lớn đến mặt bằng và lạm phát trong thời gian tới. Xuất khẩu giảm sút, trong khi nhập khẩu tăng làm cho nhập siêu bị đẩy mạnh, ảnh hưởng đến cân đối ngoại tệ và dự trữ ngoại hối giảm sút. Việc huy động vốn cho đầu tư và sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Hiệu quả đầu tư và hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp, trong khi đó áp lực cạnh tranh của nước ngoài trên thị trường quốc tế và cả thị trường trong nước ngày càng găy gắt hơn. Hoạt động thương mại quốc tế diễn ra trong thập kỷ 21 này được so sánh là có những khác biệt rất lớn so với 2 thập kỷ về trước. Các Doanh nghiệp hiện nay đang phải đối mặt với nhiều vấn đề khác nhau và chịu sức ép của cạnh tranh. Hoạt động KDTM hiên nay không chỉ bó hẹp trong một quốc gia mà hoạt động kinh doanh thường mại quốc tế ngày càng có phạm vi khá rộng. Chính vì vậy, các DN Việt Nam cần phải xây dựng cho mình những khả năng và sẵn sàng tận dụng các lợi thế trong kinh doanh do quá trình toàn cầu hoá mang lại. 2.1.2. Thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp ở Việt Nam trong thời gian qua Có rất nhiều lý do để các bên tranh chấp trong KDTM lựa chọn những hình thức giải quyết tranh chấp phù hợp với những yêu cầu của mình: Tranh chấp KDTM được giải quyết bằng Thương lượng Là phương thức được các bên tranh chấp lựa chọn trước tiên và trong thực tiễn phần lớn các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại được giải quyết bằng phương thức này. Nhà nước khuyến khích áp dụng phương thức tự thương lượng để giải quyết tranh chấp trên tinh thần hoàn toàn tôn trọng quyền thỏa thuận của các bên. Tuy vậy, có thể thấy rằng chỉ khi tính chất của các tranh chấp là đơn giản giá trị ( về mặt kinh tế ) của các tranh chấp là không nhiều, các bên lại có thiện chí và am hiểu pháp luật thì phương pháp này mới được sử dụng nhiều. Như thế, thông thường với những vụ việc có tính chất, mức độ và nằm trong hoàn cảnh trên thì giải quyết tranh chấp bằng thương lượng mới trở nên phù hợp và được các bên lựa chọn. Pháp luật nhiều quốc gia luôn khuyến khích các bên tranh chấp sử dụng phưng thức thương lượng để tìm kiếm sự thỏa thuận và thống nhất với nhau về cam kết trong KDTM. Thương lượng trở thành một điều kiện bắt buộc phải có trước khi các bên áp dụng các phương thức giải quyết tranh chấp khác. Tranh chấp trong KDTM là các tranh chấp rất phức tạp, thế nhưng khi các bên có thiện chí và ngồi lại với nhau để tháo gỡ bất đồng thì nó trở nên rất thuận lợi trong việc chấp dưtrs tranh chấp. Thương lượng là phương thức thể hiện thiện chí của các bên mong muốn giải quyết ổn thỏa những bất đồng một cách nhẹ nhàng và đơn giản nhất. Tranh chấp KDTM được giải quyêt bằng hòa giải: Hòa giải là một trong những biện pháp giải quyết tranh chấp thương mại ngoài tố tụng được đánh giá cao về tính hiệu quả. Tuy nhiên, ở Việt Nam, biện pháp này lại chưa được các doanh nghiệp “ưa chuộng”. Hệ thống pháp luật về hòa giải hiện hành chủ yếu điều chỉnh hoạt động hòa giải trong tố tụng và hòa giải các tranh chấp, bất đồng dân sự ở cơ sở, đời sống cộng đồng. Riêng hòa giải với tính chất là một biện pháp giải quyết tranh chấp thương mại ngoài tố tụng là một khái niệm mới được ghi nhận tại khoản 2 Điều 317 Luật Thương mại 2005. Nhưng tất cả chỉ vẻn vẹn qui định, “hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hòa giải” là hình thức giải quyết tranh chấp, mà không có văn bản hướng dẫn cụ thể khi hòa giải phải làm theo qui trình, thủ tục nào, nội dung và hiệu lực của phương thức giải quyết tranh chấp này ra sao. Chỉ duy nhất Trung tâm Trọng tài quốc tế (VIAC) đặt cạnh Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam (VCCI) là hiện thức hóa qui định tại khoản 2 Điều 317 Luật Thương mại thành Qui tắc hòa giải của VIAC (20 điều, có hiệu lực từ 10/9/2007). Nhưng cũng chỉ là bộ qui tắc “nội bộ”, áp dụng cho các DN có nhu cầu đề nghị VIAC làm trung gian hòa giải. Còn ở các trung tâm trọng tài khác nếu được DN yêu cầu làm trung gian hòa giải thì chỉ có nước “bó tay” vì không có cơ sở pháp lý. Rõ ràng, dù hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại được đánh giá là có nhiều ưu điểm về thời gian giải quyết ngắn, chi phí tương đối thấp, thủ tục đơn giản và giữ được hòa khí của các bên tranh chấp song thực tế, pháp luật lại thiếu những qui định công nhận pháp lý chế định hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại, không có thiết chế bắt buộc thực hiện kết quả hòa giải... Điều đó khiến hoạt động hòa giải tranh chấp thương mại ở nước ta thiếu đi tính chuyên nghiệp và qui định hòa giải (như một biện pháp giải quyết tranh chấp) vẫn luôn “vắng bóng” trong các hợp đồng giao thương giữa các DN trong nước với nhau và giữa DN trong nước với DN nước ngoài. GS.Kobayashi Levin (Đại học Kyushu - Nhật Bản) cho biết, sự mất cân bằng giữa hòa giải do Nhà nước và tổ chức xã hội tiến hành ở Nhật là 1/10. Vì thế, Nhật Bản đã ban hành luật về hòa giải, qui định áp dụng hình thức hòa giải trong giải quyết các tranh chấp dân sự, thương mại nhưng vì không rõ ràng nên khi áp dụng trong thực tiễn đã xuất hiện nhiều hình thức hòa giải (cả theo truyền thống Nhật Bản và phương Tây). Thực trạng này dẫn đến sự rối loạn và không phát huy được hiệu quả của biện pháp hòa giải, thậm chí tạo ra phản ứng lại việc áp dụng biện pháp hòa giải để giải quyết tranh chấp. Từ kinh nghiệm đó của Nhật Bản cho thấy, cần có luật điều chỉnh hoạt động hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại, nhưng phải cụ thể, rõ ràng, cũng như hoàn thiện cơ chế pháp lý áp dụng đối với các thiết chế tư pháp và bổ trợ tư pháp (luật sư, trọng tài thương mại, công chứng, giám định tư pháp) để hỗ trợ các DN xử lý tranh chấp khi tham gia hoạt động thương mại quốc tế. Đồng thời, để hòa giải có thể được các DN lựa chọn như một biện pháp giải quyết tranh chấp cần có cơ chế hỗ trợ tư pháp đối với việc giải quyết các tranh chấp theo hướng kết quả hòa giải có thể được tòa án có thẩm quyền công nhận để đảm bảo khả năng thi hành trên thực tế. Bên cạnh đó, cần xây dựng được một đội ngũ hòa giải viên có năng lực và các trung tâm hòa giải chuyên nghiệp. Tranh chấp KDTM được giải quyết bằng Trọng tài:  Thông tin từ Bộ Kế hoạch & Đầu tư cho biết, hiện cả nước có gần 300.000 doanh nghiệp (DN) và gần 10.000 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép hoạt động. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã dẫn đến các tranh chấp thương mại, đầu tư có yếu tố nước ngoài ngày càng trở nên phức tạp. giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế bằng phương thức Trọng tài đang được cộng đồng DN trên thế giới ưa chuộng. Bởi Trọng tài có 7 điểm ưu việt đó là: tính chung thẩm và hiệu lực của quyết định Trọng tài đối với việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế, tính bí mật, liên tục, linh hoạt, tiết kiệm thời gian, duy trì được quan hệ đối tác và cho phép các

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại và thực tiễn áp dụng taị Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan