Mục lục.
Chương I. Lý luận chung về phát hành cổ phiếu. TRANG
I. Khái niệm và phương thức phát hành cổ phiếu. 3
II. Bảo lãnh phát hành chứng khoán. 4
III. Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng(IPO). 6
IV. Niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, 9 giao dịch trên sàn OTC.
Chương II. Thực tiễn phát hành cổ phiếu ở Việt Nam. 13
I. Phát hành, giao dịch cổ phiếu trên sàn TP. HỒ CHÍ MINH 13 (sàn HOSE; chỉ số VN-INDEX).
II. Phát hành, giao dịch cổ phiếu trên sàn HÀ NỘI 20 (sàn HNX; chỉ số HNX-INDEX).
III. Phát hành, giao dịch cổ phiếu trên sàn UPCOM 21 (thị trường phi tập trung OTC; chỉ số UPCOM-INDEX).
Chương III. Doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng được 24 lợi ích của việc phát hành cổ phiếu.
I. Quy mô của thị trường chứng khoán Việt Nam. 25
II. Việc huy động vốn kém và tính thanh khoản thấp 27 của các cổ phiếu của các doanh nghiệp Việt Nam.
III. Đầu tư chứng khoán theo đám đông, đầu tư kiểu 29 “lướt sóng” của các nhà đầu tư Việt Nam.
IV. Sự tan vỡ của các doanh nghiệp cổ phần. 30
33 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 6024 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các phương thức phát hành cổ phiếu và liên hệ thực tiễn tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iao dịch trên thị trường OTC của Hoa Kỳ. Trong khi đó cộng hết số lượng CK niêm yết tại 6 sở giao dịch của nước này thì cũng chỉ có trên dưới 4.500 loại CK.
1.3. Thị trường thứ ba.
Thị trường thứ ba (third market - OTC-listed) là thị trường giao dịch các CK đã niêm yết tại sở giao dịch nhưng theo cơ chế OTC. Thị trường này được lập ra do yêu cầu của các nhà đầu tư là tổ chức cần mua bán với số lượng lớn, có thể gọi là "mua sỉ" CK niêm yết (exchange-listed), thông qua thương lượng. Các thương vụ được thu xếp bởi các công ty CK là nhà tạo giá của thị trường OTC, các công ty này phải đăng ký và được phép mua bán lô lớn CK niêm yết. Thông thường thì tất cả các CK niêm yết đều có thể được mua bán theo phương thức này, nhưng luôn luôn bị ràng buộc phải thông tin công khai trên hệ thống thông tin chính thức trong thời gian rất ngắn, ở Mỹ là trong vòng 90 giây sau khi thực hiện.
1.4. Thị trường thứ tư.
Để tạo thuận lợi cho các tổ chức tài chính chuyên nghiệp có điều kiện trực tiếp mua bán CK cho tổ chức của mình, các thị trường lớn có lập ra một mạng giao dịch nội bộ gọi là "instinet" phục vụ cho việc giao dịch các khối lượng lớn CK giữa họ với nhau. Cả loại CK niêm yết trên sàn hoặc loại mua bán OTC đều có thể đem ra giao dịch. Các tổ chức tham gia vào mạng này thường là các ngân hàng, các quỹ hỗ tương đầu tư, các đại diện quản lý quỹ hưu trí, và nhiều tổ chức khác tuỳ theo quy định... vì họ liên hệ với nhau trực tiếp mua bán qua lại nên không cần đến các nhà môi giới. Tuy nhiên, bản thân hệ thống instinet sẽ đăng ký với UBCKNN để được đóng vai trò như một công ty môi giới và kinh doanh CK (Broker - Dealer). Các điều kiện về mua bán, xác nhận và thông tin sẽ được quy định cụ thể bởi luật lệ CK và công ty CK đóng vai trò điều phối này.
Việt nam một thị trường chứng khoán mới được hình thành việc chưa phát triển đầy đủ các thị trường giao dịch cũng là điều dễ hiểu. Hiện tại, chúng ta mới đang manh nha phát triển 2 thị trường giao dịch chính là thị trường sàn giao dịch và thị trường phi tập trung.
2. Sàn giao dịch chứng khoán..
2.1. niêm yết chứng khoán.
Để một chứng khoán có thể được giao dịch trên sàn chứng khoán, nó phải được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán đó. Niêm yết chứng khoán là việc đưa các chứng khoán có đủ tiêu chuẩn vào đăng ký và giao dịch tại thị trường giao dịch tập trung (Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng khoán). Hay nói cách khác, để có thể được niêm yết tại một Sở giao dịch chứng khoán nào đó thì công ty xin niêm yết phải đáp ứng đủ các tiêu chuẩn do Sở đó đặt ra. Mỗi Sở giao dịch chứng khoán có những điều kiện đặt ra khác nhau để đảm bảo cho sự hoạt động an toàn đồng thời phù hợp với mục đích hoạt động của Sở giao dịch đó.
mục tiêu của việc niêm yết:
- Thiết lập quan hệ hợp đồng giữa SGDCK với tổ chức phát hành có chứng khóan niêm yết, từ đó quy định trách nhiệm và nghĩa vụ cua tổ chức phát hành trong việc bổ sung thông tin, đảm bảo tính trung thực, công khai và công bằng.
- Nhằm mục định hỗ trợ thị trường hoạt động ổn định, xây dựng lòng tin của công chúng đối với thị trường chứng khoán bằng cách lựa chọn các chứng khoán có chất lượng cao để giao dịch.
- Cung cấp cho nhà đầu tư những thông tin về tổ chức phát hành.
- giúp cho việc xác định giá chứng khoán được công bằng trên thị trường đấu giá.
2.2. phân loại niêm yết chứng khoán.
- niêm yết lần đầu: là việc cho phép chứng khoán của tổ chúc phát hành được đắng kỳ niêm yết giao dịch lần đầu tiên sau khi phát hành ra công chúng(IPO) khi tổ chức đó đáp ứng được tiêu chuẩn niêm yết.
- niêm yết bổ sung: là quá trình chấp thuận SGDCK cho một công ty niêm yết có niêm yết các cổ phiếu mới phát hành với mục định tăng vay hoặc mục đích khác như sáp nhập, chi trả cổ tức…………
- thay đổi niêm yết: phát sinh khi công ty niêm yết hay đổi tên chứng khoán giao dịch, khối lượng, mệnh giá hay tổng giá trị chứng khoán được niêm yết của minh.
- niêm yết lại: là việc cho phép một công ty phát hành được tiếp tục niêm yết lại chứng khoán trước đây đã bị hủy bỏ niêm yết vì các lý do không đáp ứng.
- niêm yết cửa sau: là trường hợp một tổ chức niêm yết chính thực sáp nhập liên kết hay tham gia vào hiệp hội với một tổ chức, nhóm không niêm yết và kết quả là các tổ chức không niêm yết đó lấy được quyền kiểm soát tổ chức niêm yết.
- niêm yết toàn phần và niêm yết từng phần:
+ niêm yết toàn phần là việc niêm yết tất cả các cố phiếu sau khi đã phát hành ra công chúng trên một SGDCK trong nước hay nước ngoài.
+ niêm yết tứng phần là việc niêm yết một phần trong tổng số chứng khoán đã phát hành ra công chúng của lần phát hành đó, phần còn lại chưa hay không được niêm yết.
2.3. Quy trình niêm yết chứng khoán.
Bước 1: Nộp hồ sơ đăng ký niêm yết lên SGDCK.Bước 2: SGDCK tiến hành thẩm định sơ bộ hồ sơ.
Bước 3: Nộp đơn xin phép niêm yết chính thức lên SGDCK.
Bước 4: SGDCK tiến hành kiểm tra niêm yết.
Bước 5: SGDCK phê chuẩn niêm yết.
Bước 6: Khai trương niêm yết.
2.4. đặc điểm giao dịch trên sàn.
- Cơ chế giá cả: thị trường niêm yết hoạt động trên cơ sở đấu giá từ hai phía (double-auction).
- Vai trò chủ đạo thị trường: đối với sàn giao dịch đó là các chuyên gia trên sàn, họ chịu trách nhiệm phải duy trì thị trường ổn định và phải liên tục chào giá các chứng khoán mà họ đảm nhận.
- Giao dịch bên ngoài thị trường chính: theo quy luật, các nhà kinh doanh chứng khoán không được mua dự trữ riêng cho mình, hoặc kinh doanh như tư cách chủ nhân (principal) đối với các chứng khoán đã được niêm yết, ngoại trừ khi họ đã tham gia vào cơ chế giao dịch của thị trường thứ 3.
3. Thị trường phi tập trung OTC.
3.1. Khái niệm.
Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC) là loại TTCK xuất hiện sớm nhất trong lịch sử hình thành và phát triển của TTCK. thị trường được mang tên OTC co nghĩa là thị trường qua quầy. điều này xuất phát từ đặc thù của thị trường là các giao dịch mua bán trên thị trường được thực hiện trực tiếp tại các quầy của các ngân hàng hoặc các công ty chứng khoán mà không phải thông qua các trung gian môi giới để đưa vào đấu giá tập trung.
Như vậy, có thể hiểu, thị truong OTC là TTCK không có trung tâm giao dịch tập trung, đó là một mạng lưới các nhà môi giới và tự doanh CK mua bán với nhau và với các nhà đầu tư, các hoạt động giao dịch của thị trường OTC được diễn ra tại các quầy(sàn giao dịch) của các ngân hàng và công ty chứng khoán.
3.2. Những đặc điểm cơ bản của thị trường OTC
Hình thức tổ chức: về cơ bản thị trường OTC không có địa điểm giao dịch tập trung giữa bên mua và bên bán như đối với thị trường chứng khoán tập trung (Sở Giao dịch Chứng khoán). Tuy nhiên, vì kỹ thuật tin học phát triển và việc sử dụng mạng thông tin dữ liệu trên diện rộng đã làm cho việc giao dịch trên thị trường OTC có tính tập trung cao hơn.
Chứng khoán giao dịch trên thị trường là chứng khoán chưa đủ tiêu chuẩn niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán, trong đó chủ yếu là của công ty nhỏ và vừa; chính vì thế, chứng khoán trên thị trường này có độ rủi ro cao hơn so với chứng khoán trên Sở Giao dịch Chứng khoán. Tiêu chuẩn để chứng khoán được giao dịch trên thị trường OTC thấp hơn, linh hoạt hơn so với tiêu chuẩn niêm yết ở Sở Giao dịch Chứng khoán.
Thị trường chứng khoán phi tập trung hiện đại là thị trường được tổ chức chặt chẽ, sử dụng hệ thống mạng tin học diện rộng liên kết với tất cả các đối tượng tham gia thị trường.
Cơ chế xác lập giá trên thị trường OTC chủ yếu dựa trên cơ sở thương lượng, thỏa thuận giá giữa bên mua và bên bán.
Hệ thống các nhà tạo lập thị trường: các nhà tạo giá (Market makers) là những người đưa ra giá rao mua và chào bán cho thị trường. Giá tốt nhất từ đó khách đầu tư có thể mua (best ask) và giá tốt nhất mà họ có thể bán (best bid) được chọn lọc tối ưu trong một tập hợp chào giá trên hệ thống chung, gọi là giá thị trường nội bộ (inside market).
Cơ chế thanh toán trên thị trường OTC là linh hoạt, đa dạng hơn so với phương thức thanh toán bù trừ đa phương thống nhất ở Sở Giao dịch Chứng khoán.
Quản lý thị trường OTC được thực hiện theo hai cấp: cấp quản lý nhà nước và cấp tự quản.
mua bán và phương thức tạo giá trên thị trường OTC.
Mua bán trên thị trường OTC:Thị trường sàn giao dịch có thuận lợi cơ bản là thông tin về giá cả và CK đã có một nề nếp phổ biến trên nhiều phương tiện, tạo dễ dàng khi cần truy cập. Điều này lại chẳng dễ dàng chút nào đối với các giao dịch trên thị trường OTC. Đây là vấn đề lớn và chỉ hoá giải được bằng chính khả năng tổ chức và quán xuyến, thậm chí bằng tất cả uy tín của tổ chức chủ quản điều hành (ở Mỹ là NASD). Kế đến phải cần sự trợ giúp hiệu quả của các thành tựu về thông tin với các phương tiện trang bị càng hiện đại càng tốt. Thị trường OTC, do vậy sẽ cho hiệu quả hoạt động tuỳ thuộc vào khả năng tổ chức và đóng góp của hệ thống thông tin. Đối với người đầu tư, việc giao dịch cũng gần giống như ở thị trường sàn giao dịch.
phương thức tạo giá trên thị trường OTC: Nhà tạo giá, nói chung, là một công ty có hoạt động kinh doanh chứng khoán cho riêng mình (tự doanh) và được công nhận tư cách tạo giá đối với một số lượng chứng khoán nào đó. ở thị trường sàn giao dịch đó là các chuyên gia trên sàn (specialist) còn trên thị trường OTC, nhà tạo giá là các nhà buôn chứng khoán (dealers) tham gia cung cấp giá rao mua (bid) và chào bán (offer) liên tục cho một chứng khoán đặc thù nào đó. Việc này được gọi là tạo ra một giá thị trường (thuật ngữ: to make a market) cho chứng khoán. Khi đã chào giá như vậy, họ sẽ sẵn sàng thực hiện mua hoặc bán với số lượng được nêu bằng chính tài khoản của công ty họ. Không giống như thị trường sàn giao dịch, nơi mà mỗi chứng khoán chỉ độc có một chuyên gia tạo giá, trong thị trường OTC số lượng nhà tạo giá cho một chứng khoán có thể không hạn chế và tối thiểu phải là hai.
Chương II. Thực tiễn phát hành cổ phiếu ở Việt Nam.
I. Thực tiễn phát hành cổ phiếu trên sàn HOSE(SGDCK TP.HCM).
1. lịch sử SGDCK TP.Hồ Chí Minh.
Ngày 20/07/2000, TTGDCK Tp.HCM đã chính thức khai trương đi vào vận hành, và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000 với 02 loại cổ phiếu niêm yết.
Qua 7 năm với sự tăng trưởng của thị trường và hội nhập với TTCK thế giới, Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM đã chính thức được Chính phủ ký Quyết định số:599/QĐ-TTg ngày 11/05/2007 chuyển đổi thành Sở giao dịch Chứng khoán Tp.HCM. Ngày 08/08/2007, SGDCK TP.HCM đã chính thức được khai trương.
SGDCK TP.HCM đã đạt những thành quả rất đáng khích lệ. Tính đến ngày 31/12/2007, toàn thị trường đã có 507 loại chứng khoán được niêm yết, trong đó có 138 cổ phiếu với tổng giá trị vốn hóa đạt 365 ngàn tỷ đồng, đặc biệt có 6 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia niêm yết; 03 chứng chỉ quỹ đầu tư với khối lượng 171,4 triệu đơn vị và 366 trái phiếu các loại.
Trước sự tăng trưởng của TTCK, số lượng công ty chứng khoán thành viên của SGDCK TP.HCM cũng không ngừng tăng về số lượng, quy mô và chất lượng dịch vụ. Tính đến hết ngày 31/12/2007, toàn thị trường đã có 62 công ty chứng khoán đăng ký làm thành viên của Sở với tổng số vốn đăng ký là 9.960 tỷ đồng. Các thành viên hầu hết được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh với các nghiệp vụ gồm: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành và tư vấn đầu tư.
Sự gia tăng nhanh chóng lượng cổ phiếu niêm yết trên thị trường đã thu hút được thêm nhiều nhà đầu tư, trong cũng như ngoài nước, cá nhân cũng như có tổ chức. Đến cuối năm 2006, số lượng tài khoản của nhà đầu tư mở tại các công ty chứng khoán thành viên lên tới trên 106 ngàn tài khoản, thì cho đến hết năm 2007 số lượng tài khoản của nhà đầu tư mở tại các CTCK đã lên tới gần 298 ngàn tài khoản trong đó có trên 7 ngàn tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài.
Hoạt động niêm yết và hoạt động giao dịch trên sàn Hồ Chí Minh.
Theo số liệu chính thức tính chung cả thị trường đến 31/12/2009 có 196 cổ phiếu, 4 chứng chỉ quỹ, 61 trái phiếu đang được niêm yết và giao dịch trên HOSE với tổng giá trị niêm yết đạt 120 ngàn tỷ đồng.
Tình hình kinh tế năm 2010 nói chung chưa thật sự hồi phục mạnh mẽ song thị trường chứng khoán VN đã đạt được một số kết quả đáng kể, như đạt kỷ lục về cổ phiếu niêm yết mới, kỷ lục về số công ty phát hành thêm cổ phiếu... Tuy nhiên, bên cạnh việc gia tăng số lượng, chất lượng của cổ phiếu niêm yết trên sàn chưa thật sự đồng đều vẫn là vấn đề nhà đầu tư quan ngại.
Đến thời điểm cuối năm 2010, tuy có nhiều phiên khối lượng và giá trị giao dịch khổng lồ (giá trị giao dịch của 2 sàn lên 4.000 tỉ - 5.000 tỉ đồng) nhưng vẫn không ít cổ phiếu thường xuyên không có giao dịch hoặc giao dịch cầm chừng dù giá trị vốn hóa rất cao... Với một số quy định mới về niêm yết cổ phiếu có hiệu lực trong năm 2011, hy vọng thị trường sẽ có thêm nhiều cổ phiếu chất lượng hơn.
Dù thị trường không mấy thuận lợi song năm 2010, trên cả hai sàn chứng khoán đã có khoảng 180 cổ phiếu niêm yết mới. Trong đó, tại Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM (HoSE) có gần 80 doanh nghiệp (DN) niêm yết, vượt kỷ lục 74 DN niêm yết mới của năm 2006.
Ngoài ra, hiện có khoảng 15 DN đã nộp hồ sơ xin niêm yết trên HoSE, trong đó có những đơn vị vốn khá lớn như Ngân hàng Quân đội, Công ty CP Ô tô Trường Hải...
Tính đến thời điểm hiện tại(3/2011) thì sàn GDCK đã khoảng 283 DN niêm yết và từ 19/4/2010 đến nay đã có 20 công ty cổ phần nộp hồ sơ niêm yết, trong đó có 7 công ty được chấp nhận.
Từ ngày 26/3/2010 đến ngày 26/3/2011 khối lượng cổ phiếu niêm yết mới là hơn 2 tỉ cổ phiếu. khối lượng cổ phiếu niêm yết mới trong các năm qua là: năm 2007(1.723.437,5 nghìn CK), năm 2008(1.723.437,5 nghìn CK), năm 2009(3.523.292,81 nghìn CK) và số lượng hủy niêm yết qua các là tương đối nhỏ so với niêm yết mới. từ đó ta thấy qui mô cổ phiết niêm yết trên thị trường Việt Nam ngày càng phát triển không ngừng.
Và qua bảng trên ta thấy qui mô niêm yết cổ phiếu chiếm tỉ trọng rất lớn trên thị trường hiện nay, cụ thể: số công ty cổ phần niêm yết chiếm 83,98%, khối lượng niêm yết chiếm 97,18%, giá trị niêm yết chiếm 90,7%.
chỉ số VN-Index, và qui mô vốn trên sàn HOSE.
A, chỉ số VNIndex.
Biểu dồ trên biểu diễn những biến động của chỉ số VNIndex từ năm 10/2009- 24/3/2011.
Qua biểu đồ trên ta có thể thấy được chỉ số VNIndex dao động rất mạnh và biên độ dao động giảm dần, và chỉ số cũng giảm so với trước.
Cuối năm 2006, đầu 2007, thị trường chứng khoán Việt Nam thăng hoa. Vn-Index tăng liên tục, liên tục như diều gặp gió, đạt 1.170 điểm (ngày 12/3/2007). SGDCK TP.HCM đã đạt những thành quả rất đáng khích lệ. Tính đến ngày 31/12/2007, toàn thị trường đã có 507 loại chứng khoán được niêm yết, trong đó có 138 cổ phiếu với tổng giá trị vốn hóa đạt 365 ngàn tỷ đồng.
Tuy nhiên sau đó chúng ta gặp vô vàn khó khăn trước sự biến động của thị trường, chỉ số Vnindex giảm điểm liên tục trong năm 2008 và 2009 và chạm đáy 235,5 điểm vào ngày 24/02/2009. Sau khi chạm đáy, Vn index tăng trở lại và đạt mức đỉnh 624,10 điểm vào ngày 22/10/2009, rồi điều chỉnh mạnh trở về mức 434,87 điểm trước khi kết thúc năm ở mức 494,77 điểm(tăng 56,76% so với cuối năm 2008). 31/12/2009 phiên giao dịch cuối cùng của năm 2009, giới đầu tư đã rất lạc quan tin tưởng màu xanh sẽ ở lại với VN-Index. Hầu hết thời gian của phiên giao dịch ngày 31/12, chỉ số trên cả hai sàn Nam-Bắc đều mang sắc xanh.Tuy nhiên, về cuối phiên, sức mua dần suy giảm khiến cho chỉ số VN-Index đã trở lại với sắc đỏ khi mất 0,59 điểm và xuống 494,77 điểm.
TTCK đầu năm 2010 không có sự bứt phá nào đáng chú ý. Xu hướng chủ đạo vẫn là đi ngang và giảm điểm. Mở màn phiên giao dịch đầu năm chỉ số VN-Index đã tiếp đà đi lên của cuối năm 2009. Tuy nhiên chỉ số VN-Index chỉ đạt đỉnh vào ngày 7-1-2010 với 540 điểm là đuối sức, kết phiên VN-Index đóng cửa ở mức 533,34 điểm, giảm 1,12 điểm. Những ngày sau đó, chỉ số VN-Index liên tục tụt dốc thậm chí xuống dưới mức 480 điểm và giao dịch quanh biên độ 480 - 500 điểm trong vòng 3 tháng liên tiếp. Ngày 3-4-2010, chỉ số VN-Index vượt ngưỡng 510 điểm và đi lên chạm ngưỡng kháng cự 538 điểm, sau đó tiếp tục tụt dốc và đi ngang ở ngưỡng 510 - 520 điểm. Đỉnh cao của chỉ số VN-Index đạt 550 điểm vào ngày 6-5-2010 sau đó quay đầu giảm điểm xuống 421,3 điểm vào ngày 25-8-2010.
Trong tháng 9/2010, tình hình giao dịch trên thị trường có vẻ khả quan hơn và chỉ số VN-Index đã tăng trước sự ngỡ ngàng của các NĐT khi từ 421,3 điểm vượt lên 470 điểm trong vòng 7 ngày giao dịch. Tuy nhiên đà tăng đã bị hãm lại những phiên sau đó, chỉ số VN-Index giao dịch quanh mốc 450 điểm. Kết thúc phiên giao dịch tháng 9-2010, chỉ số VN-Index đóng cửa ở mốc 454,52 điểm, tăng 0,34%, khối lượng giao dịch (KLGD) đạt 40,6 điểm ứng với giá trị giao dịch đạt 1.208 tỷ đồng. Như vậy so với phiên giao dịch đầu năm 2010, chỉ số VN-Index giảm 63 điểm, ứng với 12%.
Tiếp đó vào đầu năm 2011 chỉ số VNIndex tăng nhẹ và đạt đỉnh tại 9/2/2011 với 522,59 điểm, rồi lại giảm nhẹ đến ngày 25/3/2011 xuống còn 457,74 điểm.
Qua bảng ở dưới đây ta thấy chỉ số VNIndex thay đổi như thế nào từ ngày 25/2-25/3/2011.
Qua số liệu gần đây ta có biểu đồ % thay đổi VNIndex và giá cổ phiếu:
Qui mô giao dịch cổ phiếu gần đây:
Từ bảng trên và biểu đồ trên ta thấy qui mô giao dịch từ tháng 4/2010 đến nay giảm rõ dệt.
Tốc độ tăng trưởng bình quân về mức giao dịch trong 8 năm đầu của HOSE là 2,34 lần. Thanh khoản sàn TP HCM cải thiện qua các năm và giai đoạn sôi động của thị trường chứng khoán vừa qua khiến khối lượng chuyển nhượng gia tăng mạnh, hiện đã vượt hơn 70% cả năm ngoái.7/2009. Giá trị vốn hóa đạt hơn 350 nghìn tỷ đồng, chiếm gần 30% GDP năm 2008.
Kết thúc phiên giao dịch chứng khoán 10-12/2010, Vn-Index tăng 12,61 điểm, dễ dàng vọt qua 470 điểm khi đạt 473,06 điểm (tăng tương đương 2,74%) cùng 233 mã chứng khoán tăng giá, 14 mã đứng giá và 29 mã giảm giá. Tổng khối lượng giao dịch toàn sàn HOSE đạt 94.106.570 đơn vị chứng khoán, tổng giá trị giao dịch tương ứng đạt trên 3.369,470 tỷ đồng, là mức thanh khoản toàn cao nhất trong vòng 6 tháng trở lại của sàn HOSE.
Nhưng sang đầu năm 2011 thì các phiên giao dịch chứng khoán giảm hơn rất nhiều thông qua bảng trên ta thấy rất rõ.
3. hoạt động của thành viên.
Hiện nay trên sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh có 102 công ty chứng khoán thành viên. Trong đó thị phần giá trị giao dịch mô giới cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được xếp hạng của các thành viên được xếp hạng như sau.
thị phần giá trị giao dịch mô giới trái phiếu được xếp hạng như sau:
II. Thực tiễn phát hành cổ phiếu tại Sở GDCK Hà Nội.
Lịch sử phát triển.
Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (SGDCK Hà Nội) được thành lập theo Quyết định số 01/2009/QĐ-Ttg ngày 2/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở chuyển đổi, tổ chức lại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội.
TTGDCK Hà Nội, được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998, chính thức đi vào hoạt động từ năm 2005 với các hoạt động chính là tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán niêm yết, đấu giá cổ phần và đấu thầu trái phiếu. Sau 4 năm hoạt động, TTGDCK Hà Nội đã có những bước trưởng thành nhanh và mạnh, thu hút được sự quan tâm của doanh nghiệp và công chúng đầu tư. TTGDCK Hà Nội đã có thành tích xuất sắc trong việc thúc đẩy sự phát triển có hiệu quả của thị trường chứng khoán.
giá trị niêm yết và giá trị giao dịch.
Tính tơi 25/3 trên sàn HNX đã có 379 công ty cổ phần niêm yết. số lượng CK niêm yết trên sàn tăng rất nhanh qua các năm, giêng từ đầu năm đến giờ đã có 12 CK niêm yết mới,năm 2010 có khoảng 113CK niêm yết mới… qui mô niêm yết tại sàn HNX rất phát triển.
Từ bảng trên ta thấy quy mô niêm yết trên thị trường hiện nay ở sàn HNX với số CK là 379 cổ phiếu tương ứng với tổng khối lượng niêm yết là 6,840,711,080, tổng giá trị niêm yêt là 68,407,110,800,000. so với 26/9/2010 đã tăng 42 cổ phiếu tương ứng tăng 12,46%; tổng khối lượng niêm yết tăng 913,548,982 cổ phiếu(tăng 13,35%); tổng giá trị niêm yết tăng 9,135,489,802,000 đồng(tăng 15,4%).
Cũng từ bảng trên ta thấy tỉ trọng cổ phiếu chiếm tỉ trọng không cao trong tổng số chứng khoán ở sàn Hnx, cụ thể: số cổ phiếu niêm yết chiếm 37,56%; tổng khối lượng niêm yết chiếm 68,78%, tổng giá trị niêm yết chiếm 27,18%. Đây là tỷ lệ tương đối nhỏ về quy mô giá trị của cổ phiếu so với trái phiếu trên sở GDCK Hà Nội.
về quy mô giao dịch và chỉ số HNX Index. Dưới đây là biểu đồ số liệu từ 21/01/2011 đến 05/04/2011. trong đó chỉ số HNX Index cao nhất là 108, 39 điểm vào ngày 09/02/2011 và thấp nhất là 88,45 điểm vào ngày 09/03/2011, hiện tại đang là 90,56 điểm. Như vây hiện tại chỉ số giá HNX Index đã giảm với chỉ số lúc ban đầu năm 2005 khi mở cửa thị trường lần đầu tiên. Tính về mặt giá trị trên mặt bằng chung các nhà đầu tư đang thua lỗ tức là nếu nhà đầu tư bỏ ra 100 đồng vào năm 2005 thì hiện tại họ chỉ nhận được 90,56 đồng( chưa tính đến lạm phát và giá trị quy đổi dòng tiền theo thời gian). Rõ ràng đây là một khoản đầu tư không hấp dẫn chút nào đối với tất cả nhà đầu tư.
.
Tính về khối lượng quy mô giao dịch trên ngày, thấp nhất là 15190 đơn vị và cao nhất là 63358 đơn vị là rất nhỏ so với sàn HCM. Tính trên khối lượng giao dịch tháng ta có quy mô giao dịch trong 12 tháng gần đây nhất như sau:
Hiện tại ở SGDCK Hà Nội có 102 công ty chứng khoán thành viên nhưng chưa có thống kê chi tiết về vốn điều lệ và thị phần môi giới của từng công ty chứng khoán thành viên.
III. Phát hành,giao dịch cổ phiếu trên sàn UPCOM.
Sự ra đời của sàn UPCOM, mối quan hệ với sàn OTC.
Vào ngày 24/06/2009, Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội chính thức đưa thị trường giao dịch các công ty đại chúng chưa niêm yết (thị trường UPCoM) vào hoạt động. Cùng với thị trường UPCoM, HNX đưa ra chỉ số thị trường có tên gọi UPCoM - Index. Như vậy, bên cạnh chỉ số VN-Index của Sở GDCK Hồ Chí Minh và HNX index của Sở GDCK Hà Nội , thị trường chứng khoán Việt nam sẽ có thêm 1 chỉ số mới dành riêng cho thị trường UPCoM.
Thực chất UpCoM là sơ khai của thị trường OTC đúng nghĩa. Thị trường OTC là thị trường phân tán, giao dịch nằm ở các CTCK và sau đó chuyển về một hệ thống thống nhất. Chính vì vậy, vai trò của các CTCK rất quan trọng trong việc hướng tới là những nhà tạo lập thị trường. Nhiều chuyên gia nhận định thị trường cổ phiếu chưa niêm yết rất tiềm năng, chỉ cần khoảng 50 doanh nghiệp có thanh khoản tốt lên UpCoM sẽ tạo cơ hội rất lớn cho CTCK. Hiện tại, sàn OTC có 1750 công ty đăng ký cổ phiếu giao dịch trên sàn, trong khi sàn UpCoM có 77 công ty đăng ký cổ phiếu.
Sự khác biệt giữa sàn UpCoM và sàn OTC là UpCoM là thị trường có sự giám sát, quản lý rõ ràng, còn OTC thì không. Sàn UPCoM đi vào hoạt động sẽ phần nào gỡ rối cho thị trường OTC hiện nay, góp phần hạn chế rủi ro, thông tin minh bạch và bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư. Về lâu dài, thị trường UPCoM sẽ đi vào ổn định và hoàn thiện hơn, đưa các hoạt động mua bán cổ phiếu chưa niêm yết đi vào quy củ, xây dựng một thị trường OTC hiện đại và đa dạng hơn.
Tuy nhiên đối với nhà mô giới và các công ty chứng khoán, sàn OTC có nhiều ưu điểm. Điểm hấp dẫn nhất của thị trường OTC là giao dịch không có biên độ, tiền - chứng khoán có thể thanh toán trao tay và có thể mua bán một loại cổ phiếu trong cùng một phiên. Trong khi sàn UPCoM phải chờ thời gian thanh toán T+3 mới có thể bán.
UPCoM: một sàn giao dich giảm điểm mạnh mẽ.
Sự ra đời của thị trường UPCoM được kỳ vọng sẽ đem lại một sự phát triển mạnh mẽ cho những cổ phiếu không niêm yết trên sàn. Nhưng trên thực tế sau gần 2 năm hoạt động sàn UPCoM là một sự thất vọng lớn với nhà đâu tư. Việc chỉ số UPCoM Index giảm điểm liên tục được thể hiện dưới bảng sau. Số liệu được lấy từ 21/01/2011 đến 05/04/2011. Sự mất điểm liên tục của UPCoM Index đã xuống mức báo động 37 điểm. như vậy tại thời thời điểm gốc ngày 24/06/2009 nhà đầu tư bỏ ra 100 đồng để đầu tư thì hiện tại họ chỉ còn giữ được 37 đồng , một con số rất tệ đối với các nhà đầu tư. Nếu đà sụt giảm này tiếp tục, trong tương lai gần việc thị trường UPCoM phải đóng cửa là một điều có thể dự đoán được. Chúng ta sẽ phân tích sâu hơn dưới các khía cạnh sau:
Về khối lượng cổ phiếu đang lưu hành:
Sau khi tiến hành khảo sát 77 cổ phiếu niêm yết trên sàn UPCOM (gọi là
nhóm cổ phiếu UPCOM), thu được kết quả về khối lượng cổ phiếu đang lưu hành (KLCPLH) như sau:
Trong nhóm cổ phiếu UPCOM: cổ phiếu có KLCPLH cao nhất là NT2 với
256 triệu CP, cổ phiếu có KLCPLH thấp nhất là VNX với 1.05 triệu CP.
Bảng phân loại số lượng cổ phiếu đang lưu hành:
KLCPLH( triệu)
Số lượng
Tỷ lệ
<3
35
45.45%
3-5
11
14.29%
5-8
13
16.88%
8-11
9
11.69%
11-20
3
3.90%
>=20
6
7.79%
Tổng
77
100%
Từ bảng trên ta thấy, nhóm cổ phiếu cổ phiếu có KLCPLH nhỏ hơn 3 triệu
chiếm tỷ trọng lớn nhất (45.45%) trong nhóm cổ phiếu UPCOM.
Số lượng cổ phiếu lưu hành trung bình của nhóm cổ phiếu UPCOM là 10.07
Giá trị vốn hoá thị trường
Cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường lớn nhất vẫn là NT2 với 3,276.8 tỷ
đồng, và DXL là cổ phiếu có giá trị vốn hóa nhỏ nhất với 13.45 tỷ đồng.
Bảng phân loại giá trị vốn hoá thị trường:
Giá trị vốn hoá (tỷ đồng)
số lượng CP
tỷ lệ
<40
26
33.77%
40-60
13
16.88%
60-100
9
11.69%
100-200
13
16.88%
200-400
8
10.39%
>=400
8
10.39%
tổng
77
100%
Nguồn :
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phương thức phát hành cổ phiếuliên hệ việt namdoanh nghiệp việt nam chưa tận dụng được lợi ích của phát hành cổ phiếu.doc