MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
Phần một: Những lý luận chung về lạm phát 2
I) Bản chất của lạm phát 2
II) Những biểu hiện của lạm phát 2
III) Các cấp độ của lạm phát 3
IV) Các tác động của lạm phát 5
1. Tác động tích cực 5
2. Tác động tiêu cực 6
V) Yêu cầu kiềm chế và khắc phục lạm phát 8
Phần hai: Thực trạng tình hình lạm phát trong nền kinh tế nước ta 8
I) Thòi kỳ trước đổi mới 1986 8
II) Thời kỳ bắt đầu đổi mới 1986 - 1990 9
III)Thời kỳ kinh tế đi vào ổn định, lạm phát được kiểm soát 1991 - 1995 10
IV) Thời kỳ kinh tế có dấu hiệu trì trệ 1997 - 2000 11
V) Thời kỳ kinh tế có bước phát triển mới 2001 - 2003 . 11
VI) Lạm phát giai đoạn 2004 - 2005 . 12
Phần ba: Các quan điểm và giải pháp nhằm kiềm chế và khắc phục
tình trạng lạm phát . 13
I) Quan điểm của Đảng và Nhà nước . 13
II) Các giải pháp nhằm kiềm chế và khắc phục lạm phát 13
1.Các giải pháp cấp vĩ mô 13
2.Các giải pháp cấp vi mô 15
KẾT LUẬN 17
18 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1250 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Các quan điểm và giải pháp nhằm kiềm chế và khắc phục tình trạng lạm phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và mất cân đối giữa cung và cầu tiền tệ. Nguyên nhân lạm phát bao gồm nhiều yếu tố thể hiện qua các hình thức như: lạm phát do cầu kéo, lạm phát do chi phí đẩy , lạm phát do mất cân đối giữa cơ cấu kinh tế, lạm phát do mất ổn định kinh tế chính trị , xã hội ; lạm phát do lượng tiền nhiều hơn cầu tiền tệ trên thị trường
II) Các hình thức biểu hiện
Trong thời gian qua , ở các nước đang phát triển đã có những trường phái nghiên cứu về lạm phát theo những quan điểm khác nhau :
a) Thứ nhất, theo học thuyết cơ cấu về lạm phát nó rằng lạm phát xuất hiện do xung đột về phân phối, được báo hiệu bởi những chuyển dịch tăng giá và các quy luật hình thành làm tăng thêm xung đột nêu trên tạo thành làn sóng mạnh mẽ, thông qua cơ chế lan truyền .Theo học thuyết này thì biểu hiện của lạm phát do mất cân đối thường xuyên là:
Mất cân đối giữa cung và cầu lương thực , thực phẩm (cung nhỏ hơn cầu)
Ngoại tệ có hạn do nhập nhiều hơn xuất
Ngân sách thâm hụt , bị hạn chế do thu được ít nhưng nhu cầu chi cao
Mất cân đối giữa cung và cầu xảy ra đối với những nước nhập khẩu nhiều hơn xuất (thường là nhập siêu giá cao) và không có luồng ngoại tệ nào khác ngoài xuất khẩu để có ngoại tệ nhập khẩu đã dẫn đến cán cân thanh toán quốc tế của những nước này lâm vào tình trạng khó khăn và buộc họ phải phá giá đồng tiền làm cho lạm phát tăng lên
b) Thứ hai, theo học thuyết của các nhà tiền tệ cho rằng lạm phát là một hiện tượng thuần tuý tiền tệ, giá tăng lên ít nhiều là do tăng cung tiền tệ quá mức cầu của nên kinh tế . Đó là khi lượng tiền bơm vao lưu thông lớn hơn khối lượng tiền cần thiết do lưu thông của thị trường. Điều này được biểu hiện ở chỗ đồng tiền nội địa bị mất giá.Người dân không muốn gửi tiền vào hệ thống ngân hàng vì nguyên tắc lãi suất dương thường bị vi phạm , không đảm bảo được giá trị đồng tiền, đồng thời người dân cũng không muốn gửi tiếp . Vì vậy đồng tiền sẽ mất giá trị càng nhanh, họ chỉ còn cách mua hàng tích trữ hoặc ngoại tệ mạnh. Kết quả là hệ thống ngân hàng đã thiếu tiền lại càng thiếu tiền nhiều hơn nên phải phát hành tiền để chi tiêu hoặc đưa vàng cất giữ ra thị trường mong bảo tồn giá trị đồng tiền họ có. Một số quốc gia bơm tiền ra ngoài để đáp ứng nhu cầu tăng chi tiêu của chính phủ và xã hội . Do đó , ngoài thị trường thì cung tiền tệ vượt quá mức cầu tiền tệ và khan hiếm hàng hoá tăng lên . Kết quả là lạm phát ngày một tăng cao.
III) Các cấp độ của lạm phát
*) Thước đo
Mặc dù tính tỷ lệ lạm phát còn có nhiều điều phải bàn nhưng có thể tính theo công thức sau:
Lt= (Pt-Pt-1)
Pt-1
Trong đó :
Lt - tỷ lệ lạm phát giai đoạn t
T – giai đoạn tính lạm phát
Pt – tổng giá cả giai đoạn t
Pt-1- tổng giá cả giai đoạn t-1
Có một số phương pháp tính tổng mức giá cả như sau :
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Chỉ số giảm phát GDP
Chỉ số giá hàng hoá bán lẻ (RPI)
Chỉ số giá sản xuất (PPI)
Chỉ số giá hàng hoá bán buôn (WPI)
Chỉ số giá tiêu dùng CPI là chỉ số quan trọng mà một số nước thường lấy để đo tỷ lệ lạm phát . Cách tính chỉ số CPI không phải là cộng các giá cả lại và chia cho tổng khối lượng hàng hoá mà là cân nhắc từng mặt hàng theo tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế .
Chỉ số giảm phát GDP được coi là chỉ số giá phản ánh bình quân giá của tất cả các hàng hoá và dịch vụ được sản xuất trong nước . Do vậy chỉ số này dược coi là toàn diện hơn là chỉ số giá tiêu dùng CPI vì bao quát hết tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ
*) Các cấp độ của lạm phát
Trong số liệu quản lý tiền tệ trên thế giới người ta chia lạm phát thành 4 cấp độ để có những giải pháp chống lạm phát thích ứng .
Các cấp độ lạm phát gồm:
Lạm phát ỳ: là mức độ lạm phát thấp nhất (từ 0%-1%) .Cấp độ lạm phát này chủ yếu phản ánh tính khách quan tuyệt đối của hiện tượng lưu thông hàng hoá và tiền tệ trong điều kiện chế độ tiền giấy. Lạm phát này có thể lặp đi lặp lại trong chuỗi thời gian dài, và nếu chỉ có nó người ta có thể chủ động tính vào thành các chi tiêu cân bằng trung hoà của nền kinh tế. Người ta chấp nhận và sẵn sàng chung sống hoà bình với loại lạm phát này.
Lạm phát vừa phải hay lạm phát kiểm soát được: đây là mức độ lạm phát cao hơn đến mức lớn không nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm. Đối với loại lạm phát này, tuỳ theo chiến lược và chiến thuật phát triển kinh tế mỗi thời kì mà các chính phủ có thể chủ động định hướng mức khống chế trên cơ sở duy trì một tỷ lệ lạm phát là bao nhiêu để gắn với một số mục tiêu kinh tế khác : kích thích tăng trưởng kinh tế , tăng trưởng xuất khẩu và giảm tỷ lệ thất nghiệp trong các năm tài khoá nhất định . Tuy nhiên chỉ có thể chấp nhận lạm phát vừa phải trong điều kiện hiện tại, khi mà nhiều yếu tố của sản xuất nằm trong tình trạng ngủ yên hoặc chưa có phương án khả thi để phát huy các tiềm năng đó. Khối tiền tệ chung châu âu EC và một số nước Bắc âu như Thuỵ Điển, Na Uy , Đan Mạch , v.v.. đã điều hành chính sách tiền tệ bàng Ngân hàng trung ương . Nghĩa là Ngân hàng trung ương sử dụng chính sách tiền tệ duy trì và đảm bảo một mức lạm phát mục tiêu.Sự dao động xung quanh một chỉ số CPI được xác định là 2%-3% /năm và nhỏ hơn tốc độ tăng trưởng GDP trong năm . Cơ chế này đã và đang phát huy nhiều tác dụng tích cực ( ít nhất là trong vòng 5 năm )
Lạm phát phi mã : là cấp độ lạm phát cao thứ 3 có tỷ lệ lạm phát bình quân/năm từ mức trung bình của 2 con số đến đỉnh cao của 3 con số. Đây là tỷ lệ lạm phát vượt ra ngoài khả năng lạm phát của ngân hàng trung ương . ở nước ta từ năm 1985-1988 đã phải chứng kiến và chống đỡ với cấp độ lạm phát này .
Siêu lạm phát : là hiện tượng khủng hoảng kinh tế đã đến mức rất nghiêm trọng – tỷ lệ lạm phát lên đến 3 con số .Thậm chí người ta không thể đo lạm phát được bằng phần trăm mà là số lần tăng giá trong năm. Tiền hầu như đã trút bỏ mọi chức năng trực tiếp , nhất là làm phương tiện lưu thông hàng hoá .Tuy nhiên siêu lạm phát là một hiện tượng kinh tế cực kỳ hiếm, nó thường xuất hiện gắn liền với các cuộc chiến tranh hoặc nội chiến khốc liệt. Lịch sử thế giới đã chứng kiến hiện tượng này ở Đức từ năm 1921- 1923. Sau đại chiến thế giới thứ nhất ở Mĩ trong năm nội chiến 1860 và gần nhất là siêu lạm phát xảy ra ở Nam Tư từ tháng 5 / 1992 đến hết năm 1994
IV) Tác động của lạm phát
1)Tác động tích cực
Lạm phát thấp không gây cản trở đối với nền kinh tế . Hơn nữa , trên thực tế bằng cách giữ lạm phát thấp và ổn định một ngân hàng trung ương có thể ổn định mức sản lượng công ăn việc làm . Ông DonBrash , thống đốc ngân hàng dự trữ của New Zeland sử dụng đồ thị để giải thích điều này như sau :
Sản lượng
B Sản lượng tiềm năng dài hạn
Sản lượng thực
A
Thời gian
Đường thẳng trong đồ thị biểu diễn mức tăng trưởng sản lượng mà nền kinh tế có thể duy trì dài hạn (mức sản lượng tiềm năng dài hạn ) ; đường có hình sóng biểu hiện mức sản lượng thực tế . Khi nền kinh tế đang sản xuất dưới mức sản lượng tiềm năng (Ví dụ: khi thực tế thất nghiệp cao hơn NAIRU) . Tại điểm A , lạm phát sẽ giảm xuống cho tới khi “khoảng cách sản lượng (chênh lệch giữa sản lượng lương thực thực tế và sản lượng tiềm năng được loại bỏ). Khi sản lượng thực tế lớn hơn sản lượng tiềm năng tại điểm B , lạm phát sẽ tăng lên chừng nào còn nhu cầu vượt quá công suất. Vì lạm phát đang giảm (điểm A) , do vậy ngân hàng trung ương sẽ cắt giảm lãi suất làm kìm hãm tăng trưởng kinh tế . Như vậy nếu chính sách tiền tệ tập trung vào việc giữ lạm phát ở mức tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm.
2) Tác động tiêu cực
Trên phương diện lý thuyết , nếu lạm phát ở mức tiên đoán được thì có thể tránh được mọi hậu quả . Còn nếu lạm phát không thể tiên đoán được thì hậu quả sẽ là ghê gớm và khó có thể lường trước được. Điều này biểu hiện ở chỗ :
Lạm phát cao sẽ kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế : khi lạm phát xảy ra nó sẽ làm cho lệch lạc cơ cấu giá cả , kéo theo là nguồn tài nguyên, vốn và nguồn nhân lực không được phân bố một cách hiệu quả , kết cục làm cho tăng trưởng chậm lại.
Tính không chắc chắn của lạm phát là là kẻ thù của tăng trưởng và đầu tư dài hạn : nếu các nhà đầu tư không biết chắc chắn hoặc không thể dự đoán được mức giá cả trong tương lai , kéo theo là không biết được lãi suất thực thì không ai trong số họ dám liều lĩnh đầu tư , nhất là vào các dự án dài hạn , mặc dù có thể các điều kiện dầu tư khác là khá ưu đãi , hấp dẫn . Tính không chắc chắn của mức độ lạm phát sẽ đẩy lãi suất thực lên cao bởi chủ nợ muốn có sự bảo đảm cho mức rủi ro lớn. Mức lãi suất thực cao này sẽ kìm hãm đầu tư và làm chậm tốc độ tăng trưởng . Điều này có thể minh hoạ bằng tình hình lạm phát cao của Inđônêxia và Thái Lan trong giai đoạn 1994-2000 trong khi lạm phát cao mà tăng trưởng lại thấp .
Tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Thái Lan giai đoạn 1995-2000
Lạm phát cao khuyến khích người dân quan tâm đến đến lợi ích trước mắt . Khi có lạm phát cao xảy ra ở một số nước , thay cho việc ký thác tiền trong ngân hàng để hưởng lãi suất hay đầu tư vào khu vực sản xuất kinh doanh hòng tìm kiếm lợi nhuận , dân chúng có thể sẽ đổ xô đi mua hàng nhằm dự trữ vì hi vọng giá hàng hoá còn tăng nữa. Điều này vô hình dung làm tăng cầu hàng hoá một cách giả tạo và do vậy càng làm cho lạm phát có nguy cơ bùng nổ đến mức cao hơn .
Lạm phát cao ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ hoạt động kinh tế – xã hội của quốc gia . Chính phủ các nước đã từng trải qua lạm phát cao đều cho rằng không kiểm soát được lạm phát là diều đáng sợ nhất . Toàn bộ hoạt động kinh tế bị méo mó , biến dạng nghiêm trọng , gây tâm lý xã hội phức tạp và làm tăng phí ghê gớm trong sản xuất . Đặc biệt khi lạm phát cao xảy ra , sức mua đối nội của đồng tiền giảm sút , lòng tin của dân chúng cũng như vào các nhà đầu tư vào sự ổn định của đồng tiền , vào hệ thống ngân hàng và cao hơn nữa là vào chính phủ sẽ bị xói mòn . Điều này gây tác hại vô cùng lớn lao đến toàn bộ hoạt động của nền kinh tế đất nước . Vả lại , từ khi rơi vào tình trạng lạm phát cao đến khi ra khỏi tình trạng đó và nhìn chung đều cần một thời gian dài cho sự hao tổn cả về mặt vật chất và uy tín
Lạm phát cao làm giảm các nguồn từ thu thuế cho ngân sách nhà nước. Một mặt , lạm phát cao dẫn đến sản xuất bị đình đốn làm cho nguồn thu thuế bị giảm sút cả về mặt quy mô và chất lượng . Mặt khác, lạm phát cao đồng nghĩa với sự mất giá của đồng tiền . Do vậy , với cùng một số lượng tiền thu từ thuế giá trị nguồn thu thực tế giảm xuống khi có lạm phát cao . Ví dụ ở Mêxicô , lạm phát làm giảm nguồn thu thực tế năm 1981 là 2,6% GDP và giai đoạn 1983-1987 là 1,6% GDP.
V) Yêu cầu về kiềm chế và khắc phục lạm phát
Từ những tác động tiêu cực của lạm phát chúng ta có thể thấy rằng : mỗi khi lạm phát cao xã hội thì tổn thất về kinh tế cũng nhu xã hội là rất lớn. Do vậy , bất cứ nền kinh tế nào khi có lạm phát có xu hướng tăng cao thì phải có ngay các giải pháp để chống . Yêu cầu đặt ra là phải kiềm chế và khắc phục lạm phát .
Chống lạm phát đến một mức nào đó có thể làm cho tăng trưởng kinh tế chậm lại . Nhưng để nền kinh tế không bị tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì đòi hỏi phải đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao là nguyên tắc bất di bất dịch . Như vậy , cần xử lý hài hoà 2 mục tiêu không cùng hướng này .
Phần hai: Thực trạng vấn đề lạm phát ở nước ta
I) Thời kỳ trước đổi mới trước 1986
Truớc thời kỳ dổi mới, ở miền Bắc nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp nên vấn đề giá cả chưa chịu tác động của quy luật thị trường. Giá cả được định ra theo những mệnh lệnh và quy định , do vậy lạm phát không xuất hiện . ở miền Nam nền kinh tế thị trường đã được phát triển trước năm 1975 và nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp chỉ phát triển sau năm 1975. Do sự sát nhập của 2 nền kinh tế khác nhau dẫn đến tình hình là mặc dù nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung nhưng vẫn tồn tại nền kinh tế thị trường phát triển ngầm . Mặc dù giá hàng hoá được nhà nước quy định từ những năm 1960 và áp dụng cho những hàng hoá phân phối theo kế hoạch và tem phiếu nhưng ngoài thị trường vẫn tồn tại một loại giá khác cao hơn nhiều so với giá của nhà nước quy định. Hiện tượng lạm phát ngầm xuất hiện, hàng hoá phân phối theo định lượng ngày một khan hiếm, giá cả thị trường ngày một tăng lên và nền kinh tế khủng hoảng trầm trọng. Và thực tế là những khó khăn xuất hiện không thể khắc phục được nếu cứ giữ nguyên mô hình kinh tế tập trung kiểu quan liêu bao cấp đó . Thời kì 1976-1980, vay nợ viện trợ nước ngoài chiếm 38,2% tổng số thu ngân sách nhà nhà nước và bằng 61,9% tổng số thu trong nước. Bội chi ngân sách nhà nước vào năm 1980 là 18,1% và năm 1985 là 36,6% so với GDP . Đây là tình trạng đất nước làm không đủ ăn , tình hình kinh tế – xã hội khó khăn không thể kể hết.
II) Thời kì bắt đầu đổi mới 1986 – 1990
Sau năm 1985 , cùng với sự cải tổ của Liễn Xô , các nước Đông Âu XHCN lần lượt bị sụp đổ , nguồn viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam cùng bị cắt giảm mạnh , làm cho giá cả đầu vào như : sắt thép , dầu hoả , máy móc , thiết bị …nước ta phải mua với giá cao đưa đến chi phí sản xuất tăng lên , trong nước thì thiếu tiền . Chính phủ chỉ còn cách in tiền để các xí nghiệp quốc doanh có tiền mua nguyên vật liệu phục vụ sản xuất , đưa nền kinh tế đã khó khăn lại càng kiệt quệ hơn . Tỷ lệ lạm phát lên đến mức phi mã (191,6%) , nhu cầu hàng hoá trên thị trường rất cao nhưng thị trường trong nước lại cắt khúc . Ngoại thương được tự do hoá rất ít , tình trạng khan hiếm ngoại hối tăng nhanh ; Chính phủ lại in thêm một lượng tiền lớn đưa vào thị trường làm cho giá cả vốn đã cao lại cao thêm đưa đến thu nhập thực tế của người lao động giảm xuống một cách đáng kể . Trong nông nghiệp , còn nhiều bất cập nên nhiều nông dân không muốn tiếp tục tăng sản xuất của họ . Hơn nữa bão lụt xẩy ra ở một số vùng , địa phương dẫn đến sản xuất bị đình đốn , nạn đói xảy ra ở một số nơi trên đất nước . Đến năm 1987 , do thiên tai sản lượng lương thực giảm 3,5% và đầu năm 1988 một số vùng ở miền Bắc bị đói .
Với những hoàn cảnh nêu trên , nhân dân tích cực tích trữ hàng hoá , lương thực , vàng , đôla càng nhiều vì sợ đồng tiền Việt Nam sẽ còn mất giá tạo nền cầu giả tạo tăng cao , giá cả tăng vọt . Tất cả những điều trên là nguyên nhân gây ra lạm phát phi mã đến chóng mặt xuất hiện , trong khi tăng trưởng kinh tế thì giảm xuống gần số 0. Đường biểu diễn tỷ lệ lạm phát được thể hiện ở đồ thị dưới
III) Thời kì kinh tế đi vào ổn định, lạm phát được kiểm soát 1991 – 1995
Bước sang giai đoạn 1991 – 1995 , tình hình kinh tế – xã hội nước ta có nhiều chuyển biến tích cực nhờ cải cách kinh tế được triển khai trên tất cả các lĩnh vực kinh tế . Nhờ đó tốc độ tăng trưởng đạt khá cao , liên tục và toàn diện , nền kinh tế đã bắt đầu vượt qua khủng hoảng để đi vào thế ổn định . Sự tăng trưởng kinh tế vượt trội hơn tất cả các giai đoạn trước đó với tốc độ tăng trưởng cao nhất , ổn định và liên tục tăng trưởng từ bản thân nền kinh tế ít dựa vào bao cấp và trợ lực từ bên ngoài . Đi cùng với thành công trong tăng trưởng kinh tế là thành công trong việc bước đầu chặn được lạm phát .Chỉ số giá tiêu dùng giảm từ 67,1% năm 1990 xuống 12,7% năm 1995 . Mặc dù tỷ lệ lạm phát vẫn còn ở 2 con số , nhưng đây là chỉ số rất nhỏ bé so với các năm trước đó , tình hình kinh tế – xã hội có nhiều khởi sắc và đang ngày một đi vào thế ổn định và phát triển , đời sống nhân dân đã được cải thiện một bước . Đặc biệt là năm 1996 : tỷ lệ lạm phát giảm xuống còn 4,5% còn tăng trưởng kinh tế đạt 9,34%. Đây là một kết quả theo chiều nghịch , lạm phát giảm và tăng trưởng tăng. Chúng ta có thể thấy rõ sự ổn định này trong đồ thị dưới
Tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1991-1996
IV) Thời kỳ kinh tế có dấu hiệu trì trệ 1997 – 2000
Đến năm 1997 nền kinh tế nước ta đã phải đối mặt với những thách thức quyết liệt từ những yếu tố không thuận lợi bên ngoài , từ cuộc khủng hoảng kinh tế tài chình trong khu vực và thiên tai liên tiếp ở trong nước . Bên cạnh đó nhiều yếu kém trong nước đã bộc lộ ra : sản xuất một số ngành có phần bị trì trệ , thị trường xuất khẩu bị thu hẹp , tốc độ tăng từ vốn nước ngoài bị chậm lại . Đi cùng với tỷ lệ lạm phát được kiểm soát , giảm xuống mức thấp đáng kể và chuyển sang xu thế thiểu phát thì tốc độ tăng trưởng kinh tế có chiều hướng chững lại . Điều này làm cho cầu hàng hoá và dịch vụ vốn đã được khống chế xuống thấp lại càng thấp hơn . Kết quả là nền kinh tế lâm vào thiểu phát .
Tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1997 - 2000
V) Thời kì kinh tế có bước phát triển mới 2001 – 2003
Những năm đầu của giai đoạn 2001-2003 , chúng ta đã áp dụng nhiều biện pháp hạn chế thiểu phát , kích cầu nhằm đưa tỷ lệ lạm phát lên một mức hợp lý nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn . Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh , bên vững và ổn định , trong 3 năm qua 2001 – 2003 , nề kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu khả quan : năm 2000 chặn đứng đà giảm sút của tốc độ tăng trưởng GDP, từ năm 2001 tốc độ tăng GDP được cải thiện , bắt đầu tăng . Tỷ lệ lạm phát trong giai đoạn này cũng tăng dần lên từ –0.6% năm 2000 đến 3% năm 2003. Tuy nhiên bên cạnh sự phát triển mạnh của nền kinh tế thì lạm phát lại có nguy cơ tái diễn . Năm 2004 , tình hình biến động trên thị trường thế giới và biến động trên thị trường trong nước , lạm phát lại một lần nữa rình rập gây bất ổn nền kinh tế với tỷ lệ lên đén 9,5%
VI) Lạm phát giai đoạn 2004 – 2005
Trong giai đoạn hiện nay khi giá cả các mặt hàng trên thị trường thế giới tăng nhanh kéo theo tăng giá hàng hoá trong nước , hay nói cách khác lạm phát hiện nay là lạm phát chi phí đẩy. Mặc dù chỉ số giá và giá cả các mặt hàng trong nước 4 tháng đầu năm nay đã có nhiều chuyển biến tích cực , đã thấp hơn so với 4 tháng đầu năm 2004 nhưng nguy cơ lạm phát trong năm 2005 vẫn còn…Nguy cơ làm cho tổng cung hàng hoá thấp hơn tổng cầu hàng hoá luôn luôn túc trực và lạm phát cao đe doạ không phải là không có .Nguồn gốc sinh lạm phát không phải từ bên ngoài mà còn từ bên trong , chứ không phải từ phía nào . Bên ngoài do giá quốc tế tác động vào , bên trong do khó khăn nội tại gây ra .
Như vậy, qua 6 giai đoạn trên ta thấy rằng: Trong suốt thập kỷ 80 đặc biệt là trong những năm 90, nền kinh tế Việt Nam rất khó khăn, hàng hoá viện trợ của Liên Xô- Đông Âu bị cắt giảm. Quan hệ nội bộ thì lục đục. Trong khi đó, năm 1975 kết thúc chiến tranh nền kinh tế nước ta bị kiệt quệ. Nhà nước phải chi tiền để bù lỗ cho xăng dầu, bù giá, cấp phát tín dụng, bù giá hàng nhập khẩu… nên lạm phát trong thời kỳ này rất cao. Nhưng trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã có những điểm khác hẳn so với thời kỳ trước. Hàng hoá nhiều, xuất khẩu cao, đầu tư nước ngoài vào lớn. Không những thế tính chất của nền kinh tế của nước ta hồi đó và bây giờ cũng rất khác nhau, khác cả về quy mô và mức độ. Hiện nay, do nước ta đã kiểm soát được sự phát triển của nền kinh tế nên tỉ lệ lạm phát đã giảm xuống nhanh chóng. Mặc dù còn những bất ổn khó lường nhưng nước ta vẫn tiếp tục giữ được tính chủ động trong quản lý, điều hành kinh tế, giữ được mức cân đối vĩ mô, kiềm chế tăng giá, kiểm soát lạm phát. Và chắc chắn lạm phát cả năm 2005 sẽ thấp hơn mức tăng trưởng GDP.
Phần ba: các quan điểm và giải pháp nhằm kiềm chế và khắc phục tình trạng lạm phát
I) Quan điểm của Đảng và Nhà nước
Trong công cuộc đổi mới , đặc biệt là ngày nay , khi chúng ta đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì rõ ràng lạm phát đang trở thành vấn đề cấp bách . Do yêu cầu đổi mới nên Đảng và Nhà nước vần tiếp tục đổi nỗ lực kích cầu nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế . Nhìn chung tốc độ tăng trưởng của phương diện thanh toán , dư nợ tín dụng và chi tiêu chính phủ trong những năm này được duy trì ở mức cao tương tự , thậm chí cao hơn cả trong giai đoạn 1999 - 2003 . Tuy nhiên các bằng chứng thực nghiệm cho thấy các nguồn lực nhìn chung đã được sử dụng gần đến giới hạn . Trong bối cảnh đó , nếu không có các khoản đầu tư mới để tăng năng lực sản xuất , sự gia tăng tổng cầu này sẽ chủ yếu làm tăng mức giá mà ít ảnh hưởng đến sản lượng và việc làm . Điều này cũng cảnh báo về tiềm năng chính sách kích cầu có thể tiếp tục khai thác trong thời gian tới . Bên cạnh đó , việc điều chỉnh quản lý của Nhà nước còn chưa theo kịp yêu cầu , nhất là trong hệ thống phân phối lưu thông ( điển hình là thép , thuốc chữa bệnh , xăng dầu…) cũng tạo yếu tố tâm lý bất lợi , làm tăng tốc độ chu chuyển của tiền .
Trước một loạt các vấn đề đặt ra như vậy thì quan điểm của Đảng và Nhà nước theo tinh thần Đại hội Đảng IX đã khẳng định là : phải tiếp tục phát triển kinh tế mở cửa hội nhập và bằng mọi biện pháp cps thể phải kiềm chế và khắc phục lạm phát , sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hoá - hiện đại hoá .
II) Các chính sách và giẳi pháp nhằm kiềm chế và khắc phục lạm phát
1. Chính sách , giải pháp và cơ chế quản lý vĩ mô
a) Các giải pháp quản lý giá cả
Tăng cường công tác quản lý thị trường , có các biện pháp cụ thể ( hành chính , kinh tế ) , không để xảy ra hiện tượng lợi dụng việc điều chỉnh giá xăng dầu để tăng giá các sản phẩm một cách không hợp lý .
Kiểm soát chặt chẽ việc định giá cả , chi phí giá thành đối với các sản phẩm độc quyền và các ngành sản xuất cung ứng vật tư nguyên liệu quan trọng
Bổ sung , hoàn thiện các quy chế pháp luật về quản lý thị trường giá cả, để hướng dẫn thực hiện nghiêm chỉnh pháp lệnh đã ban hành . Tăng cường công tác kiểm tra , thanh tra giá , tổ chức hệ thống đại lý tốt , có khả năng kiểm soát đối với một số sản phẩm quan trọng , trước hết là mặt hàng sắt thép , một số loại thuốc tân dược ,…
Tổ chức xuất khẩu lương thực gắn với bảo đảm ổn định thị trường giá cả trong nước .
Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính , thường xuyên rà soát lại hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về giá , sửa đổi , bổ sung cho phù hợp với cơ chế quản lý mới .
b) Ngân sách và tiền tệ
Tăng cường các biện pháp thực hiện đạt và vượt kế hoạch ngân sách nhà nước
Kiểm soát chặt chẽ việc chi tiêu ngân sách nhà nước . Tăng cường kiểm tra , thanh tra xây dựng cơ bản . Khắc phục tình trạng chi ngân sách nhà nước không có hiệu quả
Thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng , sử dụng các biện pháp tiền tệ hợp lý : xem xét lại tốc độ phát hành , điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn , tái chiết khấu của ngân hàng nhà nước đối với ngân hàng thương mại , sử dụng các công cụ lãi suất dương và công cụ thị trường mở để giảm bớt cung về tiền tệ trên thị trường , hạn chế tối đa các tác động xấu gây biến động mặt bằng giá . Tăng dự trữ bắt buộc làm cho giảm tổng phương tiện thanh toán đưa vào nền kinh tế , chi thêm tiền để mua dự trữ ngoại tệ trong chừng mực hợp lý để không tăng tiền trong lưu thông , điều hoà ổn định tỷ giá và cân đối ngoại tệ , bảo đảm cung ứng đủ ngoại tệ để nhập khẩu các vật tư nguyên liệu quan trọng , nhất là xăng dầu , sắt thép và một số vật tư hoá chất chủ yếu khác .
c) Chính sách tài khoá
Kiên quyết giữ mức bội chi ngân sách Nhà nước ở mức hợp lý so với GDP trên cơ sở phấn đấu tăng thu , tiết kiệm chi và hiệu quả . Quản lý chặt chẽ các khoản chi , chống tham nhũng một cách quyết liệt
Tăng tỷ lệ tu ngân sách Nhà nước bằng các biện pháo khai thác nguồn thu , tích cực chống thất thu . Kiểm soát chặt chẽ chi thường xuyên , cắt bỏ những khoản chi chưa thật cần thiết .
d) Đối với một số mặt hàng thiết yếu
*) Lương thực , thực phẩm
Đẩy mạnh sản xuất lương thực , thực phẩm và xuất khẩu ở mức hợp lý về lương thực , không gây ra khan hiếm lương thực để tránh đẩy giá lương thực lên quá cao , đảm bảo an ninh , lương thực quốc gia và hạn chế tốc độ tăng giá lương thực .
*) Các mặt hàng công nghiệp
Giao bộ thương mại và các địa phương kiểm tra chặt chẽ hệ thống đại lý , chống nạn găm hàng chờ tăng giá , chống hàng giả kém chất lượng
Tăng cường công tác dự báo của ngành để có cơ chế kinh doanh phù hợp , tránh tình trạng chênh lệch giá quá cao giữa các vùng trong cả nước
Cần có quy chế kinh doanh các sản phẩm phù hợp với tình hình cụ thể giữa tổng công ty , các liên doanh , các đơn vị thành viên trong toàn hệ thống , cần thiết lập đồng bộ hệ thống đại lý bán lẻ , tăng cường kiểm soát giá cả .tiếp thị và phương thức mua bán
Các bộ chỉ đạo ngành sản xuất kiểm tra tình hình sản xuất và cung ứng hàng hoá trong tháng theo tình hình cung cầu nguyên liêu trong cả nước .
2. Các giải pháp cấp vi mô ( đối với các doanh nghiệp và đơn vị )
Nghiêm cấm tất cả ( nhà máy công ty và đại lý ) không được để xảy ra các hành vi đầu cơ nâng giá , gây khó dễ cho khách hàng .
Cần có quy chế kinh doanh các sản phẩm phù hợp với tình hình cụ thể giữa tổng công ty , các liên doanh , các đơn vị thành viên trong toàn hệ thống , cần thiết lập đồng bộ hệ thống đại lý bán lẻ , tăng cường kiểm soát giá cả .tiếp thị và phương thức mua bán
Các doanh nghiệp và đơn vị cần huy động thêm nguồng vốn tanh nhanh khả năng đầu tư nâng cao hiệu quả các nhân tố sản xuất tạo công ăn việc làm nâng cao tay nghề nâng cao trình độ và năng lực của người lao động; nâng cao công suất sử dụng kết cấu cơ sở hạ tầng và hiệu quả sử dụng các năng lực sản xuất hiện có; mở rộng thị trường nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường trong nước và thúc đẩy hội nhập quốc tế; thực hiện tốt cải cách hành ch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0729.doc