MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
1.Khái niệm người chưa thành niên (NCTN) và thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội. 2
1.1 khái niệm người chưa thành niên(NCTN) 2
1.2.Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên 3
2. Các quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên. 3
2.1. Qui định về đối tượng chứng minh 3
2.2. Quy định về chủ thể tiến hành tố tụng. 8
2.3 Người tham gia tố tụng. 10
2.4. Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn và giám sát bị can, bị cáo là người chưa thành niên 12
3. Một số vấn đề thực tiễn thi hành và kiến nghị nhằm hoàn thiện thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội. 13
3.1. Về đối tượng chứng minh. 13
3.2.Về chủ thể tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. 14
3.3. Về bắt, tạm giữ, tạm giam và giám sát người chưa thành niên 15
3.3. Về xét xử 16
3.4. Về vấn đề thành lập Tòa án người chưa thành niên 17
KẾT LUẬN 18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 19
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3223 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệc giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ án hình sự. BLTTHS qui định đối tượng chứng minh tại Điều 63.
Tuy nhiên, khi tiến hành tố tụng đối với những vụ án do NCTN thực hiện, ngoài việc xác định những vấn đề cần chứng minh có tính chất bắt buộc chung đối với vụ án hình sự qui định tai Điều 63 BLTTHS thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cần phải chứng minh những tình tiết quy định tại Khoản 2 Điều 302 BLTTHS, bao gồm:
-Tuổi, trình độ phát triển thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của NCTN.
Trong quá trình tiến hành tố tụng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải xác định tuổi của NCTN. Việc này cần thiết cho việc truy cứu hay không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó.
Điều 12 BLHS Việt Nam có quy định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
Bởi vậy, khi điều tra, truy tố, xét xử đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà lí lịch của họ chưa được làm rõ thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án chỉ được khởi tố, truy tố, xét xử khi có đủ căn cứ kết luận rằng bị can, bị cáo là người đã đủ tuổi chịu TNHS theo luật định.
Ngoài ra, tuổi của NCTN có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định áp dụng hình phạt thích hợp và các vấn đề khác như: là cơ sở để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm, ảnh hưởng đến việc xác định trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự, việc xác định chính xác độ tuổi của NCTN giúp cho việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do NCTN gây ra Xem thêm Điều 606 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005.
.Bảo đảm chế độ thi hành án đúng quy định của pháp luật đối với NCTN.
Thông thường, việc xác định độ tuổi phải căn cứ vào giấy khai sinh, đối chiếu với một số tài liệu cần thiết khác có liên quan. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng biết được chính xác tuổi của bị can, bị cáo chưa thành niên. Đối với những trẻ em sống lang thang đường phố, không có nơi cư trú rõ ràng, không có giấy khai sinh hay các giấy tờ cần thiết khác như giấy chứng sinh, sổ hộ khẩu…hoặc với NCTN không đủ giấy khai sinh, giấy ghi nhận việc nuôi con nuôi; hoặc có nhưng các loại giấy tờ xác nhận thông tin lại mâu thuẫn nhau. Điều này đã gây không ít vướng mắc tới quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp không biết chính xác ngày, tháng sinh của bị can, bị cáo thì cần phải xác định như sau:
Nếu xác định được tháng sinh nhưng không xác định được ngày nào trong tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo.
Nếu xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng nào thì lấy ngày cuối cùng của quý đó làm ngày sinh.
Nếu xác định được nửa đầu hay nửa cuối của năm nhưng không xác định được ngày tháng nào thì lấy ngày 30 tháng 6 hoặc 31 tháng 12 của năm đó làm ngày sinh.
Nếu không xác định nửa năm nào, quý nào, tháng nào trong năm thì lấy ngày 31 tháng 12 tương ứng của năm đó để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo.
Ngoài ra, Điều 155 BLTTHS năm 2003 đã bổ sung một điểm mới so với BLTTHS năm 1988. Theo đó, trong những trường hợp không có tài liệu khẳng định tuổi của người đó hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu, lời khai của bị can, bị cáo, lời khai của gia đình bị can, bị cáo thì cơ quan tiến hành tố tụng bắt buộc trưng cầu giám định.
Ngoài độ tuổi, Đối với NCTN, cơ quan tiến hành tố tụng còn phải làm rõ mức độ phát triển về thể chất và tinh thần của họ. Mức độ phát triển về tinh thần, một số khuyết tật về thể chất cũng như một số bệnh tật có thể là tác nhân chính gây nên sự rối loạn về nhân cách, đẩy NCTN rơi vào con đường phạm tội.
- Điều kiện sinh sống và giáo dục
Điều kiện sinh sống và giáo dục có ảnh hưởng to lớn tới sự phát triển nhân cách và có ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi phạm tội của NCTN.
Để xác minh được thì cơ quan tiến hành tố tụng cần thực hiện xác minh điều kiện sinh sống của gia đình,nội dung giáo dục của nhà trường, môi trường sinh hoạt ở địa phương nơi NCTN cư trú, học tập hoặc cơ quan, tổ chức nơi NCTN làm việc.
Gia đình là môi trường xã hội đầu tiên mà con người tiếp xúc, là yếu tố chủ đạo cho sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Thông qua gia đình, con người được nuôi nấng, giáo dục và tiếp thu những kinh nghiệm xã hội đầu tiên. NCTN rất dễ bị ảnh hưởng bởi những yếu tố tiêu cực trong chính môi trường gia đình của họ, trực tiếp là của những người cùng chung sống trong gia đình như ông bà, bố mẹ, anh chị em.
Nếu coi gia đình là chiếc nôi thứ nhất, thì nhà trường chính là chiếc nôi thứ hai, ảnh hưởng đến quá trình phát triển nhân cách của NCTN. Thực tế cho thấy, thường những học sinh bị lưu ban thì hay bỏ học, đi lang thang…và dễ sa ngã vào con đường phạm tội.
Ngoài ra, những hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội, môi trường xung quanh không lành mạnh cũng ảnh hưởng không tốt đến đầu óc nhạy cảm và hiếu động của NCTN.
- Có hay không có người thành niên xúi giục
Do còn ít tuổi, thiếu kinh nghiệm sống lại bồng bột, nhẹ dạ, cả tin cho nên NCTN dễ bị người lớn lôi kéo, xúi giục, rủ rê vào con đường phạm tội.
Đối với các vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN còn cần phải xác định xem có người lớn tuổi lôi kéo hoặc xúi giục hay không vì đó không những là tình tiết tăng nặng đối với người thành niên phạm tội (theo Điểm n Khoản 1 Điều 48 BLHS) mà nó còn là tình tiết giảm nhẹ TNHS đối với NCTN phạm tội theo qui định tại Điểm i Khoản 1 Điều 46 BLHS. Thực tiễn hoạt động tố tụng cho thấy, đã xảy ra không ít trường hợp, bọn tội phạm đã lợi dụng sự nhẹ dạ cả tin, sự bồng bột, non nớt về kinh nghiệm sống của NCTN để rủ rê, lôi kéo, thậm chí đe dọa, cưỡng bức, chi phối về mặt vật chất hoặc tinh thần, đẩy NCTN rơi vào con đường phạm tội.Và cá biệt, có cả những trường hợp mà chính bố mẹ lại là người lôi kéo, “ép buộc” con em mình phạm tội.
Như vậy, làm rõ nội dung có hay không có người thành niên xúi giục trong vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN thực sự là một vấn đề cần thiết. Nó góp phần giúp cơ quan tiến hành tố tụng làm rõ được hoàn cảnh, điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội, đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, phát hiện đồng phạm trong vụ án mà NCTN thực hiện, đảm bảo không để lọt tội phạm, không làm oan sai người vô tội, trừng trị nghiêm khắc người thành niên xúi giục nhằm nâng cao chất lượng công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.
-Nguyên nhân và điều kiện phạm tội
Trong những vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN thì đây lại là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xác định, đánh giá đầy đủ tính chất của hành vi phạm tội, áp dụng hình thức xử lí NCTN phạm tội cũng như biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Muốn xác định nguyên nhân phạm tội, trước hết phải xen xét các hiện tượng, quá trình xã hội vì nguyên nhân và điều kiện phạm tội cũng không nằm ngoài qui luật xã hội. Có những nguyên nhân và điều kiện phát sinh thuộc về trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội. NCTN trong quá trình hình thành nhân cách chịu ảnh hưởng của môi trường gia đình mà trước hết là vai trò của cha mẹ, ông bà, anh chị em… Sự không nghiêm khắc, buông lỏng quản lí, giáo dục của gia đình cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của NCTN..
Bên cạnh đó, nhà trường cũng được coi là “gia đình thứ hai” của các em. Hầu hết, trong một thời gian dài của quá trình hoàn thiện mình, NCTN đều gắn với môi trường sinh hoạt ở nhà trường vì quá trình học tập là một trong những phương pháp hoàn thiện nhân cách con người nhanh chóng và khá hiệu quả. Nhưng nhiều nơi, nhà trường vẫn chưa làm tròn được trách nhiệm của mình trong việc quản lí, giáo dục học sinh. Đó chính là kẽ hở cho các hiện tượng tiêu cực xâm nhập. Số lượng NCTN bỏ học ngày càng gia tăng làm cho trình độ văn hóa của các em ngày càng giảm sút, trình độ hiểu biết thấp kém nên các em có xu hướng tụ tập với nhóm bạn bè “cùng cảnh ngộ”, sống buông thả hoặc bị người thành niên kích động, dụ dỗ vào con đường phạm tội.
Ngoài ra, một nhân tố đáng chú ý trong quá trình tìm hiểu nguyên nhân, điều kiện phạm tội đối với những vụ án về NCTN đó là môi trường xã hội. Tình trạng bất cập về tổ chức cộng đồng mà cụ thể là việc tổ chức vui chơi, giải trí, xây dựng các công trình văn hóa cho thanh thiếu niên còn quá chật hẹp, chưa được đầu tư, quan tâm thích đáng, dẫn đến các em thường tiêu hao thời gian bằng cách tụ tập ngoài đường phố bằng những trò nghịch ngợm, tiêu cực. Một bộ phận NCTN, do không thi được vào phổ thông trung học hoặc không có điều kiện để học nhưng chúng ta lại chưa có những hình thức học nghề phù hợp cho các em, vì vậy các em còn chơi bời, lang thang rồi giao du với những tụ điểm xấu và kết thúc bằng những hành vi phạm tội.
Tóm lại, trong quá trình giải quyết vụ án do NCTN thực hiện, các cơ quan tiến hành tố tụng, ngoài việc phải thu thập chứng cứ theo qui định chung của BLTTHS còn bắt buộc phải chứng minh các vấn đề trên. Những tình tiết trên không những góp phần giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ mà nó còn góp phần giúp đỡ, giáo dục NCTN trở thành công dân có ích cho xã hội, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm CTN.
2.2. Quy định về chủ thể tiến hành tố tụng.
Khoản 1 Điều 302 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lí học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người chưa thành niên”.
Do những đặc điểm tâm sinh lí của NCTN là chưa phát triển toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần, tính làm chủ bản thân còn thấp, khả năng tự kiềm chế chưa tốt, họ chưa thể có sự cân nhắc, tính toán thận trọng, chín chắn trong suy nghĩ trước khi có hành vi phạm tội. Bởi vậy, trình độ hiểu biết và những kiến thức cơ bản về tâm lí học, khoa học giáo dục… sẽ là công cụ cần thiết giúp người tiến hành tố tụng có thể hiểu tương đối đầy đủ các dấu hiệu về nhân thân của NCTN.
- Trên cơ sở có những thấu hiểu về hoàn cảnh xã hội, tâm lí của NCTN thì người tiến hành tố tụng mới có thể thực sự cảm thông với lỗi lầm, cách xử sự thiếu chín chắn dẫn đến con đường phạm tội của NCTN, không coi các em là đối tượng ngoại lai của xã hội, là đối tượng cần phải trừng trị và qua đó giúp các em nhận thức được lỗi lầm, tự giác sửa chữa để trở thành công dân có ích cho xã hội. Từ đó họ mới có ý thức sâu sắc đế chấp hành đúng thủ tục đối với NCTN vì chính sách hình sự nhân đạo nói chung, TTHS nói riêng của Nhà nước ta trong việc xử lí NCTN phạm tội. Có như vậy thì mới tạo được lòng tin và sự khai báo trung thực, thái độ hợp tác, cầu thị từ phía người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án là NCTN, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng làm sáng tỏ tình tiết của vụ án một cách nhanh chóng, khách quan, đưa ra các biện pháp xử lý và phán quyết phù hợp đối với NCTN.
Muốn vậy, người tiến hành tố tụng cần phải có những kiến thức tâm lí học, khoa học giáo dục cũng như kiến thức về đấu tranh phòng và chống tội phạm do NCTN thực hiện… Thực tiễn cho thấy, các tiêu chí về trình độ hiểu biết của người tiến hành tố tụng đối với NCTN là cơ sở đảm bảo cho việc đánh giá, nhìn nhận vấn đề hành vi phạm tội của NCTN một cách khách quan, công bằng, tránh sự thiên kiến, áp đặt phiến diện từ phía người tiến hành tố tụng, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN.
Một trong những mục đích của TTHS là không chỉ nhằm xóa bỏ thành kiến, trạng thái tâm lí tiêu cực của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN mà còn nhằm thay đổi thái độ của họ đối với hành vi của mình, từ đó hướng đến giáo dục cho NCTN những phẩm chất tốt, cảm hóa tâm lí tiêu cực và cách xử sự trái xã hội của các em, để sớm đưa các em trở về với gia đình, nhà trường, tái hòa nhập với cộng đồng xã hội.
Tuy nhiên, trên thực tế ở nước ta hiện nay cũng chưa có cơ quan tiến hành tố tụng cũng như người tiến hành tố tụng chuyên trách để điều tra truy tố xét xử NCTN.
2.3 Người tham gia tố tụng.
- Theo quy định của Bộ luật TTHS thì đối với những vụ án mà người thực hiện hành vi phạm tội là NCTN thì sự tham gia của người bào chữa là bắt buộc ( Điểm b, khoản 2, điều 57 BLTTHS 2003 ). Theo qui định của BLTTHS 2003, NCTN có thể tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp mời người bào chữa. Đại diện hơp pháp của NCTN có thể tự mình bào chữa cho những người này. Trong trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN hoặc đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị UBMTTQ Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình Xem Điều 305 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
. Đây là một qui định mới nhằm tăng cường nội dung dân chủ của pháp luật TTHS, tạo ra những điều kiện bảo vệ có hiệu quả các quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.
Theo quy định của Luật TTHS năm 2003 thì người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN và người đại diện hợp pháp có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa sau khi Đoàn luật sư hoặc UBMTTQ Việt Nam đã cử người bào chữa. Tòa án phải “căn cứ vào Khoản 2, Khoản 3 Điều 56 BLTTHS để chấp nhận hoặc không chấp nhận. Trong trường hợp Tòa án không chấp nhận yêu cầu thay đổi người bào chữa thì vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung” TANDTC(1999), Công văn số 52/1999/KHXX ngày 15/6/1999 của TANDTC về thực hiên một số qui định của BLTTHS đối với bị cáo là NCTN
.
Đề cập tới quyền từ chối người bào chữa của bị can, bị cáo là NCTN và người đại diện hợp pháp của họ thì Công văn số 16 năm 1999 ( CV16/1999/KHXX ) của TANDTC ngày 01/12/1999 và Nghị quyết số 03 NQ03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC đã đề cập khá chi tiết và có những hướng dẫn cụ thể.
- Bên cạnh qui định về người bào chữa, BLTTHS năm 2003 còn có những qui định về sự tham gia tố tụng của người đại diện hợp pháp, đại diện gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN.
Xuất phát từ cơ sở tâm sinh lí của NCTN, khi tham gia tố tụng, họ không thể tự đứng ra để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên với những vụ án mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN thì sự tham gia tố tụng của người đại diện hợp pháp, đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức xã hội là rất quan trọng. Đó vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ bắt buộc để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho NCTN, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án nhanh chóng, hiệu quả, đồng thời động viên toàn xã hội tham gia vào việc chăm sóc, giáo dụng NCTN. Nhưng, có vụ án mà bị cáo là NCTN không có người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng. Một trong những nguyên nhân chính của những sai phạm này là do các quy định về người đại diẹn hợp pháp trong Bộ luật TTHS năm 2003 vẫn chưa cụ thể rõ ràng nên rất khó khăn trong thực tế.
Theo qui định tại Khoản 1 Điều 306 BLTTHS thì đại diện gia đình người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN; đại diện nhà trường; Đoàn thanh niên cộng sản Hồ CHí Minh; tổ chức khác nơi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo học tập, lao động và sinh sống được tham gia vào các hoạt động tố tụng cụ thể theo quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Tùy từng trường hợp và căn cứ vào từng vụ án riêng biệt mà cơ quan tiến hành tố tụng có thể triệu tập đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức tham gia tố tụng bằng những hình thức phù hợp nhằm làm rõ hơn về những tình tiết, đặc điểm nhân thân của bị can, bị cáo cũng như cung cấp những thông tin, nhận xét liên quan đến NCTN như hỏi cung bị can, đối chất, nhận dạng…Tuy nhiên, sự tham gia của đại diện gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội theo quy định tại điều 306 BLTTHS vẫn còn nhiều hạn chế.
Xem xét khái niệm “đại diện hợp pháp” và “đại diện gia đình”, chúng ta thấy khái niệm “đại diện gia đình” có nội hàm rộng hơn “đại diện hợp pháp” của NCTN vì “ đại diện hợp pháp” chỉ bao gồm cha, mẹ, người giám hộ, còn “đại diện gia đình” có thể là ông, bà, chú, bác, cô, dì, anh, chị, em có trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục NCTN.
Tuy nhiên hiện nay, Bộ luật TTHS lại không quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các đối tượng này,mà chỉ quy định chung chung là theo: “ quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án”, hoặc chỉ trong “ những trường hợp cần thiết khác”. Điều này khiến cho việc tham gia của họ chỉ mang tính hình thức.
2.4. Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn và giám sát bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Do những đặc điểm về tâm sinh lý của NCTN mầ việc thực hiện áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là NCTN phải được xem xét một cách thận trọng, nhất là trong những trường hợp bắt, tạm giữ, tạm giam. Cho nên khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với NCTN thì ngoài việc phải tuân thủ các quy định chung thì các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải đảm bảo thực hiện đúng các quy định tại Điều 303 BLTTHS như sau:
“1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80,81,82,86 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80,81,82,86 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.”
So sánh với quy định của BLTTHS năm 1988 trước đây, Điều 303 đã bổ sung khoản 3 là: Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam.
Không được giam giữ NCTN chung với người thành niên. NCTN phải được giam giữ ở khu vực riêng.
-Về việc giám sát NCTN
Theo quy định tại Điều 304 BLTTHS trong trường hợp không cần thiết phải tạm giam NCTN, thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể ra quyết định giao NCTN phạm tội cho cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của họ khi có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng. Những người được giao nhiệm vụ giám sát có nghĩa vụ giám sát chặt chẽ NCTN, theo dõi tư cách, đạo đức và giáo dục người đó. Hiện nay, không có văn bản pháp luật nào hướng dẫn về việc cha, mẹ, người đỡ đầu có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ giám sát của mình khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền. Như vậy,quy định tại điều 304 không những là quyền của NCTN phạm tội mà còn là nghĩa vụ đối với cha, mẹ, người đỡ đầu của họ.
3. Một số vấn đề thực tiễn thi hành và kiến nghị nhằm hoàn thiện thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
3.1. Về đối tượng chứng minh.
Như chúng ta đã biết, việc xác định tuổi của bị cáo là rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN. Tuy nhiên hiện nay, việc xác định tuổi của bị can, bị cáo là NCTN còn gặp nhiều vướng mắc. Bởi rất nhiều trường hợp trẻ em không có giấy tờ để chứng minh, xác nhận được độ tuổi, việc giám định xương còn có hạn chế khi vẫn có sai lệch.
Ngoài ra, đối với các đối tượng là trẻ em lang thang đường phố thì việc xác định về điều kiện sinh sống, giáo dục còn gặp nhiều khó khăn do các em không có nơi ở cố định.
3.2.Về chủ thể tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
Điều luật qui định rất chung chung về tiêu chuẩn của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng với những vụ án về NCTN là phải có hiểu biết cần thiết về tâm lí học, khoa học giáo dục, hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm CTN mà chưa có một qui định rõ ràng thế nào là hiểu biết “cần thiết” và hiểu biết “cần thiết” là hiểu biết ở mức độ nào. Điều luật cũng chưa có qui định bắt buộc rằng họ phải là người được đào tạo, bồi dưỡng về tâm lí học, khoa học giáo dục cũng như hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm của NCTN. Do đó, cần có quy định cụ thể về việc “Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng về những vụ án mà người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án là người chưa thành niên phải là người được đào tạo, bồi dưỡng về tâm lí học, khoa học giáo dục cũng như đấu tranh phòng và chống tội phạm của người chưa thành niên”.
+Về sự tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội:
Trong những vụ án mà bị can, bị cáo là NCTN thì sự tham gia của đại diện gia đình, nhà trường cũng hết sức quan trọng. Việc đó sẽ giúp cho các em bình tĩnh, bớt sợ hãi và có thái độ hợp tác tốt với các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên sự tham gia của đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức xã hội theo quy định của Điều 306 BLTTHS vẫn còn nhiều hạn chế. Những người này còn chưa nhận thức được đầy đủ vai trò của mình nên chưa chủ động tham gia trong các hoạt động tố tụng. Việc tham gia của đại diện gia đình, nhà trường và tổ chức xã hội chưa được chú trọng đúng mức, còn mang tính hình thức. Luật TTHS nên có những quy định cụ thể, rõ ràng hơn để xác định tư cách tố tụng của người đại diện gia đình cũng như quyền và nghĩa vụ của người diện hợp pháp không nên chỉ qui định rất chung chung “theo quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án” [Khoản 1 Điều 306] như hiện nay.
+Về việc tham gia của người bào chữa.
Theo quy định của BLTTHS thì trong những vụ án mà bị cáo là NCTN thì bắt buộc phải có sự tham gia của người bào chữa. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều trường hợp được chỉ định bào chữa thì luật sư bào chữa của mình một cách qua loa, việc không coi trọng bào chữa chỉ định và thiếu tinh thần, trách nhiệm đã không mang lại hiệu quả. Có nhiều luật sư bào chữa không dựa vào những tình tiết gỡ tội cho bị cáo mới thu được tại phiên tòa mà theo chương trình đã có sẵn TS Hoàng Thị Minh Sơn (2008)“ Những hạn chế trong việc thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”, Tạp chí Luật học số 10/2008.
.
3.3. Về bắt, tạm giữ, tạm giam và giám sát người chưa thành niên
+Về bắt, tạm giữ, tạm giam NCTN
Thứ nhất, việc qui định hai mức tuổi (từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi và từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi) để áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam như Điều 303 là không cần thiết. Mục đích của các biện pháp ngăn chặn trên là để đảm bảo thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Vì việc xác định tuổi chỉ đặt ra với việc định tội danh và xét mức hình phạt. Việc phân chia mức độ tuổi để áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên không những không hiệu quả mà nhiều khi nó còn gây khó khăn trong quá trình áp dụng.
Thứ hai, qui định về trường hợp bắt khẩn cấp tại Khoản 2 Điều 303 là không thống nhất với Điểm a Khoản 1 Điều 81 BLTTHS và Điều 17 BLHS, đồng thời nó không đảm bảo được tính nhất quán về nội dung nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật TTHS, không đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của NCTN. Điều 17 BLHS qui định “người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì phải chịu TNHS về tội định phạm”. Và Khoản1 Điều 81 BLTTHS đã cụ thể hóa Điều 17 BLHS, theo đó thì khi có căn cứ cho rằng, một người “đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng…” thì được bắt khẩn cấp. Tuy nhiên, Khoản 2 Điều 303 BLTTHS lại qui định: “Việc bắt khẩn cấp được áp dụng đối với NCTN từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi trong trường hợp họ chuẩn bị phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.” Nghĩa là NCTN chỉ cần chuẩn bị phạm tội nghiêm trọng do cố ý là đã bị bắt khẩn cấp rồi, trong khi người thành niên thì chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng mới phải chịu TNHS.
+Về giám sát bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Điều 304 không qui định rõ ràng về việc cha, mẹ hoặc người đỡ đầu có được từ chối nghĩa vụ giám sát NCTN hay không, nên trên thực tế, đã xảy ra nhiều trường hợp cha, mẹ, người đỡ đầu vì nhiều lí do khác nhau đã từ chối nghĩa vụ giám sát này, hoặc khi từ chối không được thì lại thiếu trách nhiệm kiểm soát không chặt chẽ NCTN để họ bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội mới vì Khoản 2 Điều 304 không đặt ra bất kì một trách nhiệm cụ thể nào đối với người có nghĩa vụ giám sát khi họ vi phạm nghĩa vụ giám sát, để NCTN bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội, có nghĩa là không hề có bất kì một bảo đảm nào về việc họ sẽ thực hiện hay thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ giám sát. Cho nên, để đảm bảo cho việc giám sát NCTN đạt được hiệu qủa thì nên quy định cụ thể trách nhiệm của người giám sát.
3.3. Về xét xử
Theo qui định của Khoản 1 Điều 307 thì thành phần HĐXX “phải có một Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh”. Tuy nhiên, khác với những giáo viên mầm non, giáo viên giảng dạy đại học, chỉ có những thầy cô giáo ở bậc trung học cơ sở và bậc trung học phổ thông (dù đã nghỉ hưu hay chuyển sang công việc khác) mới được đào tạo về tâm sinh lí của NCTN và do được thường xuyên tiếp xúc, quản lí, giảng dạy những đối tượng ở lứa tuổi từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi nên họ có sự hiểu biết sâu sắc về các em.
Pháp luật hiện hành qui định Tòa án sẽ quyết định hình thức xét xử kín hay công khai vụ án mà bị cáo là NCTN. Trong trường hợp cần thiết thì Tòa án
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên.doc