Đề tài Các tranh chấp có liên quan đến việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương

Xét về mặt chủ quan thì sự khác biệt về quyền lợi giữa người mua và người bán chính là nguyên nhân cơ bản làm phát sinh tranh chấp giữa cỏc bờn. Những điều có lợi cho người bán thì có thể trở thành bất lợi đối với ngườoi mua và ngược lại. Trong kinh doanh các bên ký kết đều muốn đạt được hiệu quả cao nhất trong mỗi thương vụ. Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng mà cỏc bờn mong đợi trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng. Mặt khác, để tận dụng cơ hội kinh doanh nhiều khi các nhà kinh doanh dám chủ động vi phạm các điều khoản trong hợp đồng và sẵn sàng vi phạm nghĩa vụ đã cam kết khi cân nhắc hiệu quả kinh doanh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Nói cách khác, chớnh cỏc bờn đó chủ động gây ra tranh chấp.

doc41 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4772 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các tranh chấp có liên quan đến việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khẩu phải phải kiểm tra kỹ các chứng từ cả về nội dung và hình thức mà thư tín dụng đến yờu cõự cung cấp nếu phát hiện thấy có những quy định không bình thường, chẳng hạn yêu cầu hoá đơn thương mại hoặc chứng nhận xuất xứ phải do người thứ ba của phía nước ngoài chứng nhận và phần sau cảng đích ghi trên vận đơn, ghi thêm bến tàu chỉ định nếu cần xử ký thận trọng. Ngoài ra việc sửa đổi có thể khắc phục cựng cỏc ngành hữu quan như ngân hàng, vận tải, thương kiểm... nghiên cứu đưa ra các biện pháp thoả đáng. Thuê tàu lùa cước: Tuỳ từng điều kiện giao hàng cụ thể ghi trong hợp đồng mà quy định bên xuất khẩu hoặc bên nhập khẩu thuê tàu. Thông thường điều kiện giao hàng của hợp đồng xuất khẩu là CIF hoặc CFR (cảng đến) thì bên bán phải có trách nhiệm thuê tàu. Đối với các công ty xuất nhập khẩu thông tin về thị trường thuê tàu có thể uỷ thác cho các đại lý hoặc các nhà môi giới tàu biển thì chi phí sẽ rẻ và phù hợp với hàng hoỏ mỡnh định chở. Giao hàng với tàu: Quy trình bốc xếp thường dễ gây hư hại về hàng hoỏ nờn nhà xuất khẩu phải giám sát và thận trọng bố trí các phương tiện phù hợp đúng thời gian. Sau khi hàng hoỏ đó được đưa lên tàu chủ hàng lấy biên lai thuyền phó rồi đổi lấy vận đơn đường biển. Vận đơn đường biển phải là vận đơn hoàn hảo, tức không có lời phê xấu của chủ tàu về bề ngoài của hàng hoỏ lờn vận đơn. Các chứng từ hàng hoá: Sau khi bốc xếp hàng hoá xuất khẩu xong, công ty xuất khẩu cần viết chính xác các loại chứng từ theo quy định của thư tín dụng, chứng từ sẽ được chuyển đến ngân hàng mở L/C của nước nhập khẩu, ngân hàng này sẽ căn cứ vào L/C của nhà nhập khẩu đã được mở và các chứng từ chuyển đến nếu hợp lệ, qua kiểm tra không sai sót thì sẽ chuyển tiền đến ngân hàng của nước xuất khẩu. * Các chứng từ gồm có: - Hối phiếu, hoá đơn, vận đơn, đơn bảo hiểm, giấy chứng nhận xuất xứ, chứng từ chế độ ưu đãi phổ biến, phiếu đóng gói và phiếy trọng lượng, giấy chứng nhận kiểm nghiệm. - Việc kiểm tra chứng từ nếu phát hiện những chỗ sai sót do nhân viên của các cơ quan thành lập chứng từ gây ra, tạo cơ sở cho nhà nhập khẩu vì những lý do khác nhau: biến động thị trường, muốn trả chậm tiền hàng, gây khó khăn cho nhà xuất khẩu như không chấp nhận thanh toán, bắt sửa như tăng chi phí, giảm lợi nhuận... 2.2.2. Rủi ro trong nhập khẩu. Thông thường người nhập khẩu Ýt bị rủi ro hơn người xuất khẩu. Nhưng đối với các đơn vị nhập khẩu Việt Nam thường gặp những trường hợp rủi ro sau: Ở Việt Nam các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu phục vụ cho sản xuất, một phần nhỏ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước: máy móc, trang thiết bị hiện đại, nguyên liệu cao trong nước chưa sản xuất được, các hàng tiêu dùng chất lượng cao... Việc nhập khẩu thường ở dạng hợp đồng uỷ thác nhập cho các đơn vị, công ty, cơ quan trong nước. - Các mặt hàng nhập khẩu thường có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, trình độ của người ký kết hợp đồng và cơ quan nghiệm thu hàng hoá chưa theo kịp. Nên khi hàng hoá nhập khẩu về, hay máy móc đã qua sử dụng chỉ khi kết thúc hợp đồng, hàng hoỏ đó được bàn giao cho các đơn vị uỷ thỏc, thỡ trong quá trình sử dụng mới phát hiện được máy móc lỗi thời, có nhiều bộ phận bị hỏng húc... Việc thay thế các bộ phận khác thường phải nhập khẩu từ chính công ty đó bỏn với giá đắt. Mặt khác hợp đồng đã chấm dứt nên những rủi ro do những người nhập khẩu phải chịu. Ví dụ: ở Việt Nam đã có rất nhiều trường hợp xảy ra như trên, đặc biệt trong việc mua bán cỏc dõy truyền sản xuất xi măng. Muốn khắc phục chỉ bằng cách các đơn vị nhập khẩu phải tỡm cỏc chuyên gia giỏi am hiểu sâu sắc về thương phẩm hàng hoá định giao dịch để tìm đối tác ký kết hợp đồng, phải nắm vững được các thông tin về thị trường, về đối tác và chuyên môn về nghiệm thu hàng. - Rủi ro do không thực hiện đúng hợp đồng của bên nhập khẩu. Vì những ký do khác nhau như bất khả kháng, do phương tiện vận tải, do nhà xuất khẩu làm xho hàng hoá bị mất mát, không đúng thời gian quy định, chất lượng không đúng hợp đồng. Mặt khác công ty nhập khẩu lại ký hợp đồng với các đơn vị trong nước để bán hàng hoá nhập khẩu của công ty. Tức trong nghiệp vụ này có sự bàn giao tay ba về hàng hoá, do sù vi phạm của nhà xuất khẩu hoặc phương tiện vận tải dẫn đến việc nhà nhập khẩu vi phạm hợp đồng với các đơn vị trong nước. - Để giải quyết tranh chấp cũng như những tổn thất về hàng hoá trong trường hợp này nhà nhập khẩu phải chứng minh cho chủ thể mua hàng của mình biết là nguyên nhân do bên thứ ba vi phạm hợp đồng và chứng minh cho bên xuất khẩu biết vì sự vi phạm hợp đồng của họ dẫn đến việc nhà nhập khẩu phải bồi thường cho thoả đỏng cỏc bên trên cơ sở này căn cứ là điều khoản thưởng phạt trong các hợp đồng đã ký. 2.3.3. Rủi ro trong phương thức thanh toán. Trong phần rủi ro trong xuất khẩu đã trình bày về rủi ro trong phương thức thanh toán thư tín dụng. Nhưng đây là vấn đề rất quan trọng vì phương thức thanh toán sẽ quyết định các bên có cố gắng thực hiện hợp đồng, cũng như thắng thua trong tranh chấp khi xảy ra rủi ro. Vì người cầm tiền thường nắm phần thắng trong tay và Ýt bị chịu rủi ro hơn. * Đồng tiền thanh toán. Đồng tiền thanh toán phổ biến thường là các tiền tệ mạnh: Franch, Mỏc. Yờn Nhật, Bảng Anh... nhưng bản thân việc sử dụng các đồng tiền này vẫn phải chịu các rủi ro nhất định do giá trị của các đồng tiền thường xuyên thay đổi (do thả nổi tiền tệ của Chính phủ). Mặt khác trong thanh toán quốc tế, tiền tín dụng được sử dụng rất phổ biến bao gồm: hối phiếu, ký phiếu, ngân phiếu, séc, đó là những giấy chứng nhận xác định nợ, xác định thanh toán bản thân nó chức một đồng tiền quốc gia nhất định để thanh toán vì vậy tiền tín dụng so với các đồng tiền quốc gia được thừa nhận là được phép lưu hành quốc tế thì Ýt có sự bảo đảm hơn cho nên khả năng rủi ro còng cao hơn nhưng do tính thuận tiện và tính dễ vận chuyển mà do đó tiền tín dụng được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế. Những đấy chỉ là rủi ro do đồng tiền thanh toán mang lại, các bên phải chấp nhận việc hạn chế rủi ro chỉ bằng cách thoả thuận với nhau một đồng tiền mạnh để thanh toán và áp dụng một số biện pháp bảm đảm, ví dụ như: lấy vàng làm thước đo giá trị để khi thanh toán quy đoỉo ra tiền... Còn tín dụng cỏc bờn khithanh toỏn nờn kiểm tra kỹ về tính pháp lý, tính hợp pháp của các tiền tín dụng, khả năng bảo đảm chắc chắn của tiền tệ, khả năng thanh toán của cỏc bờn... - Các phương thức thanh toán chủ yếu hiện nay trong buôn bán quốc tế tuỳ thuộc vào mối quan hệ của các chủ thể ký kết hợp đồng mà chọn cho mình phương thức thanh toán thích hợp. a. Gửi tiền: Gửi tiền bằng M/T, T/T, D/D là bên thanh toán chủ động gửi số tiền cho người nhận thông qua ngân hàng hoặc các con đường khác. Trong buôn bán quốctế thường áp dụng phương thức này trong các nghiệp vụ như thanh toán trước tiền hàng, thanh toán cùng đơn đặt hàng, bán chịu. Đặc điểm là đề cao thiện chí của cỏc bờn với sự tin tưởng cao, thủ tục đơn giản, nhanh gọn, đây là phương thức Ýt chắc chắn nhất. Trong trường hợp bên nhận tiền trước, giao hàng sau thì có lợi cho bên bán: vốn không bị ứ đọng. Ngược lại, bên mua chịu sự rủi ro rất cao. Nếu bên bán cố tình trì hoãn việc giao hàng hoặc có tranh chấp xảy ra bên mua thường bất lợi. Tức bên mua không có một sự đảm bảo trong trường hợp này. Trong trường hợp buôn bán chịu đối với bên bán, tức là giao hàng trước nhận tiền sau, bên bán không những bị chậm vốn mà còn chịu rủi ro do bên mua không thanh toán. Do đó bó bất lợi cho bên bán, có lợi cho bên mua. Phương thức này chỉ áp dụng trong các trường hợp cỏc bờn cực kỳ tin tưởng nhau như có quan hệ liên doanh. Trên thực tế phương thức này Ýt áp dụng. b. Uỷ thác nhận tiền (nhờ thu). Là một phương thức thanh toán trong đó người chủ nợ (người xuất khẩu) đưa hối phiếu uỷ thác ngân hàng tính tiến hàng từ phía người nợ (nhập khẩu), có hai loại uỷ thác: Nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ. Trong phương thức thanh toán này nhà xuất khẩu phải chịu rủi ro nếu hàng nhập khẩu phá sản hoặc mất khả năng thanh toán nợ, người xuất khẩu có thể không thu được về hoặc thu về chậm tiền hàng, sau khi người nhập khẩu từ chối thanh toán nợ, nếu người nhập khẩu không muốn nhận hàng. Khi đó hàng hoá của người xuất khẩu đã đến nơi, nép thuế quan nhập khẩu, kho bãi, bảo hiểm, chuyển bán dẫn tới bán đấu giá với thấp, hoặc bị gửi về trong nước. Trong trường hợp giao hoá đơn chấp nhận, sau khi người nhập khẩu nhận được hàng, việc đến kỳ hạn người nhập khẩu không thanh toán, người xuất khẩu sẽ bị tổn thất toàn bộ tiền hàng, do đó rủi ro của giao hoá đơn chấp nhận lớn hơn so với giao hoá đơn thanh toán. Ngược lại, trong phương thức này người nhập khẩu thì rất có lợi, anh ta không những được thủ tục xin mở thư tín dụng, không cần đặt tiền thanh toán ngân hàng trước, giảm chi phí mà còn có lợi cho lưu thông và chu chuyển vốn. Chính từ những đặc điểm trên phương thức này rất được nhiều công ty xuất khẩu áp dụng, nó kích thích được việc bán hàng tức khuyến khích việc mua hàng của các hãng nhập khẩu. Đây là phương pháp của các hãng xuất khẩu tiêu thụ hàng tồn kho và tăng cường cạnh tranh đối ngoại. c. Thanh toán thư tín dụng (được trình bày ở phần trên) III. Tranh chấp. 1. Tranh chấp: Thuật ngữ “tranh chấp” nói chung được hiểu là sự mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ phát sinh giữa người mua và người bán. Những bất đồng đó liên quan đến việc giải thích không giống nhau về nội dung các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, hoặc liên quan đến việc thực hiện các nghĩa vụ của một bên (người bán hoặc người mua). Nhìn chung các nhà kinh doanh đều coi thị trường và khách hàng là các yếu tố sống còn đối với hoạt động kinh doanh của mình, vì thế họ luon mong muốn tạo được và duy trì chữ "tín" với khách hàng. Song, các tranh chấp từ HĐMBNT trên thực tế là điều khó tránh khỏi do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong số các nguyên nhân dẫn đến tranh chấp có thể chia làm hai nhóm chớnh là nguyên nhân khách quan và các nguyên nhân chủ quan. a. Các nguyên nhân khách quan: Đây là các nguyên nhân xảy ra nằm ngoài ý muốn chủ quan của các bên ký kết. Các nguyên nhân đó thường là: + Yếu tố văn hoá: Truyền thống văn hóa của mỗi dõn tộc cũng như đời sống văn hoá hiện tại ảnh hưởng rất lớn đến nhạan thức, hành vi và cách xử sự của con người. Trong kinh doanh quốc tế cũng vậy, các nhà kinh doanh thường ở xa nhau, Ýt có điều kiện gặp gỡ thường xuyên và nếu có dịp gặp nhau thì lại bị những khó khăn về văn hoá ứng xử ngăn trở. Kinh nghiệm của nhiều thương gia cho thấy lời hứa trong kinh doanh có mức độ tin cậy khác nhau tuỳ thuộc vào nguồn gốc văn hoá. Lời hứa của giới kinh doanh Mỹ được coi là lời cam kết thực sự. Người Mỹ hứa điều gì thì đều hoàn toàn có thể tin tưởng rằng họ sẽ thực hiện bằng mọi cách. Điều này xuất phát từ lối sống thực dụng và tự tin của họ. Nhưng đối với các thương gia Pháp và các nước Châu Âu khỏc thỡ lời hứa chỉ mang tính xã giao. + Yếu tố ngôn ngữ: Sự bất đồng về ngôn ngữ trong kinh doanh làm cho sự hiểu biết của cỏc bờn không giống nhau, là nguyên nhân thưỡng xuyên dẫn đến các tranh chấp xảy ra. Trong kinh doanh thương mại quốc tế các thứ tiếng Anh, Pháp được sử dụng khá phổ biến để làm cầu nối giữa các nhà kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng các ngôn ngữ này trong giao dịch thông thường đôi khi cũng còn gây ra những hiểu nhầm, hiểu sai ý tưởng của nhau huống chi là trong kinh doanh cần phải sử dụng thứ ngôn ngữ thương mại và luật pháp chặt chẽ, chính xác, nhiều khi còn cầu kỳ, khó hiểu như các cụm từ chuyên môn, thuật ngữ rút gọn theo tập quán, các từ viết tắt v.v. làm cho các thương gia hiểu không chính xác nội dung giao dịch. Và không phải tất cả các nhà kinh doanh đều sử dụng thành thạo ngoại ngữ , thậm chí họ còn phải sử dụng cả “ ngôn ngữ ” điệu bộ. + Yếu tố thông tin: Thông tin mà các nhà kinh doanh quan tâm là những tin tức liên quan đến thị trường, giá cả, khách hàng. Hiện nay thông tin không còn là vấn đề nan giải trên thế giới. Tuy nhiên , vẫn còn có sự cách biệt về mạng lưới thông tin sẵn có giữa các nước. Không phải ở đâu các nhà kinh doanh cũng đều có điều kiện tiếp cận đầy đủ mọi thông tin chính xác mà họ cần. Hiện tượng công ty ma, công ty đang lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, hàng hoá vận chuyển lòng vòng hay hàng hoá kém phẩm chất v.v. khá phổ biến nhưng các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu lại chỉ phát hiện ra khi thực hiện hợp đồng, một phần là do thông tin không kịp thời hoặ thiếu chính xác. + Yếu tố luật pháp và tập quán thương mại: Luật pháp điều chỉnh HĐMBNT ngày càng đầy đủ , song mỗi hệ thống pháp luật lại có những đặc điểm riêng. Hệ thống luật lục địa, điển hình là Pháp, Đức đều được văn bản hoá tỉ mỉ, chính xác và không nhấn mạnh vai trò của tiền lệ pháp. Trái lại, hệ thống của luật Anh - Mỹ Ýt được pháp điển hoá nhưng lại nhấn mạnh vai trò của tiền lệ pháp. Vì vậy, cùng một vấn đề liên quan đến HĐMBNT nhưng luật mỗi quốc gia có thể có những quy định , có cách giải thích khác nhau . Các văn bản luật (đạo luật, Bộ luật ) thì Ýt thay đổi nhưng các văn bản dưới luật thường hay thay đổi. Bên cạnh đú cỏc tập quán thương mại trên thế giới cũng như ở các khu vực cũng rất phong phú và phức tạp. Do vậy, nếu cỏc bờn ký kết không nắm bắt kịp thời và đầy đủ sự thay đổi của các quy phạm pháp luật, các tập quỏn thương mại thì sẽ khó tránh khỏi các tranh chấp phát sinh. + Yếu tố cung cầu trên thị trường: Quan hệ cung cầu trên thị trường có liên quan chặt chẽ tới hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì thế khi quan hệ cung cầu biến động theo chiều hướng bất lợi cho mét trong các bên ký kết thì rất có thể đẩy họ vào tình thế chấp nhận vi phạm hợp đồng. Do vậy, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến phát sinh tranh chấp giữa các chủ thể của HĐMBNT. b. Nguyên nhân chủ quan: Xét về mặt chủ quan thì sự khác biệt về quyền lợi giữa người mua và người bán chính là nguyên nhân cơ bản làm phát sinh tranh chấp giữa cỏc bờn. Những điều có lợi cho người bán thì có thể trở thành bất lợi đối với ngườoi mua và ngược lại. Trong kinh doanh các bên ký kết đều muốn đạt được hiệu quả cao nhất trong mỗi thương vụ. Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng mà cỏc bờn mong đợi trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng. Mặt khác, để tận dụng cơ hội kinh doanh nhiều khi các nhà kinh doanh dám chủ động vi phạm các điều khoản trong hợp đồng và sẵn sàng vi phạm nghĩa vụ đã cam kết khi cân nhắc hiệu quả kinh doanh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Nói cách khác, chớnh cỏc bờn đó chủ động gây ra tranh chấp. Như vậy các tranh chấp từ HĐMBNT có thể phát sinh do các nguyên nhân khác nhau. Để bảo vệ quyền và lợi Ých hợp pháp của mỡnh cỏc bên phải tìm ra các biện pháp giải quyết có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, trước khi lùa chọn các phương pháp giải quyết tranh chấp cần phải hiểu rõ các loại tranh chấp có thể phát sinh từ HĐMBNT. 2. Phân loại tranh chấp 2.1. Các tranh chấp có liên quan đến việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương. 2.1.1 Tranh chấp liên quan đến cơ sở pháp lý hợp đồng: Việc ký kết HĐMBNT trước hết phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, theo đó hợp đồng trước tiên phải thể ý chí thực, ý chí tự nguyện của các bên ký kết, đú chớnh là sự thuận mua vừa bán. Bên bán tự nguyện thoả thuận bán và bên mua tự nguyện mua. Để đảm bảo nguyên tắc tù nguyện đú thỡ hợp đồng chỉ có hiệu lực pháp lý khi nú khụng vi phạm các trường hợp pháp luật ngăn cấm như sau: a. Hợp đồng ký kết do có sự cưỡng bức hoặc đe doạ: Cưỡng bức, đe doạ là sự tác động về thể chất hoặc tinh thần làm cho đối phương buộc phải ký kết hợp đồng ngoài ý muốn của họ. Sự cưỡng bức đó có thể là sự tác động về thể chất như chuốc rượu cho người giao kết bị say để họ ký kết hợp đồng trong tình trạng mất tỉnh táo, hoặc dùng áp lực tinh thần buộc đối phương phải chấp nhận ký hợp đồng với những cam kết bất lợi cho họ. Khi đú dự hợp đồng được thành lập với đầy đủ mọi yếu tố hợp pháp khỏc thỡ vẫn bị coi là vô hiệu. b. Có sự lừa dối: Lừa dối là hành vi có tính chất gian trá cố ý như bịa đặt công ty giả, đưa ra các chứng từ, tài liệu giả về khả năng tài chính của công ty hoặc cố ý dấu giếm khuyết tật của hàng hoá để làm cho đối phương ký kết hợp đồng, Ví dụ, máy móc thiết bị đã qua sử dụng nhưng người bán tân trang lại để lừa dối người mua đó là máy móc thiết bị mới. Những hành vi lừa dối như vậy cũng sẽ dẫn đến hợp đồng vô hiệu. c. Có sự nhầm lẫn: Nhầm lẫn là hành vi có tính khách quan (vô ý) khiến cho một hoặc cả hai hai bên hiểu sai lệch bản chất của vụ việc, do vậy cũng không thể dẫn đến một sự thoả thuận tự nguyện , không thể coi là ý chí thực hai bên. Ví dụ, theo quy ước ở các nước phương Tây thì dấu chấm (.) được sử dụng để phân biệt các chữ số hàng thập phân, chẳng hạn :1.00, thì ở Việt Nam dấu chấm lại được dùng để tách biệt giữa chữ số hàng ngàn trở lên với chữ số hàng trăm, chẳng hạn:1.000, nên rất có thể gây nhầm lẫn khi ký kết và thực hiện hợp đồng. Vì thế khi ký kết hợp đồng để tránh sự nhầm lẫn này cỏc bên thường phải ghi thêm bằng chữ. 2.1.2. Tranh chấp về địa vị pháp lý của các chủ thể: Chủ thể của HĐMBNT có thể là các tự nhiên nhân hay các pháp nhân có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau, trong khi luật cac nước quy định không giống nhau về địa vị pháp lý của họ. Vì thế khi đàm phán ký kết hợp đồng cần xác định xem địa vị pháp lý của họ như thế nào, người tham gia ký kết hợp đồng với mình có đủ thẩm quyền hay không, người đó nhân danh mình hay đại diện cho người khác . Tự nhiên nhân (Natural Person) muốn tham gia quan hệ HĐMBNT phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi theo quy định của pháp luật . Năng lực pháp luật của tự nhiên nhân thường bắt đầu từ khi sinh ra và chỉ kết thúc khi họ chết đi. Còn năng lực hành vi của tự nhiên nhân chỉ bắt đầu phát sinh khi công dân đến tuổi thành niên theo quy định của pháp luật. Bởi vì đú chớnh là khả năng hửong quyền và thực hiện theo quy định thông qua hành vi của chính bản thân họ. Pháp nhân (Legal Person) là một tổ chức thành lập theo luật pháp và được dùng danh nghĩa riêng cuả mình trong quan hệ kinh doanh. Thông thường theo quy định của pháp luật một tổ chức muốn thừa nhận là pháp nhân phải có đủ 4 điều kiện: - Đó phải là tổ chức thống nhất , được thành lập một cách hợp pháp - Tổ chức đó phải có tài sản riêng; - Tổ chỳc đú phải có khả năng chịu trách nhiệmmbằng tài sản riêng; - Tổ chức đó phải có quyền hành động với danh nghĩa riêng của mình, có thể ra trước toà với tư cách nguyên đơn hoặc bị đơn Khi có đủ 4 điều kiện trờn thỡ cỏc pháp nhân được coi là có năng lực chủ thể đẻ ký kết các HĐMBNT. Tuy nhiên, trong quan hệ mua bán quốc tế thì địa vị pháp lý của các pháp nhân cũng là vấn đề khá phức tạp. Nhìn chung luật pháp các nước đều quy định địa vị pháp lý của cac pháp nhân được xác định theo luật quốc tịch. Tức là, pháp nhân mang quốc tịch nước nào thì địa vị pháp lý của nó do pháp luật nước đó quy định. Thế nhưng, việc xác định quốc tịch cho pháp nhân lại được quy định không giống nhau trong luật pháp các nước. Theo luật của Pháp, Đức và một số nước khác, pháp nhân đặt trung tâm quản lý ở nước nào thì mang quốc tịch của nước đó, không phân biệt nơi đăng ký thành lập hay tiến hành hoạt động của pháp nhân. Khác với luật của Pháp, Đức, pháp luật của Anh và Mỹ lại quy định rằng quốc tịch của pháp nhân tuỳ thuộc vào năng đăng ký điều lệ của pháp nhân khi thành lập, bất kể nơi đặt trụ sở chính hoặc nơi hoạt động của nó. Pháp luật của một số nước Trung Cận Đông như Ai Cập, Xiri v.v. lại quy định áp dụng nguyên tắc quốc tịch pháp nhân tuỳ thuộc vào nơi có trung tâm hoạt động của pháp nhân, bất kể nơi đặt trụ sổ chính hay nơi đăng ký điều lệ của chính pháp nhân khi thành lập . Ở Việt Nam, các pháp nhân được thành lập theo pháp luật Việt Nam, đồng thời cũng đặt trụ sở và hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Những pháp nhân đó được công nhận là mang quốc tịch Việt Nam. Tất cả những pháp nhân không mang quốc tịch Việt Nam đều được coi là pháp nhân nước ngoài . Do quy định của các nước về nguyên tắc xã định quốc tịch của pháp nhân không giống nhau nên trong thực tiễn khó tránh khỏi trường hợp một phấp nhân được hai hay nhiều nước coi là pháp nhân mang quốc tịch nước mình. Vì vậy trong việc giao kết HĐMBNT rất dễ xảy ra tranh chấp về địa vị pháp lý pháp lý của các chủ thể nói chung và của các pháp nhân nói riêng. 2.1.3. Các tranh chấp về nội dung của hợp đồng: Nội dung hợp đồng chính là sự thoả thuận cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các bên ký kết. Đõy chớnh là các điều khoản mà cỏc bờn thoả thuận với nhau. Căn cứ vào tính chất vai trò của các điều khoản, nội dung của HĐMBTMQT mà có thể chia làm ba loại điều khoản là điều khoản chủ yếu, điều khoản thông thường và điều khoản tuỳ nghi. Trong đó các điều khoản chủ yếu là quan trọng nhất, nhưng cũng thường xảy ra tranh chấp nhất. Điều khoản chủ yếu của hợp đồng là những điều khoản bắt buộc phải có trong hợp đồng, nếu thiếu một trong các điều khoản đú thỡ hợp đồng không có giá trị pháp lý. Tuy nhiên luật pháp các nước quy định về các điều khoản này không giống nhau. - Theo luật Anh - Mỹ, điều khoản chủ yếu của một HĐMBTMQT là đối tượng hợp đồng. Như vậy, khi ký hợp đồng cỏc bờn chỉ cần thoả thuận xong đối tượng hợp đồng thì coi như hợp đồng đã được thành lập, cũn cỏc điều khoản khác có thể quy định sau. - Theo luật của Phỏp, Tõy Đức, Nhật... thì điều khoản chủ yếu của hợp đồng bao gồm đối tượng và giá cả. - Luật pháp các nước Đông Âu quy định điều khoản chủ yếu của hợp đồng gồm đối tượng, giá cả và thời hạn giao hàng. Ở Việt Nam, theo Quy định số 299 TMDL/XNK thỡ cỏc điều khoản chủ yếu của hợp đồng MBTMQT bao gồm: (1) Đối tượng của hợp đồng (Tên hàng; Số lượng; Quy cách phẩm chất); (2) Giá cả và thanh toán; (3) Thời hạn, địa điểm giao hàng và điều kiện cơ sở giao hàng. Theo Công ước Viên năm 1980 thì một đề nghị ký kết hợp đồng đủ chính xác là: tên hàng hoá, số lượng và giá cả. Như vậy, luật quốc gia của các nước cũng như Công ước Viên 1980 đều thống nhất tính hiệu lực của HĐMBNT phải bao gồm các điều khoản chủ yếu, nếu thiếu một trong các điều khoản đú thỡ hợp đồng sẽ không có hiệu lực cho dù cỏc bờn đó ký kết. Nhưng, vấn đề điều khoản chủ yếu của hợp đồng bao gồm những điều khoản nào thì chưa được các nguồn luật thống nhất. Vì thế, trong mua bán quốc tế có trường hợp hợp đồng được coi là đã ký kết theo luật nước này, nhưng lại chưa được ký kết theo luật nước khác. Trong những trường hợp như vậy mà cỏc bờn không có cách giải quyết thích hợp thì tranh chấp về noọi dung hợp đồng xảy ra là điều khó tránh khái. 2.1.4. Tranh chấp về hình thức của hợp đồng: Hình thức của hợp đồng là cách thức mà cỏc bờn thể hiện ý chí của mình. Luật pháp các nước cũng quy định không thống nhất về vấn đề này. Theo luật Anh - Mỹ thì hình thức văn bản là bắt buộc khi đối tượng hợp đồng có trị giá trên 10 bảng Anh (luật Anh), hoặc 500 USD (Bộ Luật Thương mại thống nhất Mỹ). Theo tập quán thương mại quốc tế hầu hết các hợp đồng được lập thành văn bản và hợp đồng được thiết lập khi hai bên ký vào văn bản. Nhưng Công ước Viên 1980 lại chấp nhận một giải pháp rất thoáng về hình thức hợp đồng: hợp đồng không cần phải lập thành văn bản hay ghi nhận bằng văn bản và không bị chi phối bởi một điều kiện nào về hình thức, các bên có thể chứng minh bằng mọi cách, kể cả nhân chứng. Theo quy định của Việt Nam, HĐMBNT cũng như mọi sửa đổi, bổ sung hay thoả thuận chấm dứt hợp đồng đều phải làm bằng văn bản. Do những quy định khác nhau trong luật hỏp cỏc nước, cũng như trong các điều ước quốc tế về hình thức hợp đồng nên trong giao dịch nếu cỏc bờn khụng thoả thuận cụ thể về vấn đề này thì tranh chấp xảy ra là điều dễ hiểu. 2.1.5. Tranh chấp liên quan đến hiệu lực pháp lý của đơn chào hàng và thời điểm ký kết hợp đồng: Khi cỏc bờn giao dịch không trực tiếp gặp nhau để đàm phán ký kết hợp đồng mà áp dụng phương pháp đàm phán gián tiếp qua thư tín thì một vấn đề rất quan trọng được đặt ra là phải xác định khi nào đơn chào hàng cũng như chấp nhận chào hàng có hiệu lực pháp luật, và hợp đồng được coi là ký kết vào thời điểm nào? Bởi vì, vấn đề này chưa có sự quy định thống nhất giữa luật pháp các nước cũng như trong tập quán thương mại quốc tế. Trước hết, một chào hàng muốn có hiệu lực phải có nội dung xác thực, nghĩa là phải có nội dung tối thiểu - bao gồm các điều khoản cơ bản của một HĐMBNT như phần trên đó nờu. Thứ hai, người chào hàng có thể huỷ đơn chào hàng hay không, sự ràng buộc của họ với đơn chào hàng thế nào, sau khi đã chấp nhận đơn chào hàng người được chào hàng có thể rút lại đơn chào hàng hay không? Luật của Anh, Pháp, Mỹ đều quy định chào hàng có thể bị huỷ bỏ nếu chưa được bên kia chấp nhận. Bởi một ý chí đơn phương không có hiệu lực ràng buộc. Để một hành vi pháp lý được thiết lậpcần phải có sự thoả thuận có ý chí của cả hai bên, chứ không chỉ của một bên. Nhưng luật của Thuỵ sĩ, CHLB Đức và các nước Bắc Âu lại ủng hộ quan điểm chào hàng không bị thu hồi hay huỷ bỏ. Người được chào hàng phải được đảm bảo rằng nếu họ chấp nhận kịp thời thì hợp đồng được thiết lập. Tập quán thương mại quốc tế phân biệt chào hàng thành hai loại là chào hàng cố định và chào hàng tự do. Chào hàng tự do là lời đề nghị không chắc chắn về việc ký kết hợp đồng, nú khụng ràng buộc trách nhiệm của n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDt4.doc
Tài liệu liên quan