ĐỂ TÀI: CÁC XU HƯỚNG CẢI CÁCH TÀI CHÍNH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM
Mục lục:
I Tiếp cận về tài chính tiền tệ. Trang 5
1.1. Tài chính công Trang 6
1.1.1 Ngân sách nhà nước: Trang 6
+ Thu ngân sách nhà nước: Trang 6
Thuế
Phí và lệ phí
Vay nợ của chính phủ (trong và ngoài nước)
+ Chi ngân sách nhà nước: Trang 6
Chi đầu tư phát triển
Chi thường xuyên
Chi trả nợ gốc tiền do chính phủ vay
1.1.2 Các định chế ngoài ngân sách: Trang 9
Quỹ dự trữ nhà nước
Quỹ hỗ trợ nhà nước
Bảo hiểm xã hội
1.2. Tài chính tư: bao gồm tài chính doanh nghiệp và các định chế tài chính. Trang 9
1.2.1 Khái niệm về trung gian tài chính. Trang 9
1.2.2 Vai trò của trung gian tài chính. Trang 10
1.2.3 Đặc điểm của trung gian tài chính. Trang 11
+ Ngân hàng
+ Các định chế phi ngân hàng:
Quỹ tín dụng
Quỹ đầu tư
Công ty tài chính
Công ty bảo hiểm
II Thực trạng thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam . Trang 12
2.1 Tài chính công. Trang 12
2.1.1 Thuế. Trang 12
2.1.2 Vay nợ của chính phủ. Trang 14
2.1.3 Chi đầu tư phát triển (Đầu tư công, cổ phần hóa) . Trang 15
2.1.4 Bảo hiểm xã hội. Trang 21
2.2 Tài Chính Lĩnh Vực Tư Nhân. Trang 22
2.2.1 Ngân hàng. Trang 22
2.2.2 Bảo hiểm. Trang 24
2.2.3 Chứng khoán. Trang 25
III Các định hướng cải cách tài chính tiền tệ Việt Nam. Trang 28
3.1 Tài chính công. Trang 28
3.1.1 Thuế. Trang 28
3.1.2 Xu hướng cải cách quá trình vay nợ của chính phủ. Trang 30
3.1.3 Chi đầu tư phát triển (Đầu tư công, cổ phần hóa). Trang 31
3.1.4 Bảo hiểm xã hội. Trang 33
3.2 Tài Chính Lĩnh Vực Tư Nhân
3.2.1 Ngân hàng. Trang 34
3.2.2 Bảo hiểm. Trang 35
3.2.3 Chứng khoán. Trang 36
36 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1748 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các xu hướng cải cách tài chính tiền tệ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u vực kinh tế tư hiệu quả cao lại không có vốn đầu tư gây lãng phí xã hội mất cân đối trong cơ
cấu nền kinh tế. Bên cạnh đó sử dụng vốn không hiệu quả tạo ra nguy cơ lạm phát, làm tăng nợ
từ nước ngoài và bội chi ngân sách gây ra nợ chính phủ tạo ra những hệ quả khó lường.
Thất thoát trong đầu tư cơ bản qua các năm theo bảng sau:
17
Năm 2004 2005 2006 2007
Số tiền thất thóat trong XDCB 6,341 6,346 6,329 8,000
% so với Ngân sách đầu tư 10,91 9,5 7,8 5%
Đang tạo ra những vấn đề bức xúc trong nhân dân, đặc biệt các nguồn vốn đầu tư XDCB được
tài trợ chủ yếu từ các nguồn vay nợ trong và ngoài nước.
Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International: TI) công bố danh sách chỉ số
đánh giá tham nhũng (Corruption Perception Index: CPI) năm 2006: Việt Nam xếp thứ 111 so
với 163 quốc gia; năm 2007: Việt Nam xếp 123/173 - nằm trong vùng “báo động đỏ” trên bản đồ
tham nhũng của thế giới, với tình trạng nợ chính phủ đang cao gần 40% GDP và bội chi ngân
sách đầu tư trung bình 5-8%, cần vốn cho đâu tư phát triển… đang tạo ra hiệu ứng tiêu cực với
lòng tin cùa các chủ nợ và nhà đầu tư nước ngoài.
Hạn chế trong cơ chế phân bổ và sử dụng vốn trong đầu tư công
Nguồn vốn chủ yếu tập trung vào đầu tư xây dựng cơ bản nhưng quy trình này đang tạo
ra những bất hợp lý từ khâu phê duyệt đến giải ngân và sự dụng vốn:
Trong phê duyệt: Chi đầu tư thường trải qua một quy trình phê chuẩn rất phức tạp và
chứa nhiều yếu tố tùy tiện; Những quyết định liên quan đến đầu tư công thường phải trải qua
nhiều khâu trong lựa chọn chính sách:
(i) Kết cấu chung của ngân sách;
(ii) Quy mô tổng chi đầu tư ngân sách nhà nước
(iii) Lựa chọn các dự án;
(iv) Quy mô và thiết kế dự án.
Thêm vào đó, tiến trình phê duyệt dự án đầu trải qua nhiều giai đoạn. Chẳng hạn, dự án xây
dựng dân sự yêu cầu liên quan đến các quyết định
(v) Thiết kế dự án;
(vi) Đấu thầu dự án
(vii) Kiểm soát thầu;
(viii) Thương lượng thầu; tiến trình ký hợp đồng thầu.
Quá trình phê duyệt này lại không được một hội đồng khoa học độc lập đánh giá và phê
duyệt mà thường được xem xét qua các bộ ngành trong đó quyền phê duyệt sau cùng vẫn tập
trung vào các lãnh đạo, quy trình phê duyệt trải qua một thời gian thường dài và phức tạp từ thủ
tục đến giấy tờ với nhiều bộ phân tham gia nhưng lại không quy trách nhiệm cụ thể. Tạo ra
những khe hỡ để trục lợi trong phê duyệt .Chủ yếu các dự án thông qua chỉ định thầu mang tính
chủ quan chưa có đánh giá thích hơp. Kết quả có thể xảy ra tình trạng: dự án được đầu tư khi
chưa thực sự cần thiết phải đầu tư; dự án được đầu tư với quy mô, công suất không phù hợp so
với nhu cầu; dự án được đầu tư với yêu cầu kỹ thuật và mỹ thuật không phù hợp so với nhu cầu;
dự án được đầu tư ở địa điểm và thời điểm không hợp lý; thiết bị và công trình của dư án có chất
lượng thấp làm giảm tuổi thọ của dự án…gây lãng phí và không hiệu quả.
Các nguồn vốn trong đầu tư XBCB lại không tập trung gây tình trạng cào bằng trong đầu
tư không tạo ra được những động lực cho phát triển kinh tế, gây chậm trễ trong giải ngân nguồn
vốn, lãng phí …
Công tác lập quy hoạch hoạch định phát triển cho vùng, cho khu vực hệ thống mạng lưới
cơ sở hạ tầng còn kém không tạo ra được một định hướng phát triển rõ ràng tràn lan, mang tính
manh múm, chồng chéo nhau mỗi bộ ngành địa phương một cách khác nhau gây ra tâm lý mâu
thuẫn ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân dân, gây cản trở cho công tác phát triển kinh tế.
18
Quản lý sử dụng nguồn vốn cũng còn nhiều hạn chế . Các dự án đầu tư thường được giao
cho các bộ ngành các bộ ngành này lại thành lập các công ty hay ban quản lý dự án trong khi đó
nguồn vốn giải ngân lại do bộ phận khác quản lý. Quá trình này tạo ra bộ máy cồng kênh, phức
tạp các bên lại không có trách nhiệm rõ ràng, quá trình giám sát quản lý lại lỏng lẽo…Vụ án
tham những tại ban quản lý các dự án 18 của Bộ Giao Thông Vận Tải ( PMU 18) là một ví dụ
tiêu biểu cho cơ cấu quản lý nguồn vốn vừa lỏng lẻo trong trách nhiệm, phức tạp trong hình thức.
Hạn chế trong triển khai các dự án XDCB:
Qua kiểm toán, việc chi đầu tư phát triển vẫn bộc lộ nhiều thiếu sót, bất cập, gây lãng phí
cho ngân sách nhà nước. Theo kết quả kiểm toán Nhà nước được công bố vào ngày 23/7/2009 tại
(thực hiện kế hoạch kiểm toán năm 2008, Kiểm toán Nhà nước đã tiến hành kiểm toán báo cáo
quyết toán của 20 bộ, cơ quan trung ương, 35 tỉnh, thành phố, 19 dự án đầu tư xây dựng và
chương trình mục tiêu quốc gia, 2 chuyên đề, 29 đơn vị thuộc lĩnh vực an ninh quốc phòng, tỉnh
ủy 6 tỉnh, 23 tập đoàn, tổng công ty nhà nước và tổ chức tài chính) thì vấn đề là việc chi đầu tư
phát triển vẫn còn bộc lộ nhiều thiếu sót, bất cập. Cụ thể, ngay từ công tác quy hoạch, do thiếu
nghiên cứu chi tiết và không phù hợp với quy hoạch tổng thể, quy hoạch vùng nhưng vẫn được
phê duyệt dẫn đến việc khi triển khai thực hiện phải dừng hoặc điều chỉnh, bổ sung làm lãng phí
NSNN.
Bên cạnh đó, chất lượng công tác lập, thẩm định và phê duyệt dự án còn hạn chế, nên khi
thực hiện dự án phải thay đổi tổng mức đầu tư, tổng dự toán nhiều lần làm ảnh hưởng đến công
tác kế hoạch hóa vốn đầu tư, kéo dài thời gian thực hiện dự án. Dự án đầu tư xây dựng công
trình thoát nước nhằm cải tạo môi trường Hà Nội (dự án II), mặc dù Báo cáo nghiên cứu khả thi
đã được UBND Hà Nội chỉ đạo thực hiện, nhưng không được sử dụng gây lãnh phí 1,43 tỷ đồng.
Hiện tượng một số dự án quyết định đầu tư nhưng không có vốn triển khai, quá thời gian
quy định phải lập lại dự án làm tăng chi phí đầu tư; chủ đầu tư thiếu tính toán, phân tích trước
khi quyết định đầu tư, dẫn đến lựa chọn địa điểm xây dựng không phù hợp, phải dừng dự án gây
lãnh phí vốn đầu tư, hoặc xác định quy mô đầu tư vượt quá nhu cầu thực tế, hay đầu tư xong
không sử dụng gây lãnh phí NSNN... là hiện tượng vẫn xảy ra. Cụ thể là dự án xử lý nước thải
Khu công nghiệp Vĩnh Niệm - Hải Phòng vốn đã cấp phát 3 tỷ đồng và dự án xử lý nước thải
Khu du lịch Vịnh Tùng Dinh (Cát Bà, Hải Phòng) vốn đã cấp phát 23,52 tỷ đồng, hoàn thành
nhưng không hoạt động; hay như hạng mục vườn ươm Thanh Táo thuộc công trình tuyến tránh
Hà Nội - Cầu Giẽ đã đầu tư 1,2 tỷ đồng, nhưng đến nay để hoang là những ví dụ điển hình.
Vấn đề giải ngân đang gây ra những lãng phí rất lớn: chậm trễ trong sắp xếp tập trung
vốn cho các dự án quan trọng mà lại phân bổ manh múm. Gây ra tâm lý cào bằng, giảm hiệu quả
trong đầu tư khi các dự án quan trọng lại không có vốn các dự an khác lại dư vốn, gây lãng phí
hữu hìnhnguốn vốn hi các dự án đầu tư phải chậm lại ngừng lại do thiếu vốn, chậm giải phóng
mặt bằng ở nhiều dự án khác nhau, bên cạnh do chậm thực hiện dự án phải nâng vốn thay đổi dự
toán tăng hàng chục trăm tỷ đồng, ngừng trễ trong các hoạt động kinh tế trong xã hội từ việc
chậm trễ thực hiện các dự án đang gây ra những lãng phí vô hình cho ngân sách nhà nước và xã
19
hội. Nguốn vốn thu xếp còn mang tính xin cho, cơ quan cấp vốn lại không chụi trách nhiệm
trong quản lý vốn nhưng lại phức tạp trong thủ tục giấy tờ.
2.1.3.1 Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước:
Cổ Phần Hóa (CPH) Doanh Nghiệp Nhà Nước (DNNN) ở Việt nam có những đặc
điểm khác với tính quy luật chung ở các nước:
- Các doanh nghiệp mà Việt Nam thực hiện cổ phần hóa được hình thành trong quá trình
thực hiện công hữu hóa, tập thể hóa nền kinh tế trước đây. Điều này khác với các doanh nghiệp
thực hiện cổ phần hóa ở các nước phát triển: là kết quả của quá trình phát triển lực lượng sản
xuất đã vượt quá tầm của sở hữu tư nhân, đòi hỏi phải mở rộng quan hệ sở hữu.
- Các doanh nghiệp mà nước ta thực hiện cổ phần hóa vốn tồn tại lâu năm trong cơ chế
bao cấp và kế hoạch của Nhà nước và mới làm quen với cơ chế thị trường, khác với các doanh
nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là đã tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, cạnh
tranh.
- Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa chủ yếu được tổ chức và hoạt động
theo yêu cầu và kế hoạch của Nhà nước, khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các
nước là tổ chức và hoạt động vì lợi nhuận tối đa của bản thân và tuân theo quy luật thị trường.
- Lý do chính của chủ trương cổ phần hóa ở nước ta là các doanh nghiệp nhà nước hoạt
động kém hiệu quả, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, khác với lý do thực hiện cổ
phần hóa doanh nghiệp ở các nước phát triển là chuyển từ giai đoạn tập trung tư bản sang giai
đoạn tập trung vốn xã hội (trong và ngoài doanh nghiệp) để nâng cao chất lượng và quy mô sản
xuất trong cạnh tranh.
Những điều đã đạt được:
Quá trình CPH DNNN ở Việt Nam được bắt đầu từ năm 1992. Công tác CPH đã trải qua
gần 17 năm thực hiện với không ít khó khăn , song đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Trong tiến trình thực hiện công tác CPH, các quy định pháp lý về CPH từng bước
được hoàn thiện, nhiều quy định đã và đang đi vào cuộc sống, như việc mở rộng ngành nghề,
quy mô DN, đối tượng có quyền mua cổ phần, phương pháp xác định giá trị DN, thực hiện việc
bán cổ phần ra bên ngoài bằng hình thức đấu giá…
Quá trình CPH ngày càng nền nếp, quy củ theo hướng đầy đủ, minh bạch. Qua CPH
đến nay, 10 tổng công ty và hơn 60 DN có quy mô vốn trên 100 tỷ đồng cùng hàng trăm DN
khác đã được CPH.
Nền kinh tế đã giảm được số DN thua lỗ thuộc những lĩnh vực mà Nhà nước không
cần nắm giữ quyền sở hữu. khi tiến hành CPH, nguồn vốn nhà nước tại DN được đánh giá lại
khách quan và chính xác hơn, đồng thời kêu gọi được thêm vốn từ các tổ chức, cá nhân để đầu tư
đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất - kinh doanh. Qua đó nền kinh tế đã huy động được thêm
khoảng 100 nghìn tỷ đồng từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Từ đó góp phần hình
thành và thúc đẩy hoạt động của thị trường chứng khoán.
Nhờ CPH mà DN được chuyển sang hình thức đa sở hữu, thu hút thêm nguồn nhân lực
có trình độ cao, áp dụng phương pháp quản lý hiện đại. Đội ngũ lao động được sắp xếp lại theo
hướng gọn nhẹ, hợp lý; quyền làm chủ và công tác quản lý DN được nâng lên một bước nên hạn
chế được những rủi ro, thất thoát trong sản xuất kinh doanh. Nhiều DN sau CPH làm ăn có hiệu
quả hơn. Kết quả khảo sát của ban Chỉ đạo đối mới và Phát triển DNNN đối với khoảng 500 DN
đã CPH hơn 1 năm cho thấy, Doanh thu tăng 43%, Lợi nhuận tăng trên 2.4 lần, thu nhập của
người lao động tăng 54%, cổ tức bình quân được chia 15.5%
Tuy nhiên vẫn tồn tại những hạn chế sau:
20
Tiến độ thực hiện CPH bị chậm ở hầu khắp các bộ, địa phương, nhất là đối với khối
DN quy mô lớn hoặc ở ngành tài chính, ngân hàng. Sau hai năm liên tiếp 2007-2008 không đạt
kế hoạch CPH, dấu hiệu vỡ kế hoạch CPH giai đoạn 2007-2010 đang lộ rõ khi mà đến hết quý
III/2009, mới có khoảng 40/1.100 DN cần sắp xếp trong năm 2009-2010 được CPH. Phải mất 17
năm để chuyển dổi 3.836 DNNN thành công ty CP, trong khi đó chỉ cồn hơn 1 năm để sắp xếp
ơn 1.000 DNNN, trong số này có tới 760 DN thuộc diện CPH theo kế hoạch thì quả là một
nhiệm vụ quá nặng nề.
Thời gian thực hiện CPH một doanh nghiệp còn khá dài. Kết quả khảo sát tại gần một
nghìn DN cho thấy, thời gian thực hiện CPH trung bình một DN mất 437 ngày, có trường hợp
mất 3-4 năm.
Những nguyên nhân khiến quá trình CPH DNNN diễn ra chậm chạp:
*Về mặt nhận thức của một số cán bộ: Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên ở các cấp,
người lao động trong doanh nghiệp chưa nhận thức đúng đắn về công cuộc đổi mới, sắp xếp và
cổ phần hoá DNNN, chưa quán triệt sâu sắc và nghiêm chỉnh chấp hành Nghị quyết của Đảng,
quy định của Nhà nước, thiếu chương trình, kế hoạch cụ thể, chưa tích cực, sâu sát trong chỉ đạo
thực hiện đã làm ảnh hưởng tới tiến độ cổ phần hoá DNNN.Một số khác còn mang nặng tư tưởng
bao cấp, lo ngại sau cổ phần sẽ mất đặc quyền, đặc lợi.
*Khung pháp lý còn chưa chặt chẽ: Một số qui định pháp luật về CPH chưa thật sát với
thực tế hoặc chậm được cụ thể hoá hướng dẫn thi hành. Bên cạnh đó, các qui định, khung pháp
lý về CPH lại thay đổi liên tục khiến doanh nghiệp khó nắm bắt. Dẫn chứng cho thực tế này, từ
năm 2002 đến nay qui định pháp luật về CPH được thay đổi 3 lần (Nghị định 64/2002/NĐ-CP,
Nghị định 187/2004/NĐ-CP và Nghị định 109/2007/NĐ-CP) và các thông tư hướng dẫn thường
ban hành chậm nên đã ảnh hưởng đến tiến độ triển khai kế hoạch CPH DNNN.
*Rào cản hành chính: Tình trạng can thiệp của các cơ quan công quyền, cụ thể là việc
hành chính hoá quan hệ kinh tế vào tiến trình CPH DNNN cũng như hệ thống văn bản hành
chính, thủ tục rườm rà, chồng chéo.Nhiều nhà quản lý đã cho rằng, chính sách và quy trình CPH
dựa trên lối tư duy cũ. Từ khâu xây dựng phương án CPH, tổ chức bán CP cho đến việc hoàn tất
thủ tục chuyển DN thành Cty CP còn rất nhiều bất cập. Trình tự chuyển từ DNNN sang Cty CP
có nhiều cản ngại, thậm chí có nhiều bế tắc.
*Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu: Các ý kiến cho rằng trong thời buổi khó
khăn này, nếu cổ phần hóa theo kế hoạch thì không chỉ doanh nghiệp, mà cả Nhà nước cũng bị
thiệt. Lý do là bởi các doanh nghiệp đang phải trầy trật đối phó với khủng hoảng, cố gắng duy trì
sản xuất, kinh doanh đã khó, nên chưa thể tập trung cho việc chuyển đổi sở hữu. Mặc khác suy
giảm kinh tế khiến việc đấu giá cổ phần cũng khó mang lại giá tốt, nếu không muốn nói là giá trị
doanh nghiệp "ngót" đi đáng kể so với thời điểm trước suy giảm. Có không ít quan điểm cho
rằng trong thời điểm hiện nay nếu CPH vội vàng có thể dẫn tới tình trạng “bán rẻ” tài sản nhà
nước.
Vốn nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn ngay cả trong các doanh nghiệp không thuộc
diện cần giữ cổ phần chi phối: trong vốn điều lệ ở nhiều doanh nghiệp không thuộc diện cần
giữ cổ phần chi phối, do việc huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân bên ngoài trong quá trình
CPH còn hạn chế. Kết quả tổng hợp từ các doanh nghiệp CPH còn vốn Nhà nước vẫn chiếm tới
52% vốn điều lệ của doanh nghiệp. Điều này đồng nghĩa với việc Nhà nước tiếp tục phải gánh
trách nhiệm lớn trong đời sống kinh doanh ở mỗi DN.
Sau CPH, nhiều công ty cổ phần chưa có sự đổi mới thực sự trong quản trị công ty;
phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư duy quản lý vẫn còn như doanh nghiệp nhà nước. Hạn
chế này rõ nhất là ở những doanh nghiệp mà Nhà nước còn giữ cố phần chi phối, ban lãnh đạo
21
của doanh nghiệp đều từ doanh nghiệp nhà nước trước đó chuyển sang. Dẫn đến DN tụt dốc, mất
vốn và không bảo đảm đời sống công nhân cũng như quyền lợi của các cổ đông. Trong một số
công ty cổ phần, người lao động – cổ đông phần do nhận thức chưa đầy đủ về quyền và nghĩa vụ
của mình, phần do sự hiểu biết pháp luật về công ty cổ phần còn hạn chế, nên có nơi quyền làm
chủ chưa được phát huy. Ngược lại có nơi lạm dụng quy định của pháp luật gây khó khăn cho
công tác quản lý của Hội đồng quản trị, sự điều hành của giám đốc. Nhiều nội dung của cơ chế,
chính sách quản lý công ty cổ phần như: chính sách tiền lương, tiền thưởng… vẫn còn áp dụng
như DNNN.
Tình trạng cổ phần hóa “khép kín” đang diễn ra phổ biến. Trên thực tế ở các doanh
nghiệp CPH, khoảng 38% vốn vẫn do Nhà nước nắm giữ, tỷ lệ bán ra bên ngoài nhiều nhất cũng
chưa đến 10%. Điều này hạn chế việc thu hút nhà đầu tư có tiềm năng về vốn, công nghệ và trình
độ quản lý.
Xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa chưa sát với thị trường gây thất thoát,
lãng phí tài sản nhà nước trong và sau quá trình cổ phần hóa. Hiện nay, việc xác định giá trị DN
đang là một trong những khâu bức xúc nhất trong tiến trình CPH. Nguyên nhân:
*Thiếu hướng dẫn cụ thể về đưa giá trị đất vào giá trị tài sản của DN theo cơ chế thị
trường trước khi CPH cũng đang khiến DN "đau đầu", bởi để xác định được như thế nào là giá
thị trường là không đơn giản khi mà giá đất trên thực tế luôn biến động, trong khi tính từ thời
điểm xây dựng phương án CPH đến khi được phê duyệt phải mất một khoảng thời gian khá dài.
* Sự vênh nhau giữa các văn bản về xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước cũng cho
thấy những lãng phí, mất mát có thể có lớn mức nào. Ví dụ, công ty TNHH một thành viên bến
xe Miền Đông nếu xác định giá trị theo nghị định 187/2004/NĐ-CP chỉ là 60 tỉ đồng và lợi thế
giá trị kinh doanh là 9 tỉ đồng. Nhưng đến nghị định 109/2007/NĐ–CP thì giá trị doanh nghiệp
này lại được xác định là 1.121 tỉ đồng và lợi thế kinh doanh là 1.052 tỉ đồng, gấp tới 31,4 lần giá
trị ban đầu. Hay công ty đóng tàu An Phú theo nghị định 187/CP có giá trị 139 tỉ đồng và lợi thế
kinh doanh bằng 0 thì theo nghị định 109/NĐ–CP, giá trị doanh nghiệp là 159 tỉ đồng và lợi thế
kinh doanh cũng bằng 159 tỉ đồng.
* Đó là chưa kể đến khả năng thất thoát về vốn, như tình trạng “pha loãng” vốn nhà nước
bằng các hình thức tăng vốn điều lệ, bán cổ phần nhà nước… Việc bán cổ phần, tài sản ở các tập
đoàn, tổng công ty rất lớn (ví dụ tập đoàn Điện lực bán tài sản, cổ phần đã được trên 7.000 tỉ
đồng) nhưng số thu về ngân sách rất ít. Theo quy định, sau khi xử lý các vấn đề tài chính thì số
tiền này được các tập đoàn, tổng công ty đầu tư vào doanh nghiệp thành viên. Số cổ tức thu
được, được coi là thu nhập về kinh doanh tài chính của tập đoàn, chỉ phải nộp 28% thuế thu nhập
doanh nghiệp, trong khi, nguồn vốn này, theo uỷ ban Tài chính – ngân sách của Quốc hội, đáng
phải coi là khoản đầu tư của Nhà nước, phải nộp vào ngân sách. “Số vốn để lại quá lớn so với
yêu cầu sẽ dẫn đến tình trạng sử dụng vốn không hiệu quả”, báo cáo giám sát của uỷ ban Tài
chính – ngân sách kết luận. Ngoài ra, thất thoát về giá trị thương hiệu cũng là vấn đề lớn..
2.1.4 Bảo hiểm xã hội (BHXH):
Thực trạng BHXH:
Theo báo cáo của Chính phủ về tình hình quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội
(BHXH) trong 2 năm 2007 và 2008 trình Quốc hội, số người tham gia BHXH ngày càng tăng, từ
6,7 triệu người năm 2006, 8,1 triệu người năm 2007 lên 8,7 triệu người năm 2008, dự kiến hết
năm 2009 số người tham gia BHXH bắt buộc đạt gần 9 triệu người (tăng hơn ba lần so với năm
1995 và đạt khoảng 82% số đối tượng phải tham gia), bình quân mỗi năm số tham gia BHXH
mới tăng hơn 400 nghìn người. Với việc từng bước mở rộng đối tượng BHXH tự nguyện, đến
nay có gần 50 nghìn người tham gia.
22
Công tác chi trả các chế độ BHXH được chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời đã đảm bảo ổn định
đời sống cho các đối tượng hưởng chế độ BHXH thường xuyên, công nhân lao động khi ốm đau,
thai sản hoặc gặp các rủi ro khác...
Năm 2008, hơn 120.000 người (năm 2007 là 106.200 người) được hưởng BHXH hàng
tháng, trong đó hưởng lương hưu có gần 98.600 người (năm 2007 là 84.860 người), chiếm 82%
tổng số người hưởng BHXH hàng tháng.
Số lượng hồ sơ được tiếp nhận và giải quyết BHXH một lần, trợ cấp một lần cũng tăng
mạnh, từ 204.000 người năm 2007 lên 382.000 người năm 2008, tăng 87%.
Về BHYT, đến nay số người tham gia BHYT đã tăng nhanh, đến cuối năm 2008 đã có
39,7 triệu người tham gia, chiếm 45,5% dân số, trong đó tham gia BHYT tự nguyện là 10,69
triệu người. Dự tính đến hết năm 2009 có khoảng 47 triệu người tham gia BHYT, đạt 55% dân
số cả nước.
Ðối với chính sách BH thất nghiệp, đến nay BHXH Việt Nam đã chuẩn bị đầy đủ các
điều kiện và hầu hết đã lập đầy đủ danh sách tham gia.
Việc đầu tư của quỹ BHXH hiệu quả chưa cao, chủ yếu thực hiện mua trái phiếu của
Chính phủ, cho các ngân hàng thương mại của Nhà nước vay; Chưa phải là nguồn chủ yếu để
điều chỉnh tăng lương hưu cho người về hưu, gia tăng mức thụ hưởng cho người lao động, góp
phần bảo đảm sự bền vững của quỹ BHXH, thực hiện an sinh xã hội như quy định của Luật
BHXH. Do vậy, cần có biện pháp khắc phục ngay từ bây giờ.
Nhận thức về trách nhiệm và tính tuân thủ pháp luật về BHXH của người lao động và
người sử dụng lao động đã có chuyển biến tích cực. Công tác giải quyết chế độ BHXH cho người
lao động từng bước được đổi mới trên cơ sở áp dụng công nghệ thông tin; thực hiện cải cách
hành chính.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện chế độ, chính sách BHXH xuất hiện một
số vướng mắc cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, ban hành văn bản hướng dẫn như việc
giám định mức suy giảm khả năng lao động; quy định giữ lại 2% tiền lương, tiền công đóng
BHXH của đơn vị để chi trả cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ ốm đau, thai sản và
thực hiện quyết toán hàng quý với tổ chức BHXH (hầu hết các doanh nghiệp đều không muốn
giữ lại); chế độ đối với cán bộ xã thuộc đối tượng tham gia BHXH theo Nghị định số
09/1998/NĐ-CP đã nghỉ việc hoặc chuyển sang làm việc khác nhưng chưa có quy định về tính
thời gian đóng BHXH.
2.2 Tài Chính Lĩnh Vực Tư Nhân
2.2.1 Ngân hàng:
Trên công cụ tỷ giá
Trong giai đoạn từ năm 2004-2006, Việt Nam đồng (VNĐ) giảm giá xoay quanh 1%. Từ
ngày 1/1/2007, NHNN ( Ngân hàng nhà nước) quyết định thay đổi biên độ dao động tỷ giá
USD/VNĐ được mở rộng cộng/trừ 5%, đồng VN đã đảo chiều tăng giá, tỷ giá giảm 0,3%.Trong
điều kiện bình thường , việc điều chỉnh biên độ tỷ giá theo hướng tăng thường được hiểu là sẽ
dẫn đến mở rộng tốc độ giảm giá của VNĐ so với USD. Đây là lần đầu tiên diễn biến tỷ giá đã
không tăng lên, thậm chí còn tiếp tục giảm thêm sau khi NHNN công bố tăng biên độ tỷ giá.
Đến tháng 5/2007, xu hướng tăng giá nội tệ được chặn lại vào những tháng tiếp đó, đồng
VN đã giảm giá trở lại khoảng 0,6 % so với USD. Tỷ giá bình quân liên NH ngày 15/8 của Sở
Giao dịch NHNN là 16.213 VNĐ và các ngân hàng TM khác bán ra mức là 1 USD= 16.213
VNĐ (trên thị trường tự do 1 USD=16.290 VNĐ). Tính từ đầu năm đến thời điểm 15/8/2007 đã
tăng khoảng 0,98%, sát với mức 1% mà NHNN dự kiến cho cả năm.
23
Sự đảo chiều này là do từ tác động mua vào mạnh mẽ của NHNN và doanh nghiệp.
Trong thời điểm này, các ngân hàng đều có cùng nhu cầu là vay ngoại tệ của DN tăng mạnh; với
mức lạm phát là 6.2% trong 7 tháng đầu năm 2007 thì có thể dẫn đến tỷ giá lên 17.000 VNĐ.
Tuy nhiên do chính sách tỷ giá của NHNN được trung hoà, do đồng USD đã bị giảm giá trên thị
trường quốc tế nên tỷ giá USD/VND được giữ mức hiện tại.
Sau ngày 15/8/2007, tỷ giá USD/VNĐ đã giảm giá trở lại cho đến cuối quý I/2008, tình
trạng thừa USD trong thị trường do chuyển vào từ kiều hối và vốn đầu tư vào thị trường chứng
khoán gây khó khăn cho các DN xuất nhập khẩu. Các NHTM từ chối mua USD của khách hàng
cá nhân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, các NHTM lại tăng lãi suất huy động ngoại tệ này. Điều đó
cho thấy thực chất các NHTM đang thiếu USD.
Quý II/2008, tỷ giá đã đạt mức 16.900 vào ngày 27/5/2008 tại thị trường liên ngân hàng
và có xu hướng tăng đến hiện nay.
Như vậy, trong 3 năm liền điều chỉnh theo hướng để VNĐ giảm giá so với USD và hiện
nay, là 3,44% vào ngày 26/11/2009. Giảm biên độ tỷ giá từ 5% xuống còn 30%, điều chỉnh tỷ
giá bình quân liên ngân hàng lên 5,44%, theo cách nói của Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước
nay là cách điều chỉnh linh hoạt của tỷ giá nhưng thực chất nay là việc phá giá nhẹ đồng tiền Việt
Nam.
Bên cạnh xem xét về nhập khẩu, đã có chính sách ngăn chặn tình trạng đô la hoá trong
nền kinh tế. Mục tiêu điều chỉnh tỷ giá nhằm vào việc giảm tối đa chênh lệch của hai mức tỷ giá
của hai thị trường chính thức và không chính thức, ổn định thị trường ngoại tệ đảm bảo cho cán
cân thanh toán. Với lẽ đó, dưới sự can thiệp của NHNN việc liên minh giữa 8 ngân hàng lớn
trong nước (Vietconbank, Vietinbank, BIDV, ACB, Techcombank, Sacombank,Agribank,
Eximbank) cam kết cung ứng ngoại tệ đúng giá qui định đầy đủ, kịp thời cho những nhu cầu cần
thiết.
Trên công cụ lãi suất
NHNN tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8% áp dụng kể từ ngày 1/12/2009 duy trì trong 11
tháng để kích thích tiết kiệm, tăng đầu tư và sau đó sẽ giảm còn 7%. Sau khi quyết định điều
chỉnh lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước có hiệu lực, diễn biến lãi suất huy động VNĐ đã
có sự thay đổi, mặt bằng lãi suất huy động là 10,5% năm. Chính phủ cũng yêu cầu thành lập
đoàn thanh tra kiểm tra tất cả các ngân hàng có mức huy động trên 10,5% nhằm ổn định nguồn
tiền tệ phân chia đều trong thị trường tiền tệ.
Về dự trử bắt buộc, Ngân hàng Nhà nước cũng đã điều chỉnh vào tháng 3/2009 theo
hướng giảm đối với tiền đồng Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng.
Giảm từ 5% xuống mức 3% áp dụng cho: Ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng
TMCP ngoại thương VN, ngân hàng TMCP Đô Thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính.
Mức 1% áp dụng cho: ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn VN (giảm từ 2%
xuống còn 1%), ngân hàng TMCP nông thôn, Quỹ tín dụng NDTW, ngân hàng hợp tác.
Tuy nhiên, trên thực tế việc áp dụng tỷ lệ dự trữ đôi khi có sự sai lệch theo hướng giảm
xuống do cung-cầu tín dụng mất cân đối. Điều này thật nguy hiểm có thể làm mất khả năng
thanh khoản của hệ thống.
Bên cạnh sử dụng lãi suất cơ bản là điển hình, trong hệ thống ngân hàng còn sử dụng lãi
suất chiết khấu tăng từ 5% lên 6% nhằm điều chỉnh cung cầu tiền tệ giữa các ngân hàng thương
mại và các đơn vị vay vốn, đảm bảo khả năng tha
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các xu hướng cải cách tài chính tiền tệ việt nam.pdf