MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 3
LỜI MỞ ĐẦU 4
I. KHÁI NIỆM VỀ CHUỖI CUNG ỨNG SẢN PHẨM 6
II. CHUỖI CUNG ỨNG SẢN PHẨM KHAI THÁC HẢI SẢN 8
2.1 Sơ đồ chuỗi cung ứng sản phẩm khai thác thủy sản và vai trò của các bên liên quan 8
2.2 Lợi ích và xung đột giữa các bên liên quan 16
2.3 Phân tích một số trường hợp điển hình 22
2.4 Hiệu quả và tính cạnh tranh của chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS 30
III. GIẢI PHÁP CẢI TIẾN CHUỖI CUNG ỨNG NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 33
3.1 Tăng tính hiệu quả và khả năng cạnh tranh của khâu KTHS 33
3.2 Tăng tính hiệu quả và khả năng cạnh tranh của khâu CBHS 34
3.3 Phát triển các mô hình dịch vụ mua bán đảm bảo tính minh bạch về giá cả và chất lượng sản phẩm. 34
3.4 Tăng cường các hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 35
3.5 Tăng cường các hoạt động quản lý và điều tiết của Nhà nước đối với chuỗi giá trị sản phẩm KTHS 35
3.6 Tăng cường hoạt động tuyên truyền, 35
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 37
TÀI LIỆU THAM KHẢO 38
39 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1732 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cải cách các chính sách thương mại và thủy sản, cấu trúc lại chuỗi cung ứng, nâng cao nhu cầu của người tiêu dùng đối với quản lý bền vững ngành thủy sản: Trường hợp nghiên cứu tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẫn đến việc phải vay vốn tiếp tục đầu tư sản xuất và sự lệ thuộc vào các chủ NV là tất yếu.
Đối với chủ tàu không phải vay vốn của chủ NV, thì cũng vẫn phụ thuộc vào chủ NV vì phải thông qua các chủ NV để bán sản phẩm. Phần lớn các chủ tàu không thể đứng ra bán sản phẩm trực tiếp cho các đối tượng muốn mua hàng, một phần vì không có khả năng trong mua bán, phần khác vì không có mối hàng và một lý do khách quan là sản phẩm khai thác rất đa dạng, không thể tiến hành phân loại ngay trên tàu, trong khi mỗi đối tượng mua hàng lại chỉ mua những sản phẩm chuyên biệt.
Và như vậy, đối với người KTHS, chuyến biển bị rủi ro nhất là không có sản phẩm hoặc có rất ít sản phẩm sẽ bị lỗ vốn chi phí chuyến biển. Có nhiều sản phẩm nhưng vào lúc mùa vụ rộ vẫn lo sợ thị trường không tiêu thụ hết (cùng nhiều hơn cầu), không bảo quản được, bán giá thấp cũng vẫn lỗ vốn (thu không bù đủ chi phí chuyến biển). May mắn nhất là sau khi bán sản phẩm, thu bù đủ chi và có một phần tích lũy cho chủ tàu (các chủ tàu) để phòng cho những rủi ro có thể gặp phải.
Liên đới chịu ảnh hưởng lợi ích kinh tế một cách trực tiếp đối với hiệu quả sản xuất của các chủ tàu là:
+ Các chủ NV có thể không sinh lợi nhưng cũng không mất chi phí – không bị thiệt hại vì không mua thì cũng không bán hàng. Trên thực tế, mọi khoản tiền đầu tư của chủ NV cho chủ tàu là các khoản vay của chủ tàu, trừ khi vì chủ tàu bị rủi ro không thể hoàn vốn cho chủ NV và chủ NV xóa nợ cho chủ tàu thì chủ NV cũng bị thiệt hại.
+ Các cơ sở chế biến: có thể được lợi do giá nguyên liệu đầu vào thấp – trong khi hợp đồng giao sản phẩm chế biến đã được ký kết, hoặc có thể không có nguyên liệu sẽ bị thiệt hại do không bù đắp được chi phí khấu hao vô hình của các trang thiết bị đã đầu tư và phạt do không thực hiện được hợp đồng.
+ Các cơ quan quản lý: thu được hoặc không thu được thuế, phí.
Nếu xét về mặt bảo quản sản phẩm: nếu chủ tàu bảo quản sản phẩm không tốt hoặc sử dụng các chất bảo quản không được phép thì sẽ gây thiệt hại trước mắt cho cơ sở chế biến, người tiêu dùng và trong tương lai không xa sẽ gây hậu quả cho chính chủ tàu trong quá trình phát triển: không có người mua hàng.
- Người mua bán trung gian
Người mua bán trung gian là những đối tượng được hưởng lợi nhiều nhất do ít chịu rủi ro nhất trong chuỗi giá trị sản phẩm KTHS vì họ luôn luôn có thông tin và thực hiện được nguyên tắc: bán hàng với giá cao hơn giá mua hàng. Tất nhiên, để thực hiện được nguyên tắc này những người mua bán trung gian cũng bỏ ra không ít hoạt động trí óc một cách năng động phù hợp với quy luật cạnh tranh của thị trường mà rất nhiều các HTX mua bán, các doanh nghiệp kinh doanh thủy sản của Nhà nước đã không làm được.
Các người mua bán trung gian, mà chủ yếu là các chủ NV cũng có thể gặp một số rủi ro:
+ Mất tiền đầu tư do chủ tàu làm ăn thua lỗ, gặp tai nạn không có khả năng hoàn trả vốn.
+ Bị chủ NV cấp 2 hoặc cơ sở chế biến thủy sản chiếm dụng vốn hoặc không trả tiền (có chủ NV không đòi được hàng trăm triệu đồng do cơ sở chế biến thủy sản ngoài tỉnh làm ăn thua lỗ không có khả năng thanh toán tiền mua nguyên liệu).
+ Bị các chủ tàu đã nhận đầu tư bỏ trốn (có chủ NV cũng mất hàng tỷ đồng đầu tư cho các tàu tỉnh ngoài, sau đó không lên bến nữa).
+ Đối với một số chủ NV thực hiện “mua đứt bán đoạn” có thể bị các chủ NV cấp 2 hoặc cơ sở chế biến thủy sản hạ giá sản phẩm thấp hơn giá mua của chủ tàu do tàu về nhiều hoặc do chất lượng sản phẩm không tốt.
Đối với các đối tượng khác (buôn bán nhỏ, bán lẻ, siêu thị, đại lý, nhà hàng, ...) cũng có thể bị thua lỗ nhưng phần lớn do thiếu kinh nghiệm kinh doanh là chính.
Bên liên quan chịu ảnh hưởng lợi ích kinh tế một cách trực tiếp đối với hiệu quả kinh doanh của những người mua bán trung gian là chủ tàu, nhà máy chế biến, người tiêu dùng trong nước và nhà nhập khẩu thủy sản tươi sống. Hệ thống những người mua bán trung gian hoạt động hợp lý, đều đặn sẽ tạo ra sự ổn định cho thị trường tiêu thụ và người KTHS, chủ tàu, tạo ra sự cân bằng lợi ích giữa các bên và là nền tảng cho sự phát triển. Ngược lại, nếu những người mua bán trung gian hoạt động không hợp lý, không đều đặn sẽ tạo ra sự rối loạn thị trường: giá sản phẩm quá thấp hoặc quá cao so với giá mà sản phẩm nên có phù hợp với thị trường cung cũng như câu và có thể sẽ gây nên phá sản đối với các chủ tàu.
Nếu xét về mặt bảo quản sản phẩm: nếu những người mua bán trung gian bảo quản sản phẩm không tốt hoặc sử dụng các chất bảo quản không được phép thì sẽ gây thiệt hại trước mắt cho cơ sở chế biến, người tiêu dùng và trong tương lai không xa sẽ gây hậu quả cho chính những người mua bán trung gian trong quá trình phát triển: không có người mua hàng. Cho đến nay, nhiều cơ sở thu mua không chuyển lên thành doanh nghiệp mặc dù vốn rất lớn và địa bàn hoạt động rất rộng. Một phần do thói quen làm ăn cá thể, một phần khác có thể do chưa hiểu hết về luật doanh nghiệp nên họ sợ sẽ gặp phải những khó khăn trong thực hiện các thủ tục tài chính và hành chính khi thành doanh nghiệp.
- Các nhà chế biến
Trong chuỗi cung ứng thủy sản, các nhà chế biến là khâu thứ hai làm tăng giá trị sản phẩm thông qua sản xuất. Hiện nay các cơ sở chế biến đều đã thực hiện cổ phần hóa hoặc là các doanh nghiệp tư nhân nên họ đều có sự nghiên cứu thị trường, quan hệ bạn hàng, quyết định đầu tư hợp lý, đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Thông qua khâu chế biến, giá trị sản phẩm KTHS được biến đổi rất mạnh, thông qua biểu hiện của giá cả, giá sản phẩm đầu ra thường gấp từ 2-3 lần giá nguyên liệu đầu vào tùy theo mặt hàng sản phẩm chế biến.
Các cơ sở chế biến cũng có thể gặp phải một số rủi ro:
+ Người mua hàng chậm thanh toán tiền
+ Chậm hợp đồng bị người mua hàng trừ tiền
+ Sản phẩm không đảm bảo chất lượng, ATVSTP do nguyên liệu đầu vào không tốt nên không được thị trường chấp nhận: mất chi phí sản xuất và vận chuyển.
Nếu xét về mặt bảo quản sản phẩm và ATVSTP: nếu những người chế biến không thực hiện tốt việc bảo quản sản phẩm và ATVSTP nếu gian lận được thì sẽ gây thiệt hại trước mắt cho người tiêu dùng và các nhà nhập khẩu nhưng sẽ bị phá sản tức thì do khi khách hàng phát hiện ra gian lận thì sẽ không có khách hàng và phá sản là điều tất yếu.
Liên đới chịu ảnh hưởng lợi ích kinh tế một cách trực tiếp đối với hiệu quả sản xuất của các cơ sở chế biến là các chủ tàu: một mặt nếu các doanh nghiệp chế biến thất bại, sức ép lên giá cả sản phẩm trong khâu khai thác của những người mua bán trung gian sẽ càng lớn, mặt khác hạn chế đầu ra của các sản phẩm chế biến sử dụng nguyên liệu là sản phẩm KTHS cũng sẽ ảnh hưởng nhiều đến giá cả sản phẩm KTHS. Đối tượng chịu ảnh hưởng về lợi ích kinh tế thứ hai là người tiêu dùng: Khi sản phẩm chế biến khan hiếm, người tiêu dùng cũng sẽ phải mua với giá cao hơn.
- Chính phủ
Hiện nay, giá cả sản phẩm KTHS hiện đang “thả nổi”, theo hình thức cạnh tranh hoàn hảo: không có sự độc quyền và không có sự can thiệp của Chính phủ. Các cơ quan quản lý của Chính phủ chỉ thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính Nhà nước các hoạt động sản xuất kinh doanh và chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm theo pháp luật và các quy định hiện hành. Bao gồm các Bộ ở cấp Trung ương và các Sở ở cấp địa phương: Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT), Tổng cục Hải quan. Trong Bộ NNPTNT có các đơn vị chịu trách nhiệm về các lĩnh vực chuyên ngành chính gồm:
+ Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản (KTBVNLTS): chịu trách nhiệm đăng ký, đăng kiểm, hướng dẫn hoạt động KTHS và bảo vệ NLTS, quản lý các cơ sở hạ tầng cho nghề KTHS từ nguồn kinh phí Nhà nước, hướng dẫn và chỉ đạo hoạt động phòng, tránh, trú bão cho tàu thuyền KTHS …
+ Cục Quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm: chịu trách nhiệm hướng dẫn và quản lý vấn đề về vệ sinh an toàn thực phẩm cho các sản phẩm KTHS và chế biến thủy sản.
+ Cục Chế biến nông, thủy sản và nghề muối: chịu trách nhiệm hướng dẫn và quản lý vấn đề về chê biến sản phẩm KTHS.
Bên cạnh đó còn có các tổ chức khác có liên quan đến phát triển lĩnh vực KTHS là Thanh tra Nhà nước, Viện nghiên cứu hải sản, Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản.
Các bên liên quan của Chính phủ mặc dù không can thiệp trực tiếp đến sự hình thành giá cả cũng như các kênh phân phối sản phẩm thủy sản nhưng có sự can thiệp gián tiếp thông qua các quy định về hoạt động khai thác và tiêu thụ sản phẩm KTHS. Các cơ quan quản lý của Chính phủ hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, các Cục hưởng thêm một phần thu nhập từ các hoạt động quản lý chuyên ngành. Như vậy các tổ chức của Chính phủ sẽ được hưởng lợi từ sự hoạt động khai thác, chế biến, kinh doanh các sản phẩm KTHS thông qua hệ thống thu thuế, phí từ các hoạt động này.
Các cơ quan quản lý của Chính phủ đang rất cố gắng tìm ra các giải pháp để phát triển lĩnh vực khai thác và tiêu thụ sản phẩm KTHS một cách bền vững, giảm bớt rủi ro cho người ngư dân – là khâu sản xuất đầu tiên và chịu nhiều thiệt thòi nhất trong chuỗi giá trị sản phẩm thủy sản, ổn định giá các sản phẩm KTHS cho tiêu dùng trong nước.
Hiện nay, người KTHS đang được hưởng một số chính sách hỗ trợ trực tiếp như: miễn thuế tài nguyên và thuế thu nhập, chỉ còn phải nộp thuế môn bài; hỗ trợ giá xăng dầu theo cỡ loại công suất tàu thuyền trong năm 2008 do giá xăng dầu tăng đột biến quá cao. Bên cạnh đó, họ còn được hưởng một số hỗ trợ gián tiếp từ Chính phủ như: xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng (cảng, bến cá, …), vay vốn với lãi suất ưu đãi để đóng tàu KTHS xa bờ, một số tập huấn về kỹ thuật khai thác và bảo quản sản phẩm, một số mô hình kỹ thuật khai thác sản phẩm hải sản.
Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý của Chính phủ cũng đang quan tâm đến việc đáp ứng các yêu cầu của tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) và vượt qua các rào cản thương mại cũng như an toàn vệ sinh thực phẩm của các nước trong sản xuất, chế biến và kinh doanh sản phẩm KTHS. Các cơ quan quản lý của Chính phủ đã rất tích cực thúc đẩy hoạt động đảm bảo đáp ứng các yêu cầu về VSATTP cho các sản phẩm KTHS chế biến xuất khẩu và bước đầu xúc tiến thực hiện cấp giấy chứng nhận cũng như đăng ký nhãn mác cho các sản phẩm chế biến từ nguyên liệu của KTHS: Nước mắm Phú Quốc, nghêu Bến Tre. Tuy nhiên do còn hạn chế về nguồn lực và tính đa dạng, sản xuất ở quy mô nhỏ lẻ của nghề KTHS nên đây cũng đang là thách thức lớn đối với sản xuất, chế biến và kinh doanh sản phẩm KTHS, đặc biệt trong vấn đề truy xuất nguồn gốc và cấp giấy chứng nhận cho sản phẩm KTHS.
Các hoạt động của Chính phủ có tác động mang tính chất vĩ mô tới lợi ích của các bên liên quan trong chuỗi giá trị thủy sản. Thị trường có “bàn tay vô hình” tác động đến các bên, Chính phủ có “bàn tay hữu hình” – thông qua các chính sách – để có thể điều tiết thị trường phát triển bền vững và có lợi một cách tương đối công bằng cho các bên liên quan.
Tuy nhiên, do nguồn lực có hạn nên sự hỗ trợ trực tiếp của Chính phủ Việt Nam tới chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS còn rất hạn chế nên chưa có sự thay đổi đáng kể nào khi Chính phủ ngừng sự hỗ trợ, kể cả hỗ trợ xăng dầu trong năm 2008.
- Các hiệp hội
+ Hiệp hội nghề cá (VINAFIS): VINAFIS đã cố gắng để có các hoạt động trong việc tập hợp ngư dân vào tổ chức để có tiếng nói chung. Tuy nhiên đến nay, do nguồn lực hạn chế, VINAFIS chưa phát huy được vai trò của mình. Nếu tăng hiệu quả hoạt động của VINAFIS, VINAFIS sẽ trở thành một hiệp hội mạnh, bảo vệ được quyền lợi của những người khai thác, tăng khả năng cạnh tranh của người khai thác trong chuỗi giá trị sản phẩm KTHS, từ đó tăng lợi ích, giảm bớt rủi ro cho những người KTHS trong hoạt động thị trường.
+ Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản (VASEP): VASEP đã và đang có rất nhiều cố gắng trong việc mở rộng thị trường cho các sản phẩm chế biến thủy sản, tạo điều kiện tăng giá trị và giá cả sản phẩm chế biến thủy sản xuất khẩu nói chung, các sản phẩm chế biến xuất khẩu từ nguyên liệu KTHS nói riêng. Hoạt động hiệu quả của VASEP tác động trực tiếp và nhiều nhất đến các cơ sở chế biến xuất khẩu, qua đó tác động một cách gián tiếp đến người khai thác và người mua bán trung gian, góp phần tạo ra sự ổn định thị trường một cách tương đối trong xu thế phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Người tiêu dùng trong nước
Người tiêu dùng là mắt xích cuối cùng trong chuỗi cung ứng, là đối tượng mục tiêu của chuỗi cung ứng: thỏa mãn tối đa nhu cầu người tiêu dùng. Lợi ích của người tiêu dùng trong nước, do thủy sản là thực phẩm được ưa chuộng và tương đối phù hợp với điều kiện kinh tế của đại bộ phận hộ gia đình Việt Nam nên nhu cầu tiêu dùng đối với sản phẩm KTHS là rất lớn. Vì vậy, lợi ích của người tiêu dùng trong nước ở thế tương đối bị động, chịu ảnh hưởng của tất cả các bên liên quan trong hình thành chuỗi cung ứng thủy sản ở trên, quan trọng nhất là ảnh hưởng từ hiệu quả các hoạt động của chủ tàu, hệ thống mua bán trung gian, các nhà máy chế biến và chính phủ. Quyết định nào của các bên liên quan này cũng ảnh hưởng tới lợi ích của người tiêu dùng: được mua hàng có chất lượng cao với giá hợp lý hoặc mua hàng chất lượng thấp với giá cao.
- Các nhà nhập khẩu
Trong khuôn khổ nghiên cứu này, các nhà nhập khẩu là mắt xích cuối cùng trong chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS xuất khẩu. Có sự khác nhau về tính chủ động trong yêu cầu lợi ích của người tiêu dùng trong nước và các nhà nhập khẩu. Các nhà nhập khẩu, do có thể lựa chọn sản phẩm nhập khẩu từ nhiều quốc gia khác nhau và thị trường xuất khẩu vẫn là mục tiêu nhắm tới của các nước sản xuất sản phẩm nói chung, sản phẩm KTHS nói riêng, nên họ có tính chủ động rất cao trong yêu cầu về lợi ích: chất lượng sản phẩm, giá cả cung ứng sản phẩm và trong tương lai sẽ còn nhiều yêu cầu khác nữa để đảm bảo lợi ích tối đa cho các nhà nhập khẩu. Để xuất khẩu được sản phẩm, các bên liên quan trước đó trong chuỗi cung ứng bắt buộc phải thực hiện các yêu cầu của nhà nhập khẩu.
Các nhà nhập khẩu cũng được hưởng lợi và ít chịu rủi ro như những người mua bán trung gian. Họ là những người nắm rất vững thông tin thị trường và luôn đảm bảo được nguyên tắc của những người mua bán trung gian: bán hàng với giá cao hơn giá mua hàng.
Liên đới chịu ảnh hưởng lợi ích kinh tế một cách trực tiếp đối với hiệu quả sản xuất của các nhà nhập khẩu là các chủ tàu và cơ sở chế biến xuất khẩu. Nếu các nhà nhập khẩu hoạt động có lợi ích kinh tế đều đặn sẽ tạo ra sự ổn định cho các cơ sở chế biến xuất khẩu và các chủ tàu khai thác các đối tượng hải sản làm nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Ngược lại, sẽ làm gián đoạn các hoạt động chế biến và khai thác hải sản. Chịu ảnh hưởng lợi ích kinh tế nhiều nhất từ hiệu quả sản xuất kinh doanh của các nhà nhập khẩu là các cơ sở chế biến xuất khẩu.
Có thể nói rằng trong chuỗi cung ứng của sản phẩm KTHS nói riêng, của bất kỳ một sản phẩm nào nói chung, thì các bên liên quan đều có quan hệ hữu cơ với nhau, chỉ có quan hệ nhiều hay ít, trực tiếp hay gián tiếp với nhau mà thôi. Bên cạnh đó, sự xung đột lợi ích giữa các bên liên quan một cách tạm thời, trong thời gian ngắn hạn nhưng cũng lại có sự cân bằng tương đối trong thời gian dài hạn tạo nên sức sống của thị trường là quy luật khách quan. Để giữ được sự cân bằng bền vững theo xu thế phát triển thì vai trò quản lý và điều tiết của Chính phủ là rất quan trọng, giữ cho các bên liên quan trong chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS hoạt động theo đúng cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.3 Phân tích một số trường hợp điển hình
Ở trên đã phân tích chung cho chuỗi cung ứng sản phẩm và các bên liên quan trong chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS. Kết quả đợt điều tra khảo sát điển hình cho đối tượng cá cơm và mực tại Bình Thuận; nghêu tại Bến Tre đã cho một số minh chứng cho các phân tích và đánh giá chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS ở trên.
2.3.1 Chuỗi cung ứng mực và các bên liên quan
Mực thường tiêu thụ ở các dạng: ăn tuơi, chế biến xuất khẩu, chế biến khô cho XK và tiêu thụ nội địa. Chuỗi cung ứng của mực có thể được hình dung như sau.
- Cung ứng sản phẩm trong khâu khai thác và các bên liên quan
Mực được khai thác bằng cả tàu khai thác xa bờ và các tàu khai thác ven bờ. Nghề khai thác chính hiện tại: Vây rút chì xa bờ, kéo (giã), câu. Đối tượng khai thác mực ở đây chủ yếu là chủ tàu kiêm ngư dân, có một số rất ít là các chủ NV cũng có tàu đi khai thác mực.
Quan hệ bán sản phẩm:
Mực hiện nay đang là nguồn nguyên liệu khan hiếm cho chế biến xuất khẩu nên các chủ NV mua mực nguyên liệu với giá như nhau cho cả chủ tàu có và không có quan hệ tài chính, thậm chí đối với những chủ tàu không có quan hệ tài chính còn được ưu tiên thanh toán tiền ngay sau khi giao hàng. Chủ tàu không có quan hệ tài chính có thể bán sản phẩm cho bất cứ đối tượng mua nào nếu thấy có lợi nhất (bán được với giá cao nhất). Chủ tàu có quan hệ tài chính phải bán cho chủ NV của mình. Không có sự chênh lệch giá so với thị trường khi thanh toán.
Các sản phẩm mực khai thác chủ yếu được bán cho các chủ NV, các tàu thu mua trên biển của các HTX và tư nhân, một số các cơ sở chế biến và một số ít người mua để bán lẻ tại chợ địa phương.
+ Đối với các chủ NV, phương thức mua sản phẩm chủ yếu là mua xô cả lô hàng, chủ NV phải chịu chi phí vận chuyển từ tàu vào cơ sở kinh doanh. Đối với những chủ tàu không có quan hệ tài chính được ưu tiên thanh toán tiền ngay sau khi giao hàng. Đối với những chủ tàu có quan hệ tài chính được thanh toán tiền sau khi giao hàng từ 7 – 10 ngày.
+ Người thu mua trên biển (bao gồm cả HTX), phương thức mua sản phẩm chủ yếu là mua xô cả lô hàng, giá mua rất thấp do phải chịu chi phí bảo quản, lưu giữ sản phẩm trên biển và vận chuyển vào bờ, giảm 5-7.000 đ/kg cho loại sản phẩm giá 15.000 đ/kg, có khi chỉ bằng ½ so với bán tại bờ.
+ Cơ sở chế biến mực khô: Người thu mua của nhà máy xuống cảng xem hàng, thỏa thuận giá cả, ngư dân chuyển hàng đến nhà máy. Có các cơ sở chế biến không mua của ngư dân, chỉ mua qua các chủ NV. Tiền được thanh toán sau 10-15 ngày.
+ Người bán lẻ tại chợ địa phương: mua tại cảng, thanh toán tiền ngay sau khi nhận hàng.
Một số chủ thuyền khai thác ven bờ có quan hệ tài chính với các chủ NV, đối tượng mực khai thác được là loại mực nhỏ chỉ tiêu thụ nội địa, khi bán sản phẩm mực cho chủ NV cũng vẫn phải chịu một phần sự giảm giá so với thị trường, sau 3-5 ngày nhận tiền thanh toán. Đổi lại nếu ngư dân kẹt tiền thì chủ NV có thể cho vay thêm bất cứ lúc nào, khi khai thác bị thất bát phải bán thuyền không đủ trả nợ, chủ NV cũng bớt hoặc xóa nợ cho - > quan hệ với chủ NV là hoàn toàn tự nguyện trên cơ sở sự thỏa thuận. Tuy nhiên, chủ NV địa phương cũng ngăn cản chủ NV nơi khác vào mua sản phẩm.
Mặc dù là nguồn nguyên liệu khan hiếm nhưng giá thị trường vẫn lên xuống tùy theo lúc khan, lúc rộ của mực khai thác được.
(Xem bảng trang sau)
Bảng 1. Một số thông tin về giá sản phẩm mực
Sản phẩm
Đối tượng
mua hàng
Giá thị trường
Giá được
thanh toán
Mực cho chế biến đông lạnh XK
Chủ NV mua xô cả lô hàng
28 - 30 - 31-33.000 đ/kg
28 - 30 - 31-33.000 đ/kg
Người thu mua trên biển
15.000 – 30.000 đ/kg
15.000 – 30.000 đ/kg
Mực cho chế biến khô
Cơ sở chế biến mực khô XK và tiêu thụ nội địa
30 - 45 – 50.000 đ/kg
30 - 45 – 50.000 đ/kg
Chủ NV có quan hệ tài chính
21.000 đ/kg
20.000 đ/kg
Mực tươi bán tại chợ địa phương
Người bán lẻ
21 - 33 – 45.000 đ/kg
21 - 33 – 45.000 đ/kg
Đối với sản phẩm mực, do đang là nguồn nguyên liệu khan hiếm nên các chủ tàu cũng ít bị rủi ro do thị trường.
Trong giai đoạn này, vấn đề đảm bảo ATVSTP đang là một thách thức lớn cho các nhà quản lý và chế biến. Vấn đề sử dụng chất bảo quản rẻ tiền, không được phép sử dụng để giữ độ tươi của mực vẫn diễn ra. Tuy trước mắt chưa ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả kinh tế của các cơ sở chế biến do sự dễ tính của các nhà nhập khẩu và người tiêu dùng trong nước, nhưng về lâu dài nếu không được giải quyết chắc chắn sẽ ảnh hưởng.
- Dòng sản phẩm trong khâu lưu thông và các bên liên quan:
Rất khó để phân tích chuỗi giá cả sản phẩm mực từ khâu khai thác vì chủ NV mua xô tất cả lô hàng, sau đó phân loại lại và giao hàng đến các đối tượng khác theo nhu cầu. Mặc dù rất cố gắng nhưng nhóm nghiên cứu cũng chỉ phân tích được các khâu rời rạc trong chuỗi giá trị sản phẩm mực.
+ Sản phẩm mực tươi: Sản phẩm mực tươi bán tại chợ địa phương thường được người bán lẻ mua lại của các chủ tàu KTHS quy mô nhỏ tại cảng với giá thị trường, 21.000 – 33.000 – 45.000 đ/kg tùy theo chất lượng và kích cỡ sản phẩm mực. Thanh toán tiền ngay sau khi nhận hàng. Với cùng một loại mực, giá cả cũng lên xuống tùy theo lúc khan hay rộ của mực khai thác lên bến. Tuy nhiên, những người bán lẻ chỉ tiêu thụ với số lượng ít, phù hợp với nhu cầu thị trường nên ít khi bị rủi ro, rủi ro nhất cũng ở mức hòa vốn.
Sản phẩm mực tươi từ chủ NV cấp 1 bán cho các chủ NV cấp 2 hoặc người mua buôn bán ở ngoại tỉnh tiêu thụ nội địa thường là các loại mực xấu. Chủ NV cấp 2 và người mua buôn lại tiếp tục quá trình mua bán trung gian cho đến người bán lẻ, nhà hàng. Tiền thanh toán thường được trả chậm sau khi giao hàng, đối với người mua buôn thường phải trả ngay ½ số tiền, lần đến mua hàng lần sau sẽ thanh toán hết. Nếu giá mua của NV cấp 1 từ chủ tàu là 21.000 đ/kg, giá bán đi sẽ là 25.000 đ/kg. Như vậy giá sản phẩm mực khai thác chỉ qua một khâu mua bán trung gian đã tăng khoảng 20%.
Sản phẩm mực tươi còn được các chủ thu mua trên biển (bao gồm cả các HTX) bán lại cho các chủ NV, cơ sở chế biến. Hiện nay có 29 tàu của các HTX và 78 tàu của tư nhân thu mua trên biển Bình Thuận. Với hình thức mua bán trung gian này, giá trị sản phẩm không tăng nhưng giá cả sản phẩm tăng lên rất nhiều, tăng từ 7.000 – 8.000 đ/kg, có khi gấp hai lần so với giá mua của chủ tàu (mua 15.000 đ/kg – bán 30.000 đ/kg). Tuy nhiên, sau khi trừ chi phí vận chuyển vào tới bờ, chủ thu mua trên biển lời từ 3.000 - 3.500 đ/kg (khoảng 20% so với giá mua). Theo kết quả khảo sát mới nhất của phòng Kinh tế tập thể - Sở NNPTNT Bình Thuận từ 30% số tàu dịch vụ - 9 chiếc: tàu đi 25 ngày/chuyến, lãi ròng thu được là 40 - 90 triệu đồng/chuyến, 8-9 chuyến/năm. Giá sản phẩm mua tại biển 22.000 đ/kg, về bờ bán được 30.000 đ/kg.
+ Sản phẩm mực khô: các cơ sở chế biến mực khô mua mực tươi nguyên liệu từ các chủ NV, người thu mua của cơ sở chế biến đến xem hàng và thỏa thuận giá, chủ NV phải chở hàng đến cơ sở chế biến; tiền được thanh toán sau 7 – 10 ngày. Cơ sở chế biến bán sản phẩm mực khô tới nhiều đối tượng: người bán lẻ tại chợ địa phương, chủ NV mực khô trong và ngoài tỉnh, nhà nhập khẩu; chủ NV mực khô trong và ngoài tỉnh tiếp tục thực hiện quá trình lưu thông của sản phẩm tới các người bán buôn và bán lẻ trong và ngoài tỉnh. Người bán buôn bán hàng cho các người bán lẻ, nhà hàng, … Qua mỗi khâu lưu thông, giá cả sản phẩm lại tăng lên một mức nhất định. Tùy từng đối tượng và mối quan hệ mà tiền được thanh toán ngay hoặc thanh toán chậm sau một thời gian.
Giá sản phẩm mực khô từ các cơ sở chế biến khô bán cho người bán lẻ tại chợ địa phương loại 8-10 con/kg tươi khoảng 150.000 đ/kg, với tỷ lệ nguyên liệu 4 kg mực tươi được 1 mực khô, giá mua mực tươi nguyên liệu từ các chủ NV khoảng 32.000 đ/kg. Như vậy qua một khâu chế biến tương đối đơn giản, giá trị của sản phẩm mực khai thác đã tăng lên, giá sản phẩm qua chế biến so với giá mua mực tươi nguyên liệu đã tăng 16% (tương đương tăng 5.500 đ/kg mực nguyên liệu).
+ Sản phẩm mực chế biến đông lạnh: các cơ sở chế biến mực đông lạnh thường mua nguyên liệu của chủ NV – vì đã được phân loại theo đúng chủng loại của mặt hàng chế biến. Cơ sở chế biến mực đông lạnh bán sản phẩm tới các nhà nhập khẩu, các công ty kinh doanh thực phẩm và hàng thủy sản, các siêu thị lớn, người buôn hàng thủy sản đông lạnh và tiếp tục lưu thông cho đến các đại lý bán lẻ, người bán lẻ, trường học, nhà hàng, khách sạn, … Qua mỗi khâu lưu thông, giá sản phẩm mực chế biến lại tăng lên một mức nhất định. Các cơ sở chế biến mực đông lạnh, dù cho tiêu thụ nội địa hay xuất khẩu, các người mua bán trung gian sản phẩm mực chế biến ít chịu rủi ro, tuy mức lợi nhuận không cao.
Ví dụ đối với sản phẩm mực đông lạnh nguyên con lột da xuất khẩu loại 0,45 kg/con: giá mua nguyên liệu của chủ NV là 53.000 đ/kg, tỷ lệ nguyên liệu là 1,35/1, giá giao cho nhà nhập khẩu là 5,5 USD/kg = 93.000 đ/kg. Như vậy qua khâu chế biến đông lạnh, giá trị sản phẩm mực khai thác đã tăng lên và giá cả đã tăng ở mức cao, khoảng 33% so với giá nguyên liệu, sau khi trừ chi phí, cơ sở chế biến thu được lợi nhuận 5.000 đ/kg thành phẩm (7% so với giá mua nguyên liệu).
Như vậy có thể thấy rằng, chi phí vận chuyển đã làm tăng giá sản mực khai thác lên rất nhiều và người mua bán mực trung gian thu được lợi nhuận lớn, ít bị rủi ro do thị trường vì là nguồn nguyên liệu khan hiếm. Các nhà chế biến mực cũng ít chịu rủi ro, tuy lợi nhuận thu được qua khâu chế biến không cao.
Trong giai đoạn này, vấn đề đảm bảo ATVSTP cũng vẫn là một thách thức lớn cho các nhà quản lý và chế biến. Do hệ thống trung chuyển quá nhiều khâu, sản phẩm quá đa dạng, trong khi nguồn lực quản lý có hạn nên chưa thể quản lý tốt vấn đề ATVSTP. Hiện tượng mực ngâm nước, sử dụng chất bảo quản không tốt ảnh hưởng nhiều đến chất lượng các sản phẩm chế biến. Tuy trước mắt chưa ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả kinh tế của các cơ sở chế biến do s
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cải cách các chính sách thương mại và thủy sản, cấu trúc lại chuỗi cung ứng, nâng cao nhu cầu của người tiêu dùng đối với quản lý bền vững ngành thủy .doc