MỤC LỤC
PHẦN I: THỰC TRẠNG VÀ CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH THUẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY VÀ TẦM QUAN TRỌNG ĐẾN NĂM 2020 3
1.1. Những lý luận chung về thuế 3
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thuế 3
a. Khái niệm: 3
b. Đặc điểm của Thuế: 3
c. Vai trò - chức năng của Thuế 3
1.1.2. Các nguyên tắc cơ bản của thuế: 4
1.2. Thực trạng hệ thống thuế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 4
1.2.1. Những thành tựu quan trọng đạt được của hệ thống thuế hiện hành 4
1.2.2. Những thuận lợi trong cải cách chính sách thuế ở nước ta 5
1.2.3. Những khó khăn và hạn chế trong cải cách chính sách thuế ở nước ta 6
1.2.4. Những thử thách của việc cải cách chính sách thuế: 6
1.3. Định hướng cải cách chính sách thuế ở Việt Nam 7
1.3.1. Ý nghĩa 7
1.3.2. Mục tiêu 7
1.3.3. Yêu cầu cấp bách phải cải cách hệ thống thuế hiện hành 8
a. Vấn đề tài khóa 8
b. Vấn đề tái phân phối thu nhập và công bằng xã hội 8
c. Vấn đề hiệu quả trong phân bổ nguồn lực 8
d. Vấn đề hành chính thuế 8
1.4. Cải cách chính sách thuế ở Việt Nam hiện nay và xu hướng đến năm 2020 9
1.4.1. Nguyên tắc và định hướng của việc cải cách chính sách thuế 9
1.4.2. Cải cách chính sách thuế ở Việt Nam 9
a. Kiến nghị sửa đổi trong một số luật thuế 10
b. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và thủ tục hành chính thuế 11
c. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thuế 11
d. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm 12
e. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý thuế 12
f. Đẩy mạnh dịch vụ tư vấn thuế 12
PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY 13
2.1. Những lý luận chung về Nợ Công 13
2.1.1 Khái niệm, mục đích của nợ công 13
a. Khái niệm 13
b. Mục đích vay của Chính Phủ 13
2.1.2 Sử dụng vốn vay của chính phủ 14
2.1.3 Các hình thức vay nợ của chính phủ 14
2.2. Thực trạng của nợ công 15
2.2.1. Nợ công đã vượt ngưỡng báo động 15
2.2.2. Thâm hụt ngân sách cao ảnh hưởng tới tính bền vững của nợ công 16
2.2.3. Nợ công sẽ còn tăng lên trong thời gian tới 16
2.2.4. Sử dụng nợ công không hiệu quả 17
2.2.5. Việc xác định nợ công vẫn còn nhiều bất cập ảnh hưởng đến công tác quản lý vĩ mô của nhà nước 17
2.3. Giải pháp cho vấn đề nợ công ở Việt Nam 18
2.3.1. Giải pháp về chính sách và công cụ quản lý: 18
2.3.2. Giải pháp trong việc tổ chức thực hiện quản lý nợ công: 18
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5838 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cải cách thuế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và tầm quan trọng cho đến năm 2020. Nợ công ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y mượn quá mức của khu vực công.
Gia tăng nguồn thu trong cách thức đảm bảo công bằng và giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động kinh tế.
Gia tăng nguồn thu trong cách thức không làm chệch hướng đáng kể những thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế.
Mục tiêu
Thuế là một công cụ của chính sách quản lý kinh tế, chính sách thuế phải hướng vào thực hiện các mục tiêu tổng thể của chính sách kinh tế mà Đại hội Đảng lần thứ IX của VN đề ra: “Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại . Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.
Tuy nhiên, với tư cách là một công cụ trọng tâm của chính sách tài chính quốc gia, liên quan đến việc huy động và phân bổ các nguồn lực tài chính của xã hội, nên vấn đề xuyên suốt của chính sách thuế là phải thực hiện các mục tiêu có tính đặc thù, đó là:
Giữ kỷ luật tài chính tổng thể để lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, ổn định kinh tế vĩ mô. Nguồn thu từ thuế phải có khả năng tài trợ các nhu cầu chi tiêu cần thiết ngày càng tăng của Chính phủ mà không phải viện đến sự vay mượn quá mức của khu vực công.
Nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút vốn đầu tư của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập và cam kết quốc tế nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững và thực hiện thành công chiến lược giảm nghèo.
Thuế phải là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước có hiệu quả và hiệu lực. Thuế đi vào trong đời sống kinh tế - xã hội trên cơ sở thực thi một chính sách thuế minh bạch, công bằng, có tính luật pháp cao.
Yêu cầu cấp bách phải cải cách hệ thống thuế hiện hành
Vấn đề tài khóa
Trong điều kiện Việt Nam, tình trạng thâm hụt ngân sách quá cao trong nhiều năm đã đặt ra một yêu cầu phải cơ cấu lại cán cân ngân sách, trong đó cải cách thuế trên cơ sở gia tăng nguồn thu là một nhánh của quá trình. Đối với khía cạnh tài khóa, hoạt động cải cách thuế là nhằm làm tăng thu ròng cho ngân sách.
Tình trạng bội chi ngân sách lớn và kéo dài đã làm cho không gian tài khóa trở nên chật hẹp, qua đó làm giảm tính chủ động của chính phủ trong các phản ứng chính sách, đặc biệt trong điều kiện thực hiện các gói kích thích kinh tế thời gian qua.
Trong xu hướng hội nhập, thuế đánh vào thương mại quốc tế sẽ giảm dần, do đó chính sách thuế phải bao quát hết tất cả nguồn thu, cần đưa vào áp dụng các loại thuế mới đề quản lý nguồn thu và nâng cao vai trò điều tiết và vựt dậy nền kinh tế.
Vấn đề tái phân phối thu nhập và công bằng xã hội
Động cơ của cải cách thuế còn liên quan đến các vấn đề chính trị và xã hội, đó là khả năng tái phân phối thu nhập, đảm bảo các tiến bộ và công bằng xã hội. Quá trình đổi mới kinh tế và cải cách thể chế ở Việt Nam đã tạo cơ hội cho một bộ phận người giau lên nhanh chóng nhưng lại tạo ra tầng lớp người nghèo mới.
Theo Luật thuế thu nhập cá nhân hiện nay cho thấy, không phải người nào giàu nhất cũng đang đóng thuế nhiều nhất nhưng lại có những nhóm người nghèo lại phải gánh những khoản thuế quá mức so với thu nhập và nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống của họ. Do đó hoạt động cải cách thuế nhằm phân phối thu nhập của xã hội để đảm bảo công bằng hơn cho phát hiện kinh tế hiện này là mục tiêu quan trọng.
Vấn đề hiệu quả trong phân bổ nguồn lực
Cải cách thuế còn phải làm tăng tính hiệu quả trong việc phân bổ nguồn lực vốn có tính hữu hạn của nền kinh tế.Cải cách thuế sẽ giúp điều chỉnh lại các khuynh hướng tiết kiệm và đầu tư của nền kinh tế, khuyến khích khởi nghiệp và tinh thần doanh nhân.
Thông qua các chính sách thuế, chính phủ có thể tạo ra các động cơ khuyến khích có tính kinh tế để khu vực tư nhân phân bổ vốn và các ngành nghề và lĩnh vực mục tiêu. Các chính sách thuế mới của Chính phủ để điều tiết và phân bổ lại nguồn lực thích hợp. Nguyên tắc quan trọng là cải cách thuế phải làm giảm tổn thất phúc lợi vô ích của xã hội bằng cách tạo ra một sắc thuế có mức thuế suất thấp nhưng có cơ sở thuế rộng hơn.
Vấn đề hành chính thuế
Hệ thống quản lý thu thuế ở Việt Nam được đánh giá là kém hiệu quả, trong khi mức độ tuân thủ của người nộp thuế thấp. Do vậy, khía cạnh hành chính thuế ở Việt Nam vừa mang tính mục tiêu, vừa mang tính hỗ trợ cho các cuộc cải cách thuế. Cải cách hành chính thuế phải tập trung vào ba lĩnh vực bao gồm giảm sự quá tải của hệ thống quản lý thuế, giảm chi phí tuân thủ thuế và giảm chi phí quản lý thu thuế.
Sự quá tải của hệ thống quản lý thuế hiện nay không chỉ cho thấy sự gia tăng về quy mô và tính phức tạp của hệ thống thuế mà còn là sự lạc hậu của mô hình quản lý thuế cũ không theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế. Thực trạng đó cho thấy sự cần thiết phải thay đổi một cách căn bản và toàn diện phương thức quản lý một hệ thống thuế mới phù hợp hơn, có tính động và hiệu quả hơn.
Do các thủ tục hành chính rờm rà phức tạp làm tăng chi phí tuân thủ thuế của người nộp thuế, bênh cạnh đó hệ thống quản lý thuế quá cồng kềnh lại không hiệu quả.Một số điều tra cho thấy các doanh nghiệp hàng năm phải mất trên 1.000 giờ cho các thủ tục liên quan đến thuế. Nếu nhân con số này với số doanh nghiệp nộp thuế sẽ thấy được một sự lãng phí ghê gớm về mặt nguồn lực mà nền kinh tế phải bỏ ra hàng năm
Yêu cầu của cải cách thuế không chỉ là tái cơ cấu lại nguồn thu như đã đề cập ở trên mà còn phải tái cơ cấu lại cách thức quản lý hệ thống hành thu của các cơ quan thuế trên cơ sở giảm chi phí và tăng hiệu quả quản lý thuế.
Cải cách chính sách thuế ở Việt Nam hiện nay và xu hướng đến năm 2020
Nguyên tắc và định hướng của việc cải cách chính sách thuế
Do hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO, bên cạnh việc đem lại những lợi ích to lớn cho nền kinh tế như mở rộng thị trường xuất khầu, thu hút đầu tư, giảm chi phí do giá nhập khẩu giảm… đồng thời cũng tạo ra những thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam.Vì vậy, để đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững trong quá trình hội nhập thì chính sách thuế ở Việt Nam cần phải đảm bảo một số yêu cầu cơ bản mang tính nguyên tắc đó là:
Hệ thống chính sách thuế ở Việt Nam phải thực hiện theo đúng các cam kết về thuế trong các Hiệp định với các đối tác thành viên của WTO cũng như trong các Hiệp định song phương và đa phương.
Hệ thống chính sách thuế phải phù hợp với đặc thù nền kinh tế ở Việt Nam và tuân thủ các nguyên tắc căn bản của thương mại quốc tế.hT
Hệ thống chính sách thuế phải có sự cạnh tranh cao, nhưng đồng thời vẫn góp phần bảo đàm sự an toàn và ổn định của thị trường trong nước.
Hệ thống chính sách thuế phải đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất với các chính sách kinh tế, tài chính khác trong bối cảnh hội nhập, ổn định nguồn thu của ngân sách nhà nước.
Việc hoàn thiện hệ thống chính sách thuế cần được xem xét trong mối quan hệ tổng thể về các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, phù hợp với năng lực hành chính và đạo đức của người nộp thuế.
Cải cách chính sách thuế ở Việt Nam
Kiến nghị sửa đổi trong một số luật thuế
Thứ nhất: Định hướng hoàn thiện thuế tiêu dùng.
Định hướng chung là củng cố và hoàn thiện các sắc thuế tiêu dùng nhằm tạo ra một hệ thống các sắc thuế có mối quan hệ gắn bó mật thiết, làm nền tảng bổ sung cho nhau, thuận tiện trong công tác quản lý và đảm bảo nguồn thu ổn định cho NSNN.
Đối với chính sách thuế GTGT: Xây dựng các tiêu chuẩn rõ ràng về điều kiện hoàn thuế, đơn giản hóa qui trình thủ tục và cải tiến phương pháp hoàn thuế để đảm bảo tính kịp thời và chính xác, tiến tới áp dụng cơ chế một mức thuế giá trị gia tăng để đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế.
Đối với chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt: Xóa bỏ miễn, giảm thuế tiêu thụ đặc biệt để đảm bảo sự công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ thuế và nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa hàng sản xuất trong nước và hàng xuất khẩu phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.Về thuế suất, cần nghiên cứu, áp dụng thuế suất hợp lý đối với các mặt hàng nhằm mục tiêu điều tiết, định hướng sản xuất, tiêu dùng; đảm bảo nguồn thu cho NSNN.
Đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: Cần đẩy nhanh quá trình xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý, thận trọng trong việc vận dụng các cam kết hội nhập để điều chỉnh mức thuế suất thuế nhập khẩu, vừa góp phần ổn định nguồn thu cho NSNN, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, đồng thời hạn chế sự chệch hướng thương mại giữa khu vực ASEAN và WTO. Thống nhất đối tượng miễn, giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo hướng phù hợp với các cam kết quốc tế tiến dần đến loại bỏ hoàn toàn thuế xuất khẩu. Hoàn thiện các qui định về các loại thuế mới được WTO thừa nhận để bảo hộ nền sản xuất trong nước.
Thứ hai: Định hướng hoàn thiện thuế thu nhập
Phương hướng chung là khắc phục những nhược điểm của thuế thu nhập doanh nghiệp, kết hợp hài hoà giữa thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân trên cơ sở đảm bảo nguồn thu ngày càng vững chắc và chiếm xu thế trong tổng thu ngân sách.
Đối với chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp: Xác định lại phạm vi đối tượng chịu sự điều chỉnh của thuế thu nhập doanh nghiệp để đảm bảo đúng tính chất là sắc thuế đánh vào thu nhập của doanh nghiệp và tuân thủ tính hệ thống của thuế thu nhập theo thông lệ thế giới. Giảm mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp để khuyến khích thu hút đầu tư trong và ngoài nước, tiến hành rà soát lại các chế độ ưu đãi, miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng trọng tâm, trọng điểm và đảm bảo nguyên tắc tập trung các biện pháp ưu đãi khuyến khích cho các mục đích kinh tế và được áp dụng trong một thời gian nhất định.
Đối với chính sách thuế thu nhập cá nhân: Cần qui định các đối tượng hộ gia đình và cá nhân tự kinh doanh cũng là đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân để đảm bảo tính công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế, tính thống nhất trong hệ thống chính sách thuế, công tác quản lý thu thuế và phù hợp với thông lệ quốc tế. Bổ sung thêm các nguồn thu nhập mới đang và sẽ phát sinh trong cơ chế thị trường, hội nhập (như thu nhập về đầu tư dưới dạng lãi cho vay, lãi tiền gửi, cổ tức…), thu nhập về chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản…
Thứ ba: Định hướng hoàn thiện các sắc thuế thuộc loại thuế tài sản
Việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống các sắc thuế tài sản hoàn chỉnh trong điều kiện của nước ta hiện nay cần phải được thực hiện theo một số nguyên tắc sau đây:
Hệ thống các sắc thuế tài sản phải góp phần tạo ra được hành lang pháp lý đủ mạnh để nhà nước thực hiện chức năng quản lý và điều hành trong lĩnh vực tài sản nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Mỗi sắc thuế cũng như toàn bộ các sắc thuế tài sản phải thể hiện được mối quan hệ hữu cơ, nhất quán, đồng bộ với các sắc thuế khác trong hệ thống thuế, có tác dụng bổ sung tích cực cho các chính sách thuế tiêu dùng và thuế thu nhập.
Việc xây dựng mức thuế tài sản phải đảm bảo hợp lý với mức thu nhập của các tầng lớp dân cư. Nguyên lý chung là: mức thuế đối với tầng lớp dân cư có mức thu nhập thấp và trung bình không tăng so với mức đóng góp hiện hành. Tuy nhiên, mức thuế đối với các tầng lớp có thu nhập cao, có nhiều tài sản nhà và đất... phải đảm bảo cao hơn nhằm tạo ra hiệu ứng luỹ tiến đối với các loại thuế tài sản nói chung và hệ thống các sắc thuế nói chung.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và thủ tục hành chính thuế
Đơn giản hóa chính sách thuế: đơn giản cả về mặt thuế suất, thủ tục; dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, dễ được đông đảo người nộp thuế chấp nhận.
Chính sách thuế phải có tác dụng tích cực trong phân phối thu nhập, điều tiết thu nhập hợp lý, tạo sự công bằng xã hội.
Chính sách thuế phải bảo đảm ổn định trong một thời gian dài, tránh tình trạng thay đổi quá nhiều, gây trở ngại cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Chính sách thuế phải tạo ra điều kiện cho khả năng kiểm soát được: kiểm soát của người nộp thuế, người thu thuế và cơ quan quản lý thu thuế.
Thu hẹp phạm vi diện miễn giảm thuế, tập trung vào các yêu cầu cơ bản của chính sách kinh tế, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.
Nâng cao hiệu lực pháp lý và hiệu quả của chính sách thuế. Ap dụng nghiêm minh hình thức thưởng phạt trong thuế, loại bỏ các khoản thu thuế không hiệu quả, do chi phí để thu thuế lớn hơn cả số tiền thu thuế được.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thuế
Cần phổ biến, giáo dục, truyền tải thông tin pháp luật thuế một cách cụ thể hơn, sâu hơn, có định hướng mục đích và đối tượng xác định hơn với cả đối tượng nộp thuế, cán bộ thuế và người chịu thuế để cho các chủ thể quan hệ pháp luật thuế biết rõ, cặn kẽ hơn về quyền và nghĩa vụ của mình quy định trong các quy phạm pháp luật của các luật thuế và các văn bản hướng dẫn áp dụng các luật thuế.
Trong điều kiện hướng tới việc thực hiện cơ chế các đối tượng nộp thuế tự khai, tự tính, tự nộp thuế thì công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thuế càng có ý nghĩa quan trọng bởi vì muốn cho người nộp thuế thực hiện tốt việc tự kê khai, tự tính và tự nộp thuế thì phải tạo điều kiện cho họ hiểu biết đầy đủ, tường tận về chính sách thuế, về cách kê khai thuế, về phương pháp tính thuế, thời gian nộp thuế.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
Các cơ quan thanh tra ngành thuế cần tiến hành phân lọai các đối tượng nộp thuế trong kế hoạch thanh tra, kiểm tra của mình theo mức độ rủi ro về tình trạng thất thu thuế và về độ tín nhiệm của các đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước, theo đó những đối tượng chấp hành thực hiện nghiêm túc những quy định của chính sách thuế thì cần hạn chế việc thanh tra, kiểm tra, ngược lại với những đối tượng thường có biểu hiện vi phạm pháp luật thuế thì phải có kế hoạch tăng cường thanh tra, kiểm tra và áp dụng chế tài xử phạt nghiêm khắc với những hành vi sai phạm nhằm răn đe, giáo dục phòng ngừa chung đối với các đối tượng nộp thuế.
Cần có quy định thống nhất về việc tổ chức thanh tra, kiểm tra sao cho hạn chế thấp nhất việc gây phiền hà, khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các đối tượng nộp thuế, theo đó chỉ có cơ quan thuế là cơ quan chức năng duy nhất có quyền tiến hành kiểm tra, thanh tra các đối tượng nộp thuế về việc chấp hành và thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước.
Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý thuế
Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý thuế và nâng cao đội ngũ cán bộ ngành thuế là yêu cầu rất bức bách đặt ra trong điều kiện tiến hành cải cách thuế hiện nay. Thực hiện chủ trương cải cách hành chính, tinh giảm biên chế, việc tổ chức xây dựng bộ máy quản lý thuế sẽ được thực hiện theo hướng tinh gọn, hiệu quả cao. Theo đó bộ máy quản lý thuế cần được tổ chức theo hướng kết hợp mô hình quản lý theo loại đối tượng nộp thuế (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp đầu tư nước ngòai, doanh nghiệp dân doanh, cá nhân) với mô hình quản lý thuế theo chức năng như thanh tra, kiểm tra, xử lý cưỡng chế thuế, cung cấp dịch vụ cho đối tượng nộp thuế và thu thuế.
Cần xây dựng thêm bộ phận làm công tác cưỡng chế thuế để thực hiện việc cưỡng chế thu thuế đối với các đối tượng chây ỳ, cố tình dây dưa kéo dài nợ đọng thuế, chiếm dụng tiền thuế của Nhà nước; thực thi các quyết định xử phạt các đối tượng nộp thuế; thực hiện việc thanh lý, phát mãi tài sản của những doanh nghiệp phá sản mà không còn đủ khả năng trả được các khoản nợ thuế.
Tăng cường công tác bồi dưỡng, giáo dục đào tạo, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ ngành thuế đạt chuẩn chất lượng về chuyên môn nghiệp vụ thuế, nắm vững kiến thức kế toán, tài chính, thành thạo kỹ năng chuyên môn, kỹ năng quản lý, trình độ tin học, ngoại ngữ. Đồng thời, không ngừng tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ thuế để nâng cao phẩm chất đạo đức người cán bộ, công chức ngành thuế; xử lý nghiêm khắc đối với những cán bộ có cố tình vi phạm chính sách pháp luật thuế, những cán bộ có biểu hiện tha hóa biến chất, thông đồng, tiếp tay cho các hành vi gian lận, trốn lậu thuế, bất kể đó là cán bộ lãnh đạo hay nhân viên ngành thuế, nhằm chấn chỉnh, củng cố và xây dựng đội ngũ cán bộ thuế ngày càng trong sạch vững mạnh.
Đẩy mạnh dịch vụ tư vấn thuế
Tư vấn thuế có thể là hoạt động mang tính chất của một dịch vụ công - như là một chức năng thuộc lĩnh vực hành chính của cơ quan thuế, tư vấn miễn phí cho tất cả các đối tượng nộp thuế, nhưng cũng có thể đó là hoạt động mang tính chất của một dịch vụ tư - các đối tượng nộp thuế nào có nhu cầu cung cấp dịch vụ tư vấn thì phải trả phí dịch vụ cho hoạt động này.
Việc khuyến khích hình thành và phát triển hoạt động dịch vụ tư vấn thuế không chỉ là nhiệm vụ của ngành thuế mà đó còn là nhiệm vụ chung của các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức xã hội nhằm giúp cho các đối tượng nộp thuế hiểu biết rõ, kịp thời về chính sách thuế hiện hành của Nhà nước, hỗ trợ các đối tượng nộp thuế từ khâu đăng ký, kê khai nộp thuế, lập sổ sách kế toán, chứng từ hóa đơn về thuế, tính toán mức thuế và các khoản thuế phải nộp, … Đồng thời góp phần nâng cao ý thức chấp hành chính sách pháp luật, chấp hành nghĩa vụ thuế với Nhà nước của các đối tượng nộp thuế, góp phần nâng cao tính khả thi của chính sách thuế.
Bên cạnh việc thực hiện các giải pháp trên, cần tiến hành đồng thời các giải pháp khác như chấn chỉnh và tăng cường công tác quản lý chứng từ hóa đơn, thực hiện tự động hóa công tác quản lý thuế bằng công nghệ tin học hiện đại, áp dụng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt thông qua ngân hàng trong các hoạt động mua bán, xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ … Thực hiện đồng thời những giải pháp trên sẽ góp phần quan trọng nhằm nâng cao tính khả thi của chính sách thuế hiện nay ở nước ta, nâng cao hiệu quả tác dụng của chính sách thuế hiện hành đối với nền kinh tế xã hội, góp phần đạt được những mục tiêu quan trọng của công cuộc cải cách thuế ở nước ta đã đề ra.
PHẦN II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Những lý luận chung về Nợ Công
Khái niệm, mục đích của nợ công
Khái niệm
Theo Luật quản lý nợ công Việt Nam , Nợ chính phủ, còn gọi là Nợ công hoặc Nợ quốc gia, là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Nợ công bao gồm:
Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Nợ nước ngoài của quốc gia là tổng các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của doanh nghiệp, các tổ chức khác được vay theo phương thức tự vay, tự trả theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Mục đích vay của Chính Phủ
Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương theo quy định của Luật ngân sách nhà nước.
Bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước từ vay ngắn hạn.
Cơ cấu lại khoản nợ, danh mục nợ chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh.
Cho doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng, chính quyền địa phương vay lại theo quy định của pháp luật.
Các mục đích khác nhằm bảo đảm an ninh tài chính quốc gia.
Sử dụng vốn vay của chính phủ
Cấp phát từ nguồn vốn vay trong nước và vay ưu đãi của nước ngoài cho chương trình, phương án đầu tư cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội và chương trình, dự án thuộc các lĩnh vực khác không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước theo quy định của Luật ngân sách nhà nước
Cho vay lại toàn bộ hoặc một phần từ nguồn vốn vay nước ngoài cho chương trình, dự án đầu tư có khả năng thu hồi một phần hoặc toàn bộ vốn vay, bao gồm cả dự án xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp với định hướng phát triển kinh tế – xã hội của đất nước đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Cơ cấu lại khoản nợ, danh mục nợ theo kế hoạch vay, trả nợ chi tiết hàng năm của Chính Phủ, đề án cơ cấu lại nợ đã được phê duyệt.
Các hình thức vay nợ của chính phủ
Vay nước ngoài là các khoản vay ngắn hạn, trung - dài hạn phải trả lãi hoặc không phải trả lãi do Nhà nước, Chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức khác của Việt Nam vay của chính phủ các nước, vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là khoản vay nhân danh Nhà nước, Chính phủ Việt Nam từ nhà tài trợ là chính phủ các nước, tổ chức tài trợ song phương và tổ chức liên quốc gia hoặc liên chính phủ có yếu tố không hoàn lại (thành tố ưu đãi) đạt ít nhất 35% đối với khoản vay có ràng buộc, 25% đối với khoản vay không ràng buộc.
Vay ưu đãi là khoản vay có điều kiện ưu đãi hơn so với vay thương mại nhưng thành tố ưu đãi không đạt tiêu chuẩn của vay ODA.
Vay thương mại là khoản vay theo các điều kiện thị trường.
Trái phiếu chính phủ là loại trái phiếu do Bộ Tài chính phát hành nhằm huy động vốn cho ngân sách nhà nước hoặc nhằm huy động vốn cho công trình, dự án đầu tư cụ thể.
Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh là loại trái phiếu có kỳ hạn từ một năm trở lên, do doanh nghiệp phát hành nhằm huy động vốn cho dự án đầu tư theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh.
Trái phiếu chính quyền địa phương là loại trái phiếu có kỳ hạn từ một năm trở lên, do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phát hành hoặc uỷ quyền phát hành nhằm huy động vốn cho công trình, dự án đầu tư của địa phương.
Thực trạng của nợ công
Nợ công đã vượt ngưỡng báo động
Nợ công của Việt Nam tăng liên tục từ 36% GDP trong năm 2001 lên 56.7% GDP vào năm 2010. Quy định nợ công ở mức an toàn là 50% nhưng liên tiếp 2 năm 2009 và 2010 tỷ lện này đã vượt ngưỡng an toàn đề ra đây là vấn đề hết sức nghiêm trọng mà việt nam cần phải giải quyết trong thời giàn tới.
Với tỷ lệ nợ công này thì năm 2009 là 52,6% , thì tỷ lệ nợ công việt nam đã đứng thứ 44 trên thế giới và đứng thứ 2 đông nam á sau phillipine. Cao hơn rất nhiều so với các nước mới nổi và đang phát triển trong khu vức
Thâm hụt ngân sách cao ảnh hưởng tới tính bền vững của nợ công
Một xu thế rất đáng lo ngại là cũng trong giai đoạn 2001-2010, thâm hụt ngân sách (cả trong và ngoài dự toán) tăng từ 2,8% GDP lên tới 6,2% GDP . chúng ta có thể thấy rằng, trong khi nợ công tăng liên tục thì ngân sách lại ngày càng trở nên thâm hụt. Điều này vi phạm một nguyên tắc cơ bản của quản lý nợ công bền vững, đó là nợ công ngày hôm nay phải được tài trợ bằng thặng dư ngân sách ngày mai. Hơn thế, thâm hụt ngân sách ở Việt Nam đã trở thành kinh niên và mức thâm hụt đã vượt qua ngưỡng “báo động đỏ” 5% theo thông lệ quốc tế, khiến tính bền vững của nợ công càng bị giảm sút.
Nợ công sẽ còn tăng lên trong thời gian tới
Hiện nay tỷ lệ đầu tư trên GPD (I/GPD) của chúng ta rất cao lên tới con số 41,9% trong năm 2010 trong khi tỷ lệ tiết kiệm chỉ đạt 27% vì vậy chúng ta cần phải bù đắp khoản thiếu hụt này. Do nước ta là nước phụ thuộc rất nhiều vào nền kinh tế khu vực công nhìn vào biểu đồ dưới chúng ta thấy răng đầu tư khu vực nhà nước năm 2010 chiếm 38.1% tương đương 316,3 nghìn tỷ, khu vực doanh nghiệp ngòai nhà nước chiếm 36,1% 299,7 nghìn tỷ đồng, và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) 169,183 nghin tỷ đồng chiếm 28,5 % . qua các số liệu trên chúng ta có thể thấy rằng việc bù đắp thiếu hụt đầu tư sẽ dựa vào việc đi vay của chính phủ nhất là những năm tới đây sẽ có rất nhiều dự án được thực hiện.
Nếu nhìn vào một số dự án đầu tư cụ thể từ nay đến năm 2030 như dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam (56 tỉ USD), dự án xây dựng thủ đô (60 tỉ USD), nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận (hơn 10 tỉ USD)... - trong đó nguồn tài trợ chủ yếu là từ ngân sách và nợ công - có thể thấy nợ công sẽ tăng mỗi ngày.
Sử dụng nợ công không hiệu quả
Việc quản lý và chất lượng sử dụng nguồn vốn vay của Việt Nam hiện nay rất yếu kém. Nhìn vào con số thống kê qua từng giai đoạn, từ năm 1995, hệ số ICOR của Việt Nam liên tục tăng: từ mức 3,5 giai đoạn 1991 – 1995, tăng đến 5,24 giai đoạn 2001 – 2003. Năm 2008, hệ số ICOR của nền kinh tế là 6,6 – đã gấp hơn 2 lần mức khuyến nghị, năm 2009 là 8 và năm 2010 trên 6. Đầu tư khu vực công hiện đang chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng đầu tư của Việt nam cho chúng ta thấy rằng hiệu quả từ việc sử dụng vốn đặc biệt là sử dụng vốn vay của khu vực này còn yếu kém hơn các con số icor trung bình trên rất nhiều. Việc sử dụng không hiệu quả nguồn vốn này dẫn đến tăng trương GDP thấp (chủ yếu tăng về lượng đầu từ chứ không tăng về năng suất và hiệu quả), Vì đầu tư không thể tăng mãi nên đến một lúc nào đó, tốc độ tăng trưởng sẽ phải giảm không đủ bù đắp thâm hụt ngân sách, trả các khoản nợ vay tới hạn làm ảnh hưởng rất nhiều đến tính bền vững của nợ công
Việc xác định nợ công vẫn còn nhiều bất cập ảnh hưởng đến công tác quản lý vĩ mô của nhà nước
Định nghĩa nợ công của Bộ Tài chính chỉ ba
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CD1_ Thue va no cong.doc