MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
PHẦN MỘT: 4
QUAN NIỆM CHUNG VỀ CÁI TÔI TRONG VĂN HỌC 4
PHẦN HAI: 9
VẤN ĐỀ XUẤT XỬ TRONG VĂN HỌC NHÀ NHO VÀ SỰ LỰA CHỌN CỦA NGUYỄN KHUYẾN NHÌN TỪ BỐI CẢNH LỊCH SỬ - THỜI ĐẠI 9
PHẦN BA: 17
CÁI TÔI CỦA NGUYỄN KHUYẾN TRONG SỰ LỰA CHỌN XUẤT XỬ QUA MỘT SỐ SÁNG TÁC CỦA ÔNG 17
CÁI TÔI NGUYỄN KHUYẾN TRONG THƠ THIÊN NHIÊN LÀNG CẢNH 17
KẾT LUẬN 31
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4345 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cái Tôi của Nguyễn Khuyến qua sự lựa chọn xuất xử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đối sánh với các nhà nho trước và cùng thời với ông .
PHẦN HAI:
VẤN ĐỀ XUẤT XỬ TRONG VĂN HỌC NHÀ NHO VÀ SỰ LỰA CHỌN CỦA NGUYỄN KHUYẾN NHÌN TỪ BỐI CẢNH LỊCH SỬ - THỜI ĐẠI
VẤN ĐỀ XUẤT XỬ TRONG VĂN HỌC NHÀ NHO
Nguyễn Thị Kiều Hương
Sự lựa chọn xuất xử là vấn đề nảy sinh trong quá trình các nhà nho “Hiện thực hoá” những lý tưởng về mặt chính trị xã hội của hệ tư tưởng Nho giáo.Với những học thuyết này,họ luôn được giáo dục đề cao tinh thần “tự nhiệm” lấy “tu thân” làm gốc để cảm hoá lòng người (Tu kỉ trị nhân).Tuy nhiên, khi bắt tay vào thực tế,trước sự phức tạp của thời đại cũng như chốn bổng lộc quan trường đầy cám dỗ “làm thế nào để trọn đạo Vua-tôi?”, “sống làm sao để giữ được chữ Tâm cho thanh sạch?” …đó là vấn đề bao thế hệ Nho gia suy tư trăn trở.Và sự lựa chọn Xuất hay Xử, Hành hay Tàng, ở hay Về trở thành dòng tâm sự đầy giằng xé của văn học nhà Nho. Chính vì vậy, để hiểu được rõ nét sự trăn trở suy tư của họ, ở bài viết này,chúng tôi muốn chỉ ra nguồn gốc,tính chất ,biểu hiện của vấn đề sự lựa chọn Xuất -xử của Nho giáo trong văn học nói chung.
Chúng ta trước hết có thể khẳng định Nho giáo là nguồn gốc sâu xa đặt ra vấn đề Xuất - xử. Hay nói cách khác, sự lựa chọn Hành hay Tàng, ở hay Về là một sự chọn lựa ứng xử của các nhà Nho khi áp dụng tư tưởng của Nho giáo vào thực tiến.Chính vì vậy, ta cần nắm vững những điều cốt lõi về lịch sử cũng như nội dung tư tưởng của hệ ý thức này.
Thứ nhất, Nho giáo là một học thuyết đạo đức-chính trị mang tính chất tôn giáo, được sáng lập bởi nhà tư tưởng Trung Hoa cổ đại Khổng Tử (551-479 TCN). Sau khi ra đời, Nho giáo đã nhanh chóng phát triển thành hệ tư tưởng chính thống và Nho học được xem là loại hình giáo dục phổ biến của Trung Hoa,kéo dài suốt thời trung đại (Thế kỉ II TCN đến Cách mạng Tân Hợi 1911.1913). Nhưng chưa dừng lại ở đó, học thuyết này còn gây ảnh hưởng sâu đậm khắp khu vực Đông á,trong đó có Việt Nam.
Ở nước ta,Nho giáo được truyền bá rất sớm,từ thời Bắc thuộc( khoảng năm 111TCN hoặc sớm hơn) nhưng phải đến giai đoạn từ thời Trần sang thời Lê nó mới trở thành ý thức hệ chính thống.Vai trò độc tôn của Nho giáo ở Việt Nam kéo dài gần năm thế kỉ (Thế kỉ XV-Thế kỉ XIX) gây ảnh hưởng sâu sắc và toàn diện tới mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội nước ta. Đặc biệt hơn,nó đã tạo ra một đội ngũ trí thức Nho học uyên bác. Đây chính là những chủ thể thẩm mỹ trực tiếp cấu thành nên loại hình văn học nhà Nho-một bộ phận quan trọng trong nền Văn học trung đại Việt Nam.
Từ sự sơ khảo về lịch sử như trên đã chỉ rõ lịch sử hình thành và phát triển của Nho giáo nói chung và ở nước ta nói riêng. ở phần sau này, chúng tôi sẽ tập trung trình bày làm nổi bật nội dung tư tưởng cốt lõi học thuyết đạo đức-chính trị này.Bởi đây chính là cơ sở giúp ta lí giải nguồn gốc nảy sinh vấn đề Xuất-xử trong Nho gia.
Nội dung cơ bản của Nho giáo được thể hiện tập trung trong ba học thuyết: Thuyết “Đạo đức”,Thuyết “Lễ trị” và Thuyết “Chính danh”.Trong đó,lí tưởng của học thuyết là chủ trương thiết lập lại trật tự xã hội một cách ổn định thông qua việc tu luyện đạo đức nhằm hoàn thiện nhân cách bản thân và cảm hoá lòng người (Tu kỉ trị nhân). Chính bởi vậy các môn sinh luôn phải lấy tu thân làm gốc, lấy chữ “Nhân”, chữ “Nghĩa” làm đức mục cao nhất của quá trình tu thân.
Việc hiện thực hoá lí tưởng kiến tạo xã hội trên được Nho giáo giao phó tập trung ở một số lớp người, được xem là tinh hoa của thời đại. Đó là những nhà nho,các bậc thánh nhân quân tử,lớp người được xem là đã đạt được tính mẫu mực điển hình của con đường tu thân dưỡng đức. Bởi vậy, trong nhân cách của họ,thường trực một tinh thần “tự nhiệm”, “nhập thế” trước hiện thực đời sống.
“Vũ trụ giai ngô phận sự” (Nguyễn Công Trứ).Và để thể hiện tinh thần hữu trách-phẩm chất đặc trưng của nhà Nho,họ sẽ bứơc vào con đường “lập thân ,cứu thế” mà Nho giáo cho là “chính đạo”, đó là con đường học-thi đỗ và ra làm quan.Nho giáo quan niệm rằng nhà Nho bước vào chốn quan trường là để giúp vua giáo hoá dân chúng,ban ân huệ cho dân bằng chính đạo đức nhân cách của mình (con đường “Đức trị”, phò vua trị quốc, trị quốc cứu đời, trị đời để cứu dân). Chính vì thế con đường trước tiên, con đường chính thống nhất mà nhà Nho muốn lựa chọn bao giờ cũng là con đường “nhập thế”.
Tuy nhiên, có một nghịch lý nảy sinh là giữa lý tưởng hành đạo của nhà Nho với thực tế lại bị mâu thuẫn với nhau rất sâu sắc. Nho giáo quan niệm trọng “Đạo” khinh vật chất và chủ trương coi con đường làm quan là con đường hành đạo chân chính nhất. Thế nhưng quan trường chính là nơi trực tiếp liên quan đến đời sống chính trị, thời đại, lại là nơi có nhiều thủ đoạn trục lợi cầu danh, phức tạp nhất, khó nắm bắt nhất.Do vậy,mặc dù tu thân lập tề theo con đường “Chính đạo” nhưng các nhà nho vẫn luôn trăn trở giữ mình, giữ được chí khí của bậc quân tử “Phú quý bất năng dâm,bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (Giàu sang không cám dỗ được lòng mình, nghèo khó không làm mình nao núng,cường quyền không làm mình khuất phục). Nhưng chưa dừng ở đó, việc nhà nho có thực hiện được lí tưởng của mình hay không lại phụ thuộc vào phẩm chất của các ông vua: có được vua minh tin dùng thì họ mới có thể đem sở học của mình ra phò vua giúp nước được.Hơn nữa,thời thế luôn luôn thay đổi, lại thêm buổi loạn lạc phân li…càng đẩy các nhà nho vào bi kịch “Tài cao phận thấp chí khí uất”. Nhưng dù rơi vào hoàn cảnh nào, nhân cách của nhà nho cũng buộc họ phải hành xử sao cho trọn đạo.Chính vì vậy mà họ thường xuyên phải đặt ra vấn đề Xuất -Xử. Tâm lý họ luôn mong muốn “nhập thế”, “hành đạo” nhưng thời cuộc thay đổi, để bảo vệ phẩm giá của mình,họ sẵn sàng chọn con đường ẩn dật “Lánh đục về trong”.
Lựa chọn con đường ẩn dật đồng nghĩa với việc các nhà nho bước ra ngoài chốn quan trường chính sự để về với cuộc sống “an bần lạc đạo” hưởng thú thanh nhàn nơi cảnh quê yên tĩnh. Nhưng trong thực tế,họ chỉ nhàn “thân” mà không nhàn “tâm”;họ trốn vào thiên nhiên cảnh vật đấy mà lòng vẫn đau đáu sự đời:
“Bui có một lòng trung với hiếu
Mài chăng khuyết ,nhuộm chăng đen”
(Thuật hứng 24-Nguyễn Trãi)
Chính sự day dứt này đã trở thành nguồn xúc cảm để các nhà nho tự bạch lòng mình,làm nên một bộ phận đặc sắc trong văn học-Văn chương nhà Nho ẩn dật. Độc giả hẳn không thể quên dòng tâm sự trong thơ Nguyễn Trãi,Nguyễn Công Trứ,Cao Bá Quát,Nguyễn Đình Chiểu,Nguyễn Khuyến…Họ cũng chọn lựa con đường “Lánh đục về trong” để bảo toàn phẩm giá trước những đổi thay của thời cuộc. Tuy nhiên, sự lựa chọn Xuất-Xử của họ lại đựơc thể hiện theo những phương thức xúc cảm riêng. Đây chính là cơ sở để chúng tôi đi đến việc tìm tìm hiểu “Cái Tôi của nhà thơ Nguyễn Khuyến trong sự lựa chọn Xuất-xử”.
Tóm lại, những việc trình bày như trên cho ta thấy rằng Nho giáo là một học thuyết chính trị-đạo đức giàu tính thực tiễn và có ý nghĩa tích cực. Trong đó nó chủ trương hứơng tới việc tạo dựng một xã hội thái bình thịnh trị. Đồng thời đề cao tinh thần hữu trách tự nhiệm của nhà nho trước hiện thực cũng như coi trọng phẩm cách của họ trước cuộc đời. Đây chính là nguyên nhân làm nảy sinh mối trăn trở mà nhà nho luôn băn khoăn,day dứt,suy tư: đó là vấn đề về sự lựa chọn xuất-xử.Trước mỗi bậc chính nhân luôn có hai con đường:gặp thời ra sức làm quan phò vua giúp nước;bất phùng thời sẵn sàng từ chức về an trù tại quê hương.Chính vì vậy mà việc bỏ Hành về Tàng vẫn được xem là con đường “dũng thoái”.Nó vừa thể hiện thái độ phản ánh của nhà nho trước thực tại vừa góp phần giữ gìn tâm hồn trong sạch của bản thân.
SỰ LỰA CHỌN XUẤT-XỬ CỦA NGUYỄN KHUYẾN NHÌN TỪ BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ THỜI ĐẠI
Nguyễn Thị Thu Duyên.
Theo những tài liệu về Nguyễn Khuyến được biết ông sinh năm ất Mùi 1835 ở quê mẹ, làng Hoàng Xá, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định nhưng lớn lên chủ yếu ở quê cha là làng Yên Đổ,huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.Tên lúc đầu là Thắng, về sau mới đổi là Khuyến để chỉ rõ quyết tâm học tập của mình.
Nguyễn Khuyến được sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, từ bé đã nổi tiếng học giỏi. Tuy nhiên, Nguyễn Khuyến đã phải vất vả mấy lần thi hỏng sau đó mới lần lượt đỗ Hội nguyên, rồi Đình nguyên, được vua Tự Đức ban cờ biển và viết cho ông hai chữ “Tam nguyên”. Sau khi thi đỗ, Nguyễn Khuyến ra làm quan, ông đựơc giữ chức vụ khá nhàn nhã,không phải lo lắng những vấn đề gay go của đất nước.Thế nhưng chỉ sau mười một năm ra làm quan dưới triều Nguyễn, đến năm 1883, Nguyễn Khuyến đã xin từ quan về ở ẩn (với danh nghĩa về hưu non do bị đau mắt) không màng chính sự khi ông mới 49 tuổi. Tại sao lại có sự “nghỉ hưu non” này?
Như trên đã nói, ngay từ thuở thiếu thời, Nguyễn Khuyến đã nổi tiếng học giỏi khắp vùng; gia đình ông lại là dòng dõi Nho gia.Vì thế mà tương lai của ông được vạch ra theo thứ tự: học-thi đỗ-làm quan. Và sau nhiều năm dùi mài kinh sử,cận kề đèn sách,Nguyễn Khuyến đã đậu được đến Tam Nguyên. Tuy nhiên, đường quan trường của ông không có gì nổi trội,hiển hách là mấy.Có lẽ,vì trong khoảng mười hai năm làm quan thì có đến sáu năm (một nửa đời làm quan của ông) là làm ở sử quán, một công việc rất nhàn nhã,không phải lo lắng cho quốc sự nhiều.Năm 1858, thực dân Pháp chính thức đem quân sang xâm lược nước ta , chúng chiếm lấy Bắc Bộ rồi chiếm luôn cả kinh thành, vua Tự Đức chết khiến cho cả triều đình hỗn loạn như rắn mất đầu. Các quan lại hoang mang lo lắng,tình hình vô cùng rối ren.Bản thân Nguyễn Khuyến là một nhà nho theo đạo Thánh hiền, lấy chữ Trung làm trọng,vì thế mà ông quan niệm phải trung với vua,thờ vua giúp nước.Hơn nữa,qua ba lần thi Hương,thi Hội,thi Đình ông đều đạt giải nguyên,lại được vua tự tay khen thưởng, “cái ơn huệ” đối với ông có nghĩa là trách nhiệm (Theo “Nguyễn Khuyến-một phong cách lớn”, Nguyễn Lộc). Có lẽ do vậy mà sau khi thi đậu, mặc dù lúc đó nước ta đã bị thực dân Pháp xâm lược, tình hình hết sức rối ren, nhưng Nguyễn Khuyến vẫn quyết định ra làm quan,vì ông nghĩ rằng đó là con đường duy nhất để một nhà nho có thể thực hiện được lý tưởng “trí quân trạch dân” của mình:
“Mười mấy năm qua ấn với thao
Thân này mong được đức vua yêu”
Tuy nhiên khi giặc Pháp nổ súng và xâm lược,Nguyễn Khuyến đã không có dũng khí lấy cái chết để đền nợ nước như Trần Bích San,hay Phan Thanh Giản, ông cũng không đủ tự tin và can đảm để theo tướng tài chiêu mộ binh sĩ chờ thời cơ khởi nghĩa như tổng đốc Sơn Tây Nguyễn Đình Nhuận hay nho sĩ Nguyễn Quang Bích.Nhưng ông cũng chẳng làm quan cho giặc như Nguyễn Hữu Độ mà chọn con đường từ quan về nhà để khỏi mang tiếng xấu đến muôn đời.
Trứơc lẽ xuất xử,Nguyễn Khuyến đã băn khoăn, chết thì:
Nhược vi thảng thốt lâm nghi dị
Đáo đắc thoan tuần biện diệc nan
(Nếu như thảng thốt mà xông vào chỗ chết thì còn dễ, nhưng dùng dằng mà quyết chết được thực là khó)
( Xuân dạ liên nga)
Nếu theo Nguyễn Quang Bích thì ông tự nhận thấy mình không đủ tài cán:
Vô tài cự khả khinh đầu bút
Hữu dục an năng bất sĩ bào
(Bất tài há dám xem nhẹ việc bứt bút theo quân
Còn ham muốn sao cho khỏi thẹn với tấm áo)
Có thể thấy một điều là ở vào thời điểm đó, đối với ông giải pháp nào cũng là gượng gạo và miễn cưỡng. Đó là giai đoạn khủng hoảng và bế tắc buộc Nguyễn Khuyến phải lựa chọn Xuất hay Xử.Tuy vậy,vấn đề xuất xử đặt ra đối với ông không đến mức nôn nóng, ồn ào như Nguyễn Công Trứ hay mang nhiều day dứt như Nguyễn Trãi. Ông đã so sánh giữa tình thế và sức lực của mình với kẻ khác ,giữa bản thân với gia đình để cuối cùng lựa chọn con đường cáo quan về quê:
Việc nhiều,hay ốm, đành hưu vậy
Ngày một lần ăn chưa nỗi nào
Giúp nước bạn bè còn lại đó
Về nhà con cháu chắc hiền đâu?
Nguyễn Khuyến nghĩ rằng bạn bè ông ở lại giúp nước còn ông đã già lại đau ốm không đủ tài đủ sức để chống giặc mà cứ bám lấy một chức quan là tham lam.Suy nghĩ của ông về lẽ xuất xử chỉ đơn giản là thời thế loạn lạc, không hành được thì tàng chứ chẳng phải là do thiếu ơn tri ngộ hay do gặp hôn quân gian thần. Ông chọn cách ẩn dật để mong chút tự do,thoải mái cho riêng mình. Có những lúc ông đã ao ước giá mình là một hòn đá vô tri vô giác vì ông sợ lương tâm còn thì hẳn còn khiến ông suy nghĩ và khổ sở.Kiểu ẩn dật mà Nguyễn Khuyến lựa chọn cũng như nhiều nho sĩ khác, đó là cách lựa chọn thái độ sống của nhà nho.Tuy nhiên,lựa chọn theo cách đó phải có tiền đề là một thể chế chính trị xã hội cho phép con người quan niệm mình không có trách nhiệm với xã hội ,hoặc trách nhiệm đó thuộc về vua hoặc cá nhân là cứu cánh -đồng thời có hoàn cảnh kinh tế tự túc, có thể sống biệt lập ,có ít liên quan với kẻ khác.Nhưng hoàn cảnh hiện tại không cho Nguyễn Khuyến sống biệt lập như các ẩn sĩ đời xưa; vì thế mà ông luôn phải suy nghĩ và khổ sở bởi điều ấy.
Theo ông Nguyễn Lộc, Nguyễn Khuyến cáo quan lui về vườn Bùi chốn cũ là do sự chi phối của một tâm lý bất lực thất bại chủ nghĩa. Ông nhìn thấy nước không còn nữa nên đành quay về ở ẩn:
Cờ đương dở cuộc không còn nước
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng
Thực ra,sự lựa chọn của Nguyễn Khuyến đã bao phen làm ông suy đi nghĩ lại bởi lịch sử bấy giờ chưa thể có câu trả lời chính xác,người nho sĩ bị dồn vào thế bí .Nguyễn Khuyến bị bao mối ràng buộc:
Ơn vua chưa chút báo đền
Cúi trông hổ đất,ngửa lên thẹn trời
Nhưng nếu làm quan lại để tiếng xấu cho đời sau.Cho nên ,sự lựa chọn xuất xử của Nguyễn Khuyến không được rõ ràng ,vì ông từ quan với danh nghĩa là về hưu non, ông lại không tham gia chống Pháp và vẫn giao thiệp tốt với những bạn quan cũ,bởi vậy mà lẽ xuất xử của ông không minh bạch, “vẫn có chỗ để nghi ngờ,chê cười”(theo GS.Trần Đình Hượu). Điều này khiến nhà thơ hết sức khổ tâm; đó cũng là lúc con người cá nhân của ông được bộc lộ:một con người khát khao được thờ vua giúp nước nhưng gặp thời buổi nhiễu nhương đành bất lực làm một ông già vườn Bùi trốn thân vào cảnh vật. Đó là một kẻ sĩ bụng đầy chữ mà không được đem hết ra để trả nợ tang bồng cho vẹn chí nam nhi.Nỗi niềm thương cho dân tình thế thái của Nguyễn Khuyến chẳng lúc nào nguôi ngoai cả khi ông từ quan về ở ẩn. Sự lựa chọn xuất xử của ông trong thời buổi ấy có lẽ chỉ có thể như thế nhưng những khổ tâm, dằn vặt của ông về quyết định lựa chọn của mình đã được ông giải toả qua những vần thơ mà từ đó,ta hiểu hơn con người Tam nguyên Yên Đổ, một nhân cách lớn.
PHẦN BA:
CÁI TÔI CỦA NGUYỄN KHUYẾN TRONG SỰ LỰA CHỌN XUẤT XỬ QUA MỘT SỐ SÁNG TÁC CỦA ÔNG
CÁI TÔI NGUYỄN KHUYẾN TRONG THƠ THIÊN NHIÊN LÀNG CẢNH
Lê Thị Thu Hảo
Lui về ở ẩn là một sự lựa chọn thường thấy ở rất nhiều nhà nho trong văn học Trung đại, đặc biệt là sự ở ẩn tìm về với thiên nhiên làng cảnh. A.X.Martynov đã từng nhận xét: “Trong quan hệ với nhân cách nhà nho,thiên nhiên thực hiện một chức năng hai mặt:Thiên nhiên chỉ ra nó như một nhân cách ,một “tài năng” và thiên nhiên đóng vai trò làm khuôn mẫu trong quá trình biến nhân cách này thành nhân cách nhà nho;vì thế toàn bộ truyền thống tinh thần Nho giáo hướng đến thiên nhiên như hướng đến một mẫu mực chủ yếu và hoàn chỉnh nhất.”Trong thời kì Trung đại,quan niệm thẩm mỹ của nhà nho là coi thiên nhiên như nguồn gốc sinh ra nhân cách cao quí nên theo quan niệm Nho gia,thiên nhiên là mẫu mực,là lý tưởng,là cái đẹp,cái hoàn mỹ,chỉ có những con người cao quí mới xứng đáng sánh cùng thiên nhiên, đối diện với thiên nhiên;còn những kẻ độc ác xấu xa vĩnh viễn bị cầm tù,lưu đầy trong phạm vi cuộc sống xã hội,trong cái hàng ngày,trần trụi,bụi bặm đáng ghét( Do đó trong văn học trung đại,thiên nhiên được sử dụng làm thước đo chuẩn mực cho con người và hình ảnh của các nhân vật chính diện luôn gắn liền với hình ảnh của thiên nhiên ước lệ,tượng trưng).Bởi vậy,các nhà nho theo quan niệm xuất xử của Nho giáo -gặp thời thịnh thì ra làm quan,phò vua giúp nước;gặp thời loạn thì cáo quan lui về ở ẩn,lấy thiên nhiên để di dưỡng tính tình.Với nhà nho,thiên nhiên là cội nguồn của nhân cách cao quí,mang phẩm chất tốt đẹp của con người:cây tùng là hình ảnh đại trượng phu,cây trúc là hình ảnh người sĩ quân tử,cúc mai là biểu hiện của sự trắng trong…Từ lâu,nhà nho ẩn dật chủ trương sống một cuộc sống giữa thiên nhiên để di dưỡng tính tình,bảo toàn phẩm giá trong sạch, để tỏ thái độ khinh thường danh lợi,coi nhẹ cuộc ganh đua chốn thị thành vì miếng mồi tiền tài danh vị.Trước Nguyễn Khuyến đã có nhiều nhà nho chọn lối xuất xử lui về ẩn mình với thiên nhiên như Nguyễn Trãi,Nguyễn Bình Khiêm,Lê Hữu Trác…Họ cũng bộc lộ Caí Tôi trong môi trường thiên nhiên,bỏ chốn thị thành để lánh đục về trong,miêu tả thiên nhiên như là mảnh đất lý tưởng của mình mà lựơc bỏ qua các quan hệ dân sự.Tuy nhiên,với cùng một lối xuất xử này,Nguyễn Khuyến lại bộc lộ một cái Tôi riêng,rất khác với các nhà thơ trước đó.
Các nhà nho ẩn dật trước Nguyễn Khuyến tìm đến với thiên nhiên,hoà mình với thiên nhiên để quên đi cảnh đời, đóng lòng mình trước mọi sự đời,con người.Họ độc lập cao độ đối với xã hội và đặt mình hoàn toàn vào thiên nhiên,chỉ có thiên nhiên thôi.Nguyễn Trãi khi lui về ở ẩn đã chọn Côn Sơn để đắm mình vào rừng cây suối nước,Cái Tôi cuả nhà nho ẩn dật sống giữa môi trường thiên nhiên thuần khiết ,chỉ có quan hệ với núi sông cỏ cây,trăng nước,chim thú mà không có quan hệ với xã hội loài người.Mối tình gắn bó,sự gắn bó giao hoà giữa cái Tôi trong thơ Nguyễn Trãi với thiên nhiên được diễn tả hết sức sâu sắc:
Cò nằm hạc lẩn nên bầu bạn
ủ ấp cùng ta làm cái con
Hay Vén trúc bước qua lòng suối
Thương mai về đạp bóng trăng
ở đây tịnh không hề có một dấu vết nào của cuộc sống xã hội,của sinh hoạt nhân sự trong môi trường hoạt động của Cái Tôi nhà thơ.Thiên nhiên không thuần tuý là môi trường hờ hững ,vô tình nữa mà là những người bạn,những người thân thiết nhà thơ phải nâng niu trân trọng.Bên cạnh đó,Nguyễn Trãi khi về ở ẩn trong môi trường thiên nhiên,hoàn toàn không giao tiếp với thế giới bên ngoài,với xã hội-con người:
Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn
Khách tục không ai bén mảng gần
(Mộ xuân tức sự)
Có thể nói các nhà nho trước Nguyễn Khuyến khi chọn lối xuất xử ẩn dật đều tách mình ta khỏi cuộc sống xã hội để trốn hoàn toàn vào cảnh vật thiên nhiên. ở đó cái Tôi của họ thực sự xác lập được một mối quan hệ thân thiết rất mực cảm động với thiên nhiên chứ không thuần tuý chỉ mượn cuộc sống thiên nhiên để nói lên thái độ quay lưng với thành thị,tức là danh lợi,họ thực sự đã nhập được cái Tâm đó vào cảnh sắc thiên nhiên.
Tuy nhiên,Nguyễn Khuyến mặc dù cũng chọn lối hành-tàng ấy,tìm đến thiên nhiên để ẩn mình nhưng thiên nhiên trong thơ ở ẩn của ông vẫn mang đậm tâm trạng thế sự.Năm 1884,Nguyễn Khuyến cáo quan về ở ẩn ,tư tưởng của ông từ đó khá phức tạp,có nhiều biến động mạnh mẽ,tạo nên những nét mới mẻ , đột xuất so với truyền thống trong sáng tác văn học của ông.Thơ thiên nhiên ẩn dật của Nguyễn Khuyến bộc lộ một cái Tôi mới mà ở đó luôn day dứt nỗi buồn triền miên,trở đi trở lại.Nguyễn Trãi,Nguyễn Bỉnh Khiêm,Lê Hữu Trác..khi ở ẩn cũng không tránh được tâm trạng đau buồn và cô độc,song họ không bao giờ hoang mang dao động.Với Nguyễn Khuyến,về ở ẩn mà mọi sự đời,mọi âm thanh của cuộc sống thế tục hàng ngày vẫn vang dội vào thơ ông. Đọc thơ ông tả thiên nhiên mà vẫn thấy thấp thoáng sự đời,nỗi đau đời:
Độc dương hàn tuế thuỳ vi ngẫu
Bắt lạc phương tâm chân khả ai
(Chọi rét một thân ai là bạn
Chẳng lạt lòng son thật đáng thương)
(Vịnh cúc)
Đây là bài thơ “Vịnh cúc” nhưng hình ảnh thiên nhiên ấy chỉ là cái vỏ chứa đựng nỗi buồn vì cảnh “độc hành kì đạo, độc thiện kì nhân” của một người đi ngược dòng.Nguyễn Khuyến không hoàn toàn hoà mình vào môi trường thiên nhiên để hưởng cái thanh tịnh của tâm hồn mà chỉ mượn hình ảnh thiên nhiên để nói sự đời,bộc lộ cái dao động của tâm hồn người.Thiên nhiên trong thơ ông không đơn thuần là thiên nhiên mà còn là cảnh đời:
Tháng tư chơm chớm đã oi nồng
Chim hót lùm xanh tiếng lảnh trong
Con gái chăn tằm lo gió máy
Người già phơi thóc chạy cơn giông
Ruộng lầy tham buổi người về muộn
Vầng nhật rèm mây ánh vẫn hồng
(Hạ nhật vãn điếu)
Đây là cảnh đặc trưng của tháng tư.Là thơ viết về thiên nhiên ,những chuyển biến của thiên nhiên theo qui luật thời gian (tháng tư) nhưng xen vào đó có cảnh sinh hoạt của con người .Trong sự ẩn dật của mình,Nguyễn Khuyến đã nối một sợi dây giữa thiên nhiên và cuộc sống -một cách đặc sắc so với thiên nhiên của các nhà nho ẩn dật trước kia.Thậm chí ,thơ thiên nhiên của Nguyễn Khuyến khi ở ẩn chấp nhận cả những nỗi lo rất đời:
Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ
ấy hồn Thục đế thác bao giờ
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó
Giọng khách giang hồ dạ ngẩn ngơ…
(Cuốc kêu cảm hứng)
Sống giữa thiên nhiên mà Nguyễn Khuyến vẫn không đạt đến được cái tâm thanh thản,tiếng cuốc kêu cũng gợi cho ông tâm sự thế tục,lo nước lo đời.Thơ thiên nhiên của Nguyễn Khuyến không hoàn toàn mang tâm thế ẩn dật còn ở chỗ,nó có khi không phải là cảnh đẹp,cảnh thiên nhiên thanh tĩnh mà là cảnh của những âu lo khi chứng kiến:
Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách
Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà
Hay: Tiếng sao vo ve chiều nước vọng
Chiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi
Những câu thơ đã thoát khỏi cái vỏ thiên nhiên bề ngoài của nó để đến gần với cuộc đời thực,bộc lộ cái nỗi lo của cuộc sống con người.Có thể thấy,việc ở ẩn của Nguyễn Khuyến không đơn thuần là lánh đời mà có lẽ đúng hơn, đó là lánh cuộc sống chốn quan trường ,chốn thành thị để về với cuộc sống nông thôn bình dị.Chính sự lựa chọn xuất xử của Nguyễn Khuyến đã giúp ông trở thành “ Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”. Đồng thời sự lựa chọn đó cũng đem lại trong thơ thiên nhiên của ông một cái Tôi khác lạ.Thiên nhiên ở đó không còn là không gian thanh tĩnh ,xa lánh vật dục,xa lánh chốn thị thành bon chen danh lợi như không gian trong thơ nhà nho truyền thống nữa.Không đứng ở bên ngoài hay bên trên,cụ Tam Nguyên Yên Đổ đã là người có mặt thật sự hiện diện thường trực trong cuộc sống hàng ngày ấy, đắm mình trong không khí ấy. Đó là một sự hoán chuyển ngấm ngầm mối quan hệ chủ thể và khách thể,có tác dụng bổ sung hoặc hoàn chỉnh quan niệm thẩm mỹ của tác giả-một cái Tôi mới mẻ.Sự khác biệt này của Nguyễn Khuyến có lẽ là do hoàn cảnh riêng của ông.Rút về ở ẩn,nếu chỉ riêng có một việc giữ gìn nhân cách,phẩm giá nhà nho( “độc hành kì đạo”, “độc thiên kì thân”) thì ông có quyền yên lành với khí tiết của mình.Nhưng kẻ thù xâm lược còn đó ,non sông đất nước bị giày xéo còn đó thì lời kêu gọi của phận sự nhà nho hữu trách không ngớt dằn vặt lương tâm ông.
Khi lựa chọn lối xuất xử về ở ẩn,Nguyễn Khuyến không chỉ về với thiên nhiên( mặc dù cái Tâm không thực sự hoà vào thiên nhiên)mà còn về với nông thôn,với cuộc sống bình dị của người nông dân.Các nhà nho ở ẩn đã từng sống khá lâu ở nông thôn lại không quan tâm đến mảng đề tài về cuộc sống văn hoá đời thường của quê nghèo.Từ Nguyễn Trãi,Nguyễn Bỉnh Khiêm tới Nguyễn Du,Nguyễn Công Trứ,Cao Bá Quát đều không bắt gặp mảng để tài này.Trái lại, đến Nguyễn Khuyến,lần đầu tiên trong lịch sử Nho giáo Việt Nam,việc ẩn dật không còn thuần tuý là cách bảo vệ lý tưởng ,cách hành đạo nữa .Với Nguyễn Khuyến , ở ẩn là từ bỏ tư thế của nhà nho để làm người dân thường.Việc làm này đã đem đến sắc thái mới mẻ cho thơ ông.Trong thơ Nguyễn Khuyến khi đã lui về Yên Đổ ,ta bắt gặp những cảnh sinh hoạt rất đời thường ở miền quê Việt Nam: Đó là cảnh đầm ấm khi nhà thơ tới thăm gian nhà lá mới dựng của ông hương sinh họ Nguyễn:
Cháu trai đứng sán lấy ông
Xóm giềng thấy khách, cửa thông sang chào
(Hạ nhật thư hương sinh Nguyễn Thị Trang)
Cảnh sống ở đồng quê bình dị mà đầm ấm ,vui vẻ-cái cuộc đời ấy đi vào thơ Nguyễn Khuyến thực mà vô cùng sinh động:
ình ịch đêm qua trống cái làng
Ai ai mà chẳng rước xuân sang
Ngoài lũ nhấp nhô còn cụ Tổng
Cánh áo lẹt đẹt pháo thầy Nhang
Đó là cảnh Tết rất nông thôn mà cũng rất Việt Nam, hiếm thấy trong thơ nhà nho ẩn dật trung đại. Đặc biệt,trong thơ ẩn dật của Nguyễn Khuyến,mùa hè xuất hiện với một tần số đáng kể,không kém gì mùa thu. Đó là một biểu hiện cho thấy Nguyễn Khuyến đã phần nào thoát đựơc áp lực của cảm thức thụ cảm thế giới của nhà nho để hướng tới cái thực tại của thế giới quanh mình. Đặc biệt,những vần thơ mùa hè của Nguyễn Khuyến cũng rất đặc biệt:
Trâu già gốc bụi phì hơi nắng
Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người
Đây là cảnh một mùa hè rất sinh động ,rất thực và mang đậm chất thôn quê. Không chỉ miêu tả rất đúng cái khung cảnh cuộc sống ở thôn quê mà Nguyễn Khuyến còn thực sự hoà mình vào cuộc sống ấy. Đây là cảnh ông cùng các bạn đồng tuế lên lão năm mươi:
Anh em làng xóm xin mời cả
Giò bánh trâu heo cũng gọi là
Chú Đào bên làng lên với tớ
Ông Từ ngõ chợ lại cùng ta
(Lên lão)
ở ẩn với Nguyễn Khuyến không chỉ còn là sống với thiên nhiên,tách mình ra khỏi đời sống con người nữa mà nó chỉ là tránh chốn quan trường để hoà mình vào cuộc sống dân dã nhất nơi thôn quê. Ông vui vẻ tặng thơ cho ông lão hàng thịt nhân dịp ông lão thọ bảy mươi. Ông viết thơ về những cảnh đời thường,thậm chí tầm thường như cảnh bà chửi tục,nỗi lòng bác trai goá vợ:
Lưng trời gió vút diều ngân vẳng
Khắp trốn cành cao chim ríu ran
ấm xóm,gái già văng chửi tục
Rộn lòng,trai goá ngủ không an.
(Sơ hạ)
Sống với người dân, Nguyễn Khuyến chia sẻ với họ cả những lo toan khốn khó và cùng họ ước mơ một cách giản dị:
Năm nay cày cấy vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm,mùa mất mùa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vhoc11.doc