LỜI NÓI ĐẦU 1
PHẦN 1 - NGUỒN VỐN KINH DOANH CỦA NHTM 2
I- HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ CHO VAY LÀ CHỨC NĂNG CƠ BẢN - CỦA NHTM 2
II-/ NGUỒN VỐN KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
1-/ Khái niệm về vốn của ngân hàng thương mại: 3
2-/ Kết cấu nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng thương mại. 3
2.1- Vốn tự có 4
2.2 - Vốn huy động. 5
2.3 - Vốn đi vay. 8
2.4 - Vốn tiếp nhận: 8
2.5 - Các loại vốn khác. 8
PHẦN II - CÁC GIẢI PHÁP TẠO LẬP NGUỒN VỐN KINH DOANH CỦA NHTM Ở VIỆT NAM 9
I-/ TẠO LẬP VỐN TỰ CÓ. 9
II-/ TẠO LẬP VỐN QUA HUY ĐỘNG TIỀN GỬI. 10
1-/ Tiền gửi không kỳ hạn. 10
2-/ Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm. 12
III-/ TẠO LẬP VỐN QUA ĐI VAY. 16
1-/ Vay của Ngân hàng Trung ương. 16
2-/ Vay trên thị trường qua phát hành các chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu. 17
3-/ Vay từ các tổ chức tín dụng khác. 18
4-/ Vay nước ngoài. 19
IV-/ CÁC HÌNH THỨC TẠO LẬP VỐN KINH DOANH KHÁC. 20
1-/ Nâng cao hiệu quả nghiệp vụ bảo lãnh vay vốn nước ngoài. 20
2-/ Khai thác nguồn vốn từ những người Việt Nam đang làm ăn sinh số ở nước ngoài. 20
3-/ Huy động vàng trong dân cư. 21
PHẦN III - CÂN ĐỐI VIỆC TẠO LẬP VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN KINH DOANH CỦA NHTM Ở VIỆT NAM 22
LỜI KẾT LUẬN 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO 24
MỤC LỤC 25
25 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1309 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cân đối việc tạo lập và sử dụng nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhưng người gửi tiền mặt vào tài khoản này sẽ nhận được một báo cáo chi tiết về tình hình phát sinh của giá trị tài sản trong tài khoản của mình: những số tiền đã rút, hay gửi thêm vào (nếu có), lãi suất phát sinh trong tháng, tồn khoản nào cuối kỳ người gửi có thể rút tiền hoặc gửi thêm vào bằng bưu điện.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là các khoản tiền gửi tài khoản có sự thỏa thuận về thời hạn gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
2.2.3 - Các nguồn vốn huy động khác.
Bên cạnh việc nhận tiền gửi, NHTM còn huy động vốn bằng cách phát hành các chứng từ có giá đó là chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu. Trong đó chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn hạn với mệnh giá quy định; Trái phiếu là loại phiếu nợ trung và dài hạn. Hai loại phiếu nợ trên được NHTM phát hành từng đợt, tùy theo mục đích phát hành và phải có sự chấp thuận của Ngân hàng Trung ương hoặc Hội đồng chứng khoán Quốc gia.
Thường thì đối với nghiệp vụ này, NHTM phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi huy động do đó NHTM chỉ tiến hành nghiệp vụ này khi thiếu vốn mà vốn tự có và vốn tiền gửi huy động không đủ. Sau một thời gian nhất định, khi đã huy động đủ vốn theo dự kiến, NHTM sẽ ngừng hoạt động của nghiệp vụ này.
Kết luận: Vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của NHTM và giữ vị trí vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Tuy nhiên việc huy động loại vốn này đòi hỏi các ngân hàng phải tuân thủ những quy định về mức huy động vốn của mỗi nước. ở nước ta theo luật định thì vốn huy động tối đa chỉ bằng 20 lần vốn tự có và bắt buộc NHTM phải dự trữ tại Ngân hàng Trung ương một tỷ lệ nhất định để đảm bảo an toàn tiền gửi cho khách hàng. Sử dụng tốt vốn huy động cũng chính là tạo ra uy tín ngày càng cao cho Ngân hàng và mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
2.3 - Vốn đi vay.
Vốn đi vay bao gồm vay của Ngân hàng Nhà nước, vay ngân hàng nước ngoài vay các tổ chức tín dụng, vay trên thị trường qua phát hành chứng thư tiền gửi, hoặc vay trên thị trường liên ngân hàng, vay nước ngoài.
Thường thì NHTM đi vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình khi đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn thiếu vốn. đối với loại vốn này, NHTM phải có trách nhiệm sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả kinh tế, đem lại lợi nhuận và hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi.
2.4 - Vốn tiếp nhận:
Bao gồm vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển vốn ủy thác đầu tư, để cho vay theo các chương trình, dự án xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước hoặc trợ giúp cho đầu tư phát triển những chương trình dự án có mục tiêu riêng. Tuy nhiên để có thể nhận được nguồn vốn này đòi hỏi NHTM phải có những điều kiện nhất định, đảm bảo cho hiệu quả quá trình tiếp nhận và sử dụng nó.
2.5 - Các loại vốn khác.
Được hình thành trong quá trình hoạt động nghiệp vụ của NHTM.
Trong quá trình làm trung gian thanh toán NHTM tạo ra vốn trong thanh toán gồm vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản séc thanh toán và các khoản tài sản phong tỏa khi chấp nhận các hối phiếu thương mại.
Thông qua nghiệp vụ đại lý, NHTM cũng tạo ra một lượng vốn đáng kể, và sử dụng tạm thời các khoản đó để hoạt động kinh doanh.
Kết luận:
Như vậy vốn chính là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh, là nhân tố quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng. Bên cạnh đó, vốn còn quyết định năng lực thanh toán, năng lực cạnh tranh và đảm bảo uy tín của NHTM.
phần ii
các giải pháp tạo lập nguồn vốn kinh doanh của NHTM ở Việt Nam
Người ta nói rằng Ngân hàng là ngành kinh doanh vốn, đi vay để cho vay. Thế nhưng trong thời gian qua do nhiều nguyên nhân khác nhau đã làm cho đầu ra chưa thông suốt, ngân hàng sử dụng không hết nguồn vốn trong khi các nhà sản xuất kinh doanh lại thiếu vốn, cục bộ ở thành thị thừa vốn trong khi khu vực nông thôn lại thiếu vốn. Việc sử dụng vốn cung ứng tín dụng đang là vấn đề thời sự được dư luận quan tâm, Ngân hàng Nhà nước đã liên tục hạ trần lãi suất cho vay và sửa đổi bổ sung thể lệ tín dụng để giải quyết đầu ra, kịp thời cung ứng cho sản xuất kinh doanh. Nhưng vấn đề là ở chỗ phải huy động được vốn mới có vốn để cho vay, đầu ra thông suốt thì phải lo đến nguồn vốn đầu vào. Thiết nghĩ cần quan tâm đến vấn đề tạo lập nguồn vốn của ngân hàng.
I-/ Tạo lập vốn tự có.
Chúng ta có thể thấy rằng không chỉ riêng đối với các NHTM mà ở tất cả các tổ chức tín dụng hoạt động trong nền kinh tế, vốn tự có là yếu tố không thể thiếu được khi khởi đầu thành lập, nó được coi như tài sản bảo đảm lòng tin của khách hàng đối với Ngân hàng, nó duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp Ngân hàng gặp thua lỗ.
Tuy nhiên một điều lo ngại hiện nay ở nước ta là các NHTM có mức vốn tự có thấp hơn rất nhiều so với những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường đang trong thời kỳ phát triển. Vốn Nhà nước cấp ban đầu thấp, do đó khống chế tỷ lệ huy động vốn, tỷ lệ đầu tư của các ngân hàng do đó xu hướng hiện nay ở các NHTM là phải chủ động tìm nguồn vốn trong dân cư chứ không chờ dựa vào vốn cấp của Nhà nước. Bên cạnh đó, các Ngân hàng tư nhân, Ngân hàng cổ phần cũng cần tạo lập nhiều hơn vốn tự có của mình để mở rộng khả năng huy động vốn trong điều kiện và khả năng có thể. Thiết nghĩ NHTM cần áp dụng tốt những giải pháp như:
+ Huy động vốn cổ phần từ cán bộ công nhân viên của ngân hàng mình, làm cho họ trở thành những cổ đông của ngân hàng và gắn chặt quyền lợi với quyền lợi chung của Ngân hàng. Đối với hình thức này nên có những biện pháp khuyến khích đưa ra những khen thưởng vật chất.
Đây là hình thức tạo lập mang tính lâu dài, ổn định và cần được chú trọng.
+ Bổ sung từ các qũy dự phòng tài chính, qũy trợ cấp, qũy khen thưởng và các loại qũy khác.
+ Tăng cường liên doanh, liên kết với các tổ chức, các NHTM nước ngoài để tranh thủ các nguồn vốn góp bằng ngoại tệ. Phát hành kỳ phiếu dài hạn, trái phiếu chuyển đổi.
+ Thực hiện tiết kiệm trong hoạt động quản lý, tổ chức của nội bộ ngân hàng để tránh những khâu lãng phí, thất thoát nguồn vốn, giành những khoản lãng phí không cần thiết đó bổ sung thêm vốn tự có.
+ Đối với NHTM quốc doanh, nên tiến hành cổ phần hóa một số để tạo khả năng huy động tối đa vào vốn của ngân hàng. Ngày nay trên bước đường mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại, vai trò của vốn tự có đối với các NHTM càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết, bởi tỷ lệ vốn tự có và coi như tự có trên tổng tài sản. Có sinh lời chính là một tiêu thức quan trọng trong việc nhận xét, đánh giá về khả năng của mỗi NHTM để hội tụ đầy đủ những điều kiện khi tham gia vào lĩnh vực kinh doanh đối ngoại của ngành ngân hàng.
II-/ Tạo lập vốn qua huy động tiền gửi.
1-/ Tiền gửi không kỳ hạn.
Nhìn chung, trước thập niên 70 của thế kỷ XX, tiền gửi không kỳ hạn của nhân dân là bộ phận lớn nhất trong tài sản nợ của các NHTM ở các nước. Tuy nhiên cho đến những năm 80 và 90 của thế kỷ XX, mặc dù với việc cải tiến hệ thống quản lý bằng vi tính, các ngân hàng dễ dàng, vào bất cứ lúc nào chuyển các khoản gởi từ tài khoản tiết kiệm hoặc tài khoản có kỳ hạn sang tài khoản không kỳ hạn cho nhân dân sử dụng séc một cách tự động nhưng các khoản gửi không kỳ hạn vẫn chiếm một phần lớn trong tài sản của các ngân hàng.
Có rất nhiều nguyên do giải thích về hiện tượng đó. Trước đây một người có tiền gửi không kỳ hạn để sử dụng séc chi tiêu cho một việc nào đó, anh ta phải đến ngân hàng làm thủ tục. Nếu tiền gửi của anh ta đến hạn, chuyện này sẽ không làm anh ta tốn kém mà chỉ mất công đến ngân hàng. Nhưng trong trường hợp tiền gửi của anh ta chưa đến hạn, tình hình sẽ khác đi, anh ta vừa mất công, vừa phải chịu mất ít lãi suất phạt và bị khấu trừ vào lãi suất được hưởng vì đã chuyển tiền trước thời hạn quy định. Sự phức tạp của vấn đề đã làm cho nhiều người nghĩ rằng nên lưu giữ một ít tiền thường xuyên mong tài khoản séc cho tiện. Điều đó góp phần làm cho các khoản gửi không kỳ hạn trở nên nhiều hơn. Nhưng sau đó nó lại bị phần nào sút giảm về số lượng bởi nguyên nhân là cuối thập niên 70 của thế kỷ XX, một ngân hàng tiết kiệm ở Hoa Kỳ đã có một sáng kiến. Ngân hàng này đã đưa ra một loại tài khoản gửi mới, tài khoản Now (Negotiated order of withdraw) - một loại tài khoản tiết kiệm đặc biệt. Nó cho phép người gửi tiền được rút ra hoặc chuyển tiền bất cứ lúc nào mà không bị phạt lãi suất và tài khoản này đã nhanh chóng được phổ biến ở Châu Âu. Và gần hơn (trong thập niên 80 của thế kỷ XX ở nhiều nước công nghiệp trên thế giới. Sự hiện đại hóa hoạt động quản lý tài sản với các loại hệ thống thanh toán tự động như ATM, EBT đã cho ra đời hàng loạt các tiền hiện đại như card ATM, VISA, Master, Traveler’s check. Bản thân các loại tiền này là loại hình của séc nhưng với đặc tính đa dạng là có khả năng tự động chuyển những khoản tiền gửi từ tài khoản tiết kiệm ra thành tiền séc hoặc tiền mặt bất cứ lúc nào.
Tuy nhiên, theo đánh giá của các nhà kinh tế Châu Âu, tài khoản Now chỉ thích hợp với những giao dịch nhỏ dành cho các cá nhân, hộ gia đình, công nhân viên chức và các đơn vị kinh doanh nhỏ... Nhưng với những giao dịch lớn thanh toán cho nhau với khoản tiền lớn thì việc chuyển tiền tiết kiệm ra một cách tự động sẽ gây ảnh hưởng lớn đối với khả năng dự trữ và chi trả của Ngân hàng. Mặt khác do hiệu lực thanh toán của séc không kém gì tiền mặt (ở các nước phát triển), cùng với nhu cầu sử dụng tiền làm phương tiện thanh toán ngày càng phát triển trong khi ở nhiều nước các loại tiền hiện đại như card vẫn chưa ra đời, và đòi hỏi đầu tư lớn thì nguồn tiền gửi không kỳ hạn vẫn tỏ ra vô cùng cần thiết, đặc biệt là các giao dịch lớn trong nền kinh tế. Đó là lý do vì sao cho đến những năm cuối của thế kỷ XX, thanh toán séc qua tài khoản tiền gửi không kỳ hạn ở Hoa Kỳ vẫn đạt 15 đến 20% tổng tài sản nợ của các ngân hàng trung gian.
Hiện nay ở Việt Nam, các khoản tiền gửi loại này huy động chủ yếu từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân, tuy nhiên số lượng vẫn còn thấp. Bởi lẽ tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam còn quá thấp, lãi suất trả không đáng kể. Do đó, để tạo lập tốt nguồn tiền gửi này trong thời gian tới các NHTM ở Việt Nam cần tăng cường hơn nữa những hình thức huy động mới có hiệu quả.
+ Việc trước mắt là cần cho phép các cá nhân mở tài khoản thanh toán bằng séc tại ngân hàng nhằm thu hút các giao dịch qua hệ thống ngân hàng thay cho các giao dịch bằng tiền mặt trong nền kinh tế. Đối với ngân hàng, một khi dân cư được phép sử dụng rộng rãi tài khoản tiền gửi không kỳ hạn dùng séc thì một đồng tiền gửi không kỳ hạn tại một NHTM gia tăng sẽ làm tổng số tiền gửi không kỳ hạn trong toàn bộ hệ thống NHTM sẽ tăng thêm gấp bội, có thể từ bốn, năm đến mười lần số tiền gửi ban đầu, tùy theo dự trữ bắt buộc do ngân hàng Nhà nước ấn định và ngược lại. Chính vì vậy đây là giải pháp tốt để tăng cường nguồn tài nguyên của ngân hàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và của dân cư. Để làm tốt điều này đòi hỏi các NHTM phải mở rộng mạng lưới hoạt động, tạo điều kiện cho séc được thanh toán ở mọi nơi, mọi lúc thuận tiện, giúp cho khách hàng thấy được sự hạn chế yếu tố cồng kềnh và thủ tục đếm tốn kém thời gian của việc thanh toán bằng tiền mặt.
+ Việc tăng lãi suất đối với loại tiền gửi này là cần thiết song rất dễ dẫn đến cạnh tranh lại suất giữa các ngân hàng nên cần xem xét thận trong và tuân theo quy định của ngân hàng Nhà nước.
+ Khuyến khích các đơn vị thực hiện các hình thức chi trả lương thưởng cho công nhân viên qua các tài khoản cá nhân mở tại ngân hàng.
+ Phát triển công nghệ thanh toán bằng thẻ tín dụng, thẻ thanh toán đầu tư hơn nữa vào mạng máy rút tiền tự động ATM đặt tại những nơi đông dân cư và các trung tâm thương mại.
+ Đối với các NHTM có quy mô lớn và tạo được uy tín trên thị trường thì cần đặc biệt coi trọng các hình thức hỗ trợ (như quảng cáo, mở rộng các dịch vụ cung ứng, các mối liên hệ hợp tác trong nước, nước ngoài, tăng thêm những tiện ích cho sản phẩm của mình). Làm tốt điều này, ngân hàng cũng có thể huy động được vốn mà thậm chí không phải trả lãi cho nó. Bởi lẽ mục đích chính của loại tiền gửi này là để thanh toán chứ không phải là để lấy lãi nên người gửi thường có xu hướng tìm đến ngân hàng lớn, có uy tín để an toàn tiền gửi của mình. Về phía ngân hàng, thực chất chỉ phải bỏ ra những chi phí về mặt quản lý tài khoản hoặc trả lãi (nếu có).
2-/ Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm.
Đây là hai loại tiền gửi ổn định và có vai trò chính trong hoạt động cho vay của các NHTM. Ngay cả ở Mỹ, khi mà tiền gửi không kỳ hạn rất phát triển nhưng hai loại tiền gửi này vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng phương tiện thanh toán. Ví dụ như năm 1996 ở Mỹ chỉ có 317 tỷ USD là tiền mặt trong tay nhân dân được sử dụng để thanh toán, trong khi có tới 811 tỷ là séc và 2559,8 tỷ là tiền dưới dạng tiền gửi có kỳ hạn.
Lãi suất mà NHTM trả cho tiền gửi có kỳ hạn thường cao hơn nhiều so với tiền gửi không kỳ hạn, lý do ở đây là với khoản vay ổn định này, ngân hàng sẽ kiếm được nhiều lợi nhuận hơn do đó ngân hàng cũng sẽ trả lãi cao hơn để kích thích khách hàng đến gửi.
Tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cố định nhưng các loại tiền gửi có kỳ hạn khác nhau sẽ được trả theo những lãi suất khác nhau. Theo những đánh giá của các nhà kinh tế tại Hoa Kỳ và năm gần đây thì lãi suất tiền gửi có kỳ hạn chỉ ổn định với những loại dài hạn, và không ổn định đối với những loại ngắn hạn, bởi tiền gửi ngắn hạn quá không khác nhiều so với tiền gửi không kỳ hạn, do đó khả năng thanh tiêu của nó cũng rất cao.
ở Việt Nam, các khoản tiền gửi này vẫn chủ yếu là các loại ngắn hạn (với thời gian 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng và 1 năm) thường tập trung cho vay đối với các nhà đầu tư vừa và nhỏ. Hình thức huy động tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi (kỳ phiếu ngân hàng có mục đích) với các thời hạn 3 tháng, 6 tháng - được sử dụng trong vài năm gần đây đã và đang phát huy vai trò trong việc tạo vốn của NHTM.
Song cùng với việc đó, trong thời gian tới NHTM có những giải pháp để tăng cường các nghiệp vụ huy động có trước đây đồng thời đưa ra những giải pháp tạo kịp những nguồn tiền gửi có kỳ hạn như:
+ Huy động từ các qũy dự phòng, dự trữ, qũy khen thưởng, phúc lợi của các đơn vị, tổ chức, từ các tổ chức bảo hiểm trong xã hội.
+ Điều chỉnh lại lãi suất cho phù hợp, không nên để tình trạng mâu thuẫn giữa một bên là lãi suất thấp thuận lợi cho người đi vay để sản xuất kinh doanh và một bên là người có tiền sẽ không muốn gửi tiền vào ngân hàng với lãi suất thấp nhất là trong tình trạng đồng tiền gửi bị mất giá. Điều đó có nghĩa là mức lãi suất đối với các chứng chỉ tiền gửi có thể cố định hoặc linh hoạt tùy theo sự lựa chọn của khách hàng.
+ Đa dạng thêm các chứng chỉ tiền gửi nhằm đáp ứng sự cạnh tranh trong huy động vốn của các NHTM. Như vậy ngân hàng có thể thu hút vốn từ các nhà đầu tư lớn, mà lẽ ra các nhà đầu tư này đã có thể dùng vốn đầu tư vào các trái phiếu kho bạc hay vào thị trường tiền tệ. Các chứng chỉ này thường được các công ty, các qũy hưu trí và các tổ chức chính quyền đầu tư với khối lượng lớn, được giao dịch trên thị trường chứng khoán thứ cấp trước hạn định thanh toán. Do đó, theo như trong thời gian tới đối với các NHTM ở Việt Nam thì đây sẽ là một giải pháp có hiệu quả trong việc tạo lập nguồn vốn.
+ Tạo điều kiện cho khách hàng có thể gửi thêm tiền trước hạn. Tuy nhiên cần tránh tình trạng gửi “vạn vật” sẽ gây tốn kém trong quá trình quản lý vốn, ảnh hưởng đến kế hoạch của ngân hàng.
* Cùng với tiền gửi có kỳ hạn thì các khoản gửi tiết kiệm cũng là hình thức huy động kinh điển của các NHTM ở Việt Nam nhưng đa phần là loại tiết kiệm có kỳ hạn. Thế nhưng, tiền gửi tiết kiệm, có thể coi là nguồn vốn chủ lực của các ngân hàng đã huy động được so với sự phát triển kinh tế và tăng trưởng thu nhập quốc dân còn rất hạn chế. Thời gian qua lại bị ảnh hưởng bởi tín dụng biến động không thuận lợi nên có giảm sút. Nguồn tiết kiệm vẫn huy động từ các thành phần chủ yếu sống bằng lợi tức sinh ra từ tiền vốn. Tuy nhiên đây là loại vốn có sự cạnh tranh về lãi suất cao, đòi hỏi phí tổn cao trong huy động, nên chỉ có các tổ chức tín dụng chuyên doanh và kho bạc Nhà nước có nhu cầu vốn, tính toán đầu ra thông suốt, có hiệu quả kinh tế mới huy động. Còn các tổ chức tín dụng chính sách thì không thể sử dụng nguồn vốn này mà không được Ngân sách cấp bù lỗ.
Bên cạnh đó các dịch vụ tiết kiệm qua Bưu điện được triển khai từ năm 1998, cùng với mạng lưới rộng khắp với hơn 3000 bưu cục hoạt động trải khắp thành thị, nông thôn, miền núi hải đảo sẵn có bộ máy, nhân sự đầy đủ và thời gian làm việc gấp 2 lần so với các ngân hàng. Lợi thế của bưu điện là dịch vụ huy động đơn thuần không sử dụng vốn, không để dự trữ bắt buộc, không cho vay trực tiếp mà chuyển thẳng cho Bộ Tài chính xem xét đầu tư. Do đó việc tạo lập các khoản gửi tiết kiệm của các NHTM ở Việt Nam càng trở nên khó khăn hơn bao giờ hết, nhất là khi mà những ảnh hưởng của cơn khủng hoảng tài chính ở Châu á vẫn còn đang gây ra sự mất giá của đồng tiền Việt Nam.
Chính vì vậy, theo em một trong những giải pháp hiệu quả nhất của các NHTM Việt Nam trong thời gian tới là: cần phải mở rộng mạng lưới hoạt động của các qũy tín dụng từ thành thị đến nông thôn, tranh thủ những khoản tiền gửi nhỏ của người nghèo, tiền nhỏ thành lớn, cùng đi đôi với việc nâng cấp kỹ thuật ngân hàng đảm bảo nghiệp vụ gửi tiền một nơi rút tiền nhiều nơi.
+ Nên mở các tài khoản tương tự như tài khoản Now cho phép khách hàng được rút tiền trước thời hạn, tuy nhiên khách hàng sẽ phải chịu khấu trừ một phần lãi suất.
+ Tranh thủ các nguồn tiết kiệm, dài hạn bởi đây sẽ là nguồn vốn ổn định cho các chương trình cấp tín dụng dài hạn của ngân hàng.
+ Phải huy động các nguồn gửi tiết kiệm từ các qũy của các cơ quan của công ty, các tổ chức cá nhân khác trong xã hội một cách chủ động hơn. Các NHTM không nên chỉ ngồi chờ khách hàng đến gửi mà phải chủ động đến tận nơi, vận động tại chỗ: có thể tranh thủ giữa giờ giải lao, hoặc tốt nhất là ngay trong giờ hành chính của đơn vị để vận động và tìm kiếm sự hợp tác từ phía đơn vị; có thể liên lạc với khách hàng qua điện thoại và nhận tiền gửi cũng như nhận trả lãi tại nhà cho khách hàng, tạo ra ngày càng nhiều những tiện ích cho sản phẩm của mình.
+ Đi đôi với hình thức huy động, để cạnh tranh với ngành bưu điện, các NHTM cần phải ưu tiên sử dụng vốn (kể cả nguồn hỗ trợ nếu có) cho vay xóa đói giảm nghèo và đối tượng chính sách trên địa bàn huy động vốn để nhân dân thấy rõ được lợi ích thiết thực của cả hai mặt của nguồn gửi tiết kiệm vào ngân hàng.
+ Liên hệ với các đoàn thể tại các phường, xã, khu phố nơi địa bàn huy động để tìm kiếm, thu hút thêm các khoản gửi tiết kiệm. Ví dụ như Hội trồng vườn, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, hội người cao tuổi, đoàn thanh niên, hội chăm sóc bà mẹ, trẻ em v.v...
Tóm lại: tình hình huy động tiền gửi ở nước ta trong năm vừa qua vẫn ở mức thấp, trong khi các nguồn vốn nhàn rỗi tích lũy trong dân vẫn còn nhiều. Việc huy động được là một bài toán khó bởi lẽ gần đây tỷ giá giữa USD với đồng tiền Việt Nam ngày một tăng, đồng tiền trong nước bị mất giá (mà cũng một phần do chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung wong nhằm khuyến khích xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài). Do đó trong dân cư có không ít người có nguồn tiền nhàn rỗ nhưng không gửi vào ngân hàng mà lại mua vàng hoặc ngoại tệ mạnh để giành. Một số lớn mua ngoại tệ và gửi vào ngân hàng làm cho mức huy động vốn tiền gửi ngoại tệ của ngân hàng khá cao, tuy nhiên do sự mất giá của đồng tiền nội địa nên khách hàng không muốn vay bằng ngoại tệ vì sợ phải chịu lãi suất cao.
Gần đây nữa, do đầu ra chưa thông suốt nên một số ngân hàng chỉ huy động vốn theo nhu cầu sử dụng vốn, chữa cháy, ngắn ngày, có lúc không nhận tiền gửi tiết kiệm trên 6 tháng. Các NHTM chỉ sử dụng một phần vốn ngắn hạn cùng với vốn tự có để cho vay trung và dài hạn: do đó thị trường vốn dài hạn hầu như chưa được khai thác.
Lãi suất tín phiếu, trái phiếu kho bạc thường ổn định và cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng và thậm chí cao hơn cả lãi suất cho vay của các NHTM cũng là nguyên nhân cho các ngân hàng khó huy động được nguồn vốn.
Vậy thì để có vốn đầu tư phát triển trong giai đoạn hiện đại hóa công nghiệp hóa của đất nước, bên cạnh những giải pháp cụ thể trên thì đối với các loại tiền gửi nói chung, các NHTM cần có những giải pháp nhằm huy động được vốn có hiệu quả hơn, đó là: tổ chức trong ngân hàng phải thực sự lành mạnh, hoạt động bình ổn và chữ “tín” của ngân hàng rất quan trọng, tạo được lòng tin của nhân dân là điều kiện bảo hiểm vốn tiền gửi hữu hiệu. Thực hiện và triển khai tốt hai luật Ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng và các luật khác có quan hệ hữu cơ chính là tạo cơ sở pháp lý, bảo toàn cho hoạt động của ngân hàng, bảo đảm được nguồn vốn tiền gửi của dân.
+ Công tác huy động vốn phải tiến hành thường xuyên, không để xảy ra tình trạng có lúc thì từ chối nhận tiền gửi do thừa vốn tạm thời, nhưng đến lúc muốn vay thì lại không có, đặc biệt là tiền gửi dài hạn.
+ Khái niệm về tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, không nên quá cứng nhắc, mà phải vận dụng linh hoạt để vừa an toàn cho nguồn vốn của ngân hàng vừa thuận lợi cho người gửi tiền.
+ Cần cải cách mạnh mẽ và đồng bộ các thủ tục hiện hành, tạo hành lang thông thoáng cho dòng tiền gửi chảy vào ngân hàng, nhất là tiền gửi không kỳ hạn.
+ Cuối cùng là biện pháp an toàn vốn và bảo đảm giá trị đồng tiền cho người gửi. Bảo hiểm vốn tiền gửi là đúng nhưng nếu bảo hiểm trực tiếp trên vốn tiền gửi thì ngân hàng bị phải hạ lãi suất để có khoản chi cho phí bảo hiểm. Do đó ngân hàng cần tổ chức bảo hiểm các tài sản thế chấp nợ vay, bảo đảm giá trị tiền gửi trung và dài hạn bằng cách lập qũy bình ổn để bù đắp khi đồng tiền mất giá.
III-/ Tạo lập vốn qua đi vay.
1-/ Vay của Ngân hàng Trung ương.
Các NHTM đều được hưởng quyền vay tiền tại ngân hàng Trung ương trong những tình huống thiếu hụt dự trữ, hoặc quá kẹt tiền mặt thông qua cửa ngõ chiết khấu. Ngân hàng Trung ương sẽ cấp tín dụng cho NHTM qua hình thức chiếu khấu các thương phiếu của NHTM (hoặc tái chiết khấu nếu NHTM đã chiết khấu thương phiếu trước đó).
Một điều cho thấy, đặc biệt là ở những nước có nền kinh tế phát triển, cho dù Ngân hàng Trung ương áp dụng mức lãi suất chiết khấu hoặc lãi suất phạt cao hay thấp thế nào đi nữa nó vẫn phải cho các NHTM vay khi họ kẹt thanh toán để tránh những cơn khủng hoảng tài chính không đáng xảy ra và thực hiện tốt chức năng là “Người cho vay cuối cùng” đối với các NHTM.
Đừng về phía NHTM, vay tại Ngân hàng Trung ương là một dịch vụ hết sức tiện lợi vào những khi ngân hàng Trung ương hạ lãi suất chiết khấu trong chính sách cung ứng tiền nới lỏng để kích thích cho vay đầu tư.
Trường hợp không may diễn ra là khi NHTM đến vay giữa lúc NHTM không muốn khuyến khích sự bành trướng tín dụng, hoặc thậm chí nó đang thắt chặt cung ứng để chống lạm phát. Lúc đó lãi suất chiết khấu được đưa lên cao với những khoản lỗ trông thấy khi vay vốn của Ngân hàng Trung ương, các NHTM chỉ miễn cưỡng vay trong tình huống thắt chặt ngặt nghèo, và tìm mọi cách trả nợ rất nhanh. Khi đó các khoản vay này chỉ chiếm một phần rất ít trong tài sản nợ.
Tùy vào yêu cầu điều tiết của nền kinh tế mà Ngân hàng Trung ương có thể hạ hoặc nâng lãi suất chiết khấu. Song dù sao đây cũng là sân sau đối với hoạt động huy động vốn của các NHTM.
2-/ Vay trên thị trường qua phát hành các chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu.
ở Hoa Kỳ, các khoản vay ngắn hạn của các ngân hàng trung gian chiếm 10,12% tổng tài sản nợ và là khoản vốn thứ 3 trong các khoản vốn vay của ngân hàng. Điều đó cho thấy, nguồn vốn trên thị trường rất dồi dào.
Hiện nay trên thế giới, đặc biệt là ở Hoa Kỳ hình thức vay ngắn trên thị trường chủ yếu qua việc phát hành các chứng thư tiền gửi loại lớn, các hợp đồng mua lại RPS, hoặc vay bằng giấy nợ phụ...
Thực chất các chứng thư tiền gửi đó giống như tín phiếu do các ngân hàng trung gian ở Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh đã phát hành trong năm 1995. Nó là một loại phiếu nợ, phiếu vay tiền do ngân hàng phát ra, giống như séc chẳng hạn. Chỉ có điều nó có giá trị bề mặt được ghi đúng bằng số tiền mà khách hàng “cho vay” đối với ngân hàng, khách hàng sở hữu tín phiếu đó, được quyền thanh toán, chi tiêu (do ngân hàng chịu trách nhiệm) với số tiền đến mức tối đa như giá trị bề mặt của chứng thư, lãi suất của nó cũng rất hấp dẫn đối với khách hàng, bởi so với việc cất giữ tiền mặt hoặc tiền séc không sinh ra được đồng lãi nào, thì đối với loại chứng từ này nó vừa có khả năng mua bán nhất định vừa sinh lãi ra mỗi ngày.
RPS thực ra nó là hợp đồng mua bán chứng khoán giữa NHTM và các đối tượng kinh doanh chứng khoán. Các công ty tài chính, các tổ chức tín dụng, qũy tiết kiệm hưu trí, các công ty kinh doanh và môi giới chứng khoán để NHTM có thể vay của thị trường trong vài ngày, vài tuần nhằm bù đắp cho những thiếu hụt tạm thời, bất ngờ trong những thương vụ đầu tư đã ký kết hoặc do hụt dự trữ tại ngân hàng Trung ương. Tổ chức mua chứng khoán là người cho vay, NHTM phát hành chứng khoán là chủ thể đi vay. Ngân hàng không áp dụng hình thức này ra cho nhân dân bởi nếu bán cho nhân dân dưới hình thức phát hành không sau này mua lại rất khó và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0769.doc