Đề tài Cạnh tranh thuế trong thời kì hội nhập, toàn cầu hoá

 Theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế, việc nghiên cứu hoàn thiện hệ thống chính sách thuế phải nhằm thiết lập một hệ thống thuế công bằng và hiệu quả, có khả năng tài trợ nhu cầu chi cần thiết của tiêu công. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập vào kinh tế thế giới, thì chính sách thuế đóng vai trò nhạy cảm đặc biệt. Như vậy, hệ thống thuế cần:

(1) gia tăng đầy đủ nguồn thu để tài trợ nhu cầu chi tiêu cần thiết mà không phải viện đến sự vay mượn quá mức của khu vực công;

(2) gia tăng nguồn thu trong cách thức đảm bảo công bằng và giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động kinh tế;

(3) gia tăng nguồn thu trong cách thức không làm chệnh hướng đáng kể những thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế.

Với một nền đang chuyển đổi như VN, việc thiết lập một hệ thống thuế có hiệu quả và hiệu lực gặp phải không ít những khó khăn nhất định:

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1855 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cạnh tranh thuế trong thời kì hội nhập, toàn cầu hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lực chung (Common Effective Preferential Tariff), gọi tắt là CEPT. CEPT là một thoả thuận chung giữa các nước thành viên ASEAN về giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn từ 0-5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi quan thuế trong vòng 10 năm, bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003. ( Đây là thời hạn đã có sự đẩy nhanh hơn so với thời hạn ký Hiệp định ban đầu : từ 15 năm xuống còn 10 năm). Nói đến vấn đề xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN là nói tới việc thực hiện Hiệp định chung về thuế quan và phải hoàn thành 3 vấn đề chủ yếu, không tách rời dưới đây : - Thứ nhất là vấn đề giảm thuế quan : Mục tiêu cuối cùng của AFTA là giảm thuế quan xuống 0-5%, theo từng thời điểm đối với các nước cũ và các nước mới, nhưng thời hạn tối đa là trong vòng 10 năm. - Thứ hai là vấn đề loại bỏ hàng rào phi quan thuế (NTB) : hạn ngạch, cấp giấy phép, kiểm soát hành chính và hàng rào kỹ thuật : kiểm dịch, vệ sinh dịch tễ. - Thứ ba là hài hoà các thủ tục Hải quan . * Các Nội dung và Quy định cụ thể : Vấn đề về thuế quan: Các bước thực hiện như sau : Bước 1 :Các nước lập 4 loại Danh mục sản phẩm hàng hoá trong biểu thuế quan của mình để xác định các sản phẩm hàng hoá thuộc đối tượng thực hiện CEPT: - Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay ( Tiếng Anh viết tắt là IL). - Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế ( viết tắt là TEL). - Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm ( viết tắt là SEL) - Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn ( viết tắt là GEL) Trong 4 loại Danh mục nói trên thì : - Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn (GEL): là những sản phẩm không phải thực hiện các nghĩa vụ theo Hiệp định CEPT, tức là không phải cắt giảm thuế, loại bỏ hàng rào phi quan thuế. Các sản phẩm trong danh mục này phải là những sản phẩm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống, sức khoẻ con người, động thực vật, đến việc bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật, di tích lịch sử, khảo cổ...( theo điều 9B Hiệp định CEPT). - Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm và nhạy cảm cao (SEL): là những sản phẩm được thực hiện theo một lịch trình giảm thuế và thời hạn riêng, các nước ký một Nghị định thư xác định việc thức hiện cắt giảm thuế cho các sản phẩm này, cụ thể thời hạn bắt đầu cắt giảm là từ 1/1/2001 kết thúc 1/1/2010, mức thuế giảm xuống 0-5%, nghĩa là kéo dài thời hạn hơn các sản phẩm phải thực hiện nghĩa vụ theo CEPT. - Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay ( IL) và Danh mục sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL) : Là 2 Danh mục mà sản phẩm trong những Danh mục này phải thực hiện các nghĩa vụ CEPT, tức là phải cắt giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi quan thuế. Tuy nhiên tiến độ có khác nhau. Sản phẩm hàng hoá trong 2 Danh mục này là những sản phẩm công nghiệp chế tạo, nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm nông nghiệp... nghĩa là tất cả những sản phẩm hàng hoá được giao dịch thương mại bình thường trừ những sản phẩm hàng hoá được xác định trong 2 Danh mục SEL và GEL nêu trên. Bước 2 : Xây dựng lộ trình tổng thể cắt giảm thuế 10 năm ( toàn bộ thời gian thực hiện Hiệp định): Việc thực hiện Hiệp định chính là các nước thành viên phải xây dựng lộ trình tổng thể cho việc cắt giảm thuế đối với 2 Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay( IL) và Danh mục tạm thời chưa giảm thuế (TEL): Các nguyên tắc xây dựng lộ trình giảm thuế tổng thể như sau : a) Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay (Inclusion List - IL): Các sản phẩm nằm trong danh mục này được cắt giảm thuế quan ngay tại thời điểm bắt đầu thực hiện cho đến thời hạn kết thúc, tiến trình cắt giảm như sau : + Các sản phẩm có thuế suất trên 20% (> 20%) sẽ được giảm xuống 20% trong vòng 5 năm đầu và tiếp tục giảm xuống còn 0-5% trong 5 năm còn lại. Cụ thể : Các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống 20% vào 1/1/1998, và tiếp tục giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2003. + Các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% (=< 20%) sẽ được giảm xuống còn 0-5% trong vòng 7 năm đầu . Cụ thể : Các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2000. Các nước có quyền được quyết định mức cắt giảm nhưng tối thiểu mỗi năm 5 %, không được duy trì cùng thuế suất trong 3 năm liền, trong trường hợp thuế MFN thay đổi tại một thời điểm nào đó nếu cao hơn thuế suất CEPT tại thời điểm đó thì không được nâng thuế CEPT bằng mức thuế MFN đó; trường hợp thuế MFN thấp hơn thuế CEPT thì việc áp dụng phải tự động theo thuế suất MFN đó và phải điều chỉnh lịch trình. Không được nâng mức thuế CEPT của năm sau lên cao hơn năm trước. b) Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL): Để tạo thuận lợi cho các nước thành viên có một thời gian chuẩn bị và chuyển hướng đối với một số sản phẩm tương đối trọng yếu, Hiệp định CEPT cho phép các nước thành viên ASEAN được đưa ra một số sản phẩm tạm thời chưa thực hiện tiến trình cắt giảm thuế quan ngay theo CEPT. Tuy nhiên, Danh mục TEL này chỉ mang tính chất tạm thời, các sản phẩm trong Danh mục loại trừ tạm thời sẽ được chuyển toàn bộ sang Danh mục cắt giảm thuế(IL) ngay trong vòng 5 năm, kể từ năm thứ 4 thực hiện Hiệp định tức là từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, mỗi năm chuyển 20% số sản phẩm trong Danh mục TEL vào Danh mục IL. Lịch trình cắt giảm thuế của các sản phẩm chuyển từ Danh mục TEL sang Danh mục IL này như sau: - Đối với những sản phẩm có thuế suất trên 20%, phải giảm dần thuế suất xuống bằng 20% vào thời điểm năm 1998, trường hợp các sản phẩm được chuyển vào đúng hoặc sau thời điểm năm 1998 thì thuế suất lập tức phải bằng hoặc thấp hơn 20% , và tiếp tục giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2003 như lịch trình đối với sản phẩm trong Danh mục IL. - Đối với những sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% (=< 20%) sẽ được giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2003 Các quy định khác cũng tương tự như đối với Danh mục IL nói trên. Ngoài các quy định được nêu trên trong quá trình xây dựng và thực hiện, không được có sự thụt lùi về tiến độ, cũng như không được phép chuyển các mặt hàng từ Danh mục cắt giảm (IL) sang bất kỳ Danh mục nào, không được chuyển các mặt hàng từ Danh mục TEL sang Danh mục nhạy cảm (SEL) hay Danh mục Loại trừ hoàn toàn (GE) mà chỉ có sự chuyển từ Danh mục TEL sang Danh mục IL nói trên, hoặc chuyển từ Danh mục SEL, GE sang Danh mục TEL hoặc IL. Nếu vi phạm thì nước thành viên phải đàm phán lại với các nước khác và phải có nhân nhượng bồi thường. Bước 3 : Ban hành văn bản pháp lý xác định hiệu lực thực hiện việc cắt giảm thuế hàng năm : Trên cơ sở Lịch trình cắt giảm tổng thể thuế nêu trên, hàng năm các nước thành viên phải ban hành văn bản pháp lý để công bố hiệu lực thi hành thuế suất CEPT của năm đó. Văn bản này phải được gửi cho Ban Thư ký ASEAN để thông báo cho các nước thành viên. Vấn đề loại bỏ các hạn chế định lượng (QRs) và các rào cản phi thuế quan khác (NTBs) Để thiết lập được khu vực mậu dịch tự do, việc cắt giảm thuế quan cần phải được tiến hành đồng thời với việc loại bỏ các hàng rào phi thuế quan. Các hàng rào phi thuế quan bao gồm các hạn chế về số lượng (như hạn ngạch, giấy phép,...) và các hàng rào phi thuế quan khác (như các khoản phụ thu, các quy định về tiêu chuẩn chất lượng,...) Các hạn chế về số lượng có thể được xác định một cách dễ dàng và do đó, được quy định loại bỏ ngay đối với các mặt hàng trong Chương trình CEPT được hưởng nhượng bộ từ các nước thành viên khác. Tuy nhiên, đối với các rào cản phi thuế quan khác, việc xác định và loại bỏ phức tạp hơn rất nhiều. Hiệp định CEPT quy định về vấn đề này như sau: - Các nước thành viên sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với các sản phẩm trong CEPT trên cơ sở hưởng ưu đãi áp dụng cho sản phẩm đó; cụ thể: những mặt hàng đã được đưa vào Danh mục cắt giảm ngay (IL) sẽ phải bỏ các hạn chế về số lượng. - Các hàng rào phi quan thuế khác sẽ được xoá bỏ dần dần trong vòng 5 năm sau khi sản phẩm được hưởng ưu đãi; - Các hạn chế ngoại hối mà các nước đang áp dụng sẽ được ưu tiên đặc biệt đối với các sản phẩm thuộc CEPT; - Tiến tới thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, công khai chính sách và thừa nhận các chứng nhận chất lượng của nhau; - Trong trường hợp khẩn cấp (số lượng hàng nhập khẩu gia tăng đột ngột gây phương hại đến sản xuất trong nước hoặc đe doạ cán cân thanh toán), các nước có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để hạn chế hoặc dừng việc nhập khẩu. Vấn đề hợp tác trong lĩnh vực hải quan: Thống nhất biểu thuế quan: Để tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp sản xuất và xuất nhập khẩu ASEAN tiến hành việc buôn bán trong nội bộ Khu vực được dễ dàng và thuận lợi, cũng như các cơ quan Hải quan ASEAN dễ dàng trong việc xác định mức thuế cho các mặt hàng một cách thống nhất, ngoài ra phục vụ cho các mục đích thống kê, phân tích, đánh giá việc thực hiện CEPT- AFTA, cũng như tình hình xuất nhập khẩu nội khối, các nước đã quyết định sẽ thống nhất một biểu thuế quan trong khối ASEAN ở mức 8 chữ số theo Hệ thống điều hoà của Hội đồng hợp tác hải quan thế giới(HS). Hiện nay biểu thuế quan chung của ASEAN đã được xây dựng và hoàn thành trong năm 2000 và được áp dụng từ năm 2000, những nước nào chậm nhất cũng phải áp dụng từ năm 2002. Thống nhất hệ thống tính giá hải quan: Vào năm 2000, các nước thành viên ASEAN đã thực hiện phương pháp xác định trị giá hải quan theo GATT- GTV (GATT Transactions Value), thực hiện điều khoản VII của Hiệp định chung về thương mại và thuế quan 1994 ( Hiện nay là Tổ chức thương mại thế giới WTO) để tính giá hải quan. Một cách tóm tắt là giá trị hàng hoá để tính thuế xuất nhập khẩu là giá trị giao dịch thực tế giữa người xuất khẩu và ngưòi nhập khẩu, không phải là do nhà nước áp đặt. Xây dựng Hệ thống Luồng xanh hải quan: Hệ thống này được thực hiện từ 1/1/1996 nhằm đơn giản hoá hệ thống thủ tục hải quan dành cho các hàng hoá thuộc diện được hưởng ưu đãi theo Chương trình CEPT của ASEAN. Thống nhất thủ tục hải quan: Hai vấn đề đã được các nước thành viên ưu tiên trong việc thống nhất thủ tục hải quan là : + Mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hoá thuộc diện CEPT: Các nước ASEAN đã gộp ba loại tờ khai hải quan: Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) Mẫu D, Tờ khai hải quan xuất khẩu và Tờ khai hải quan nhập khẩu lại thành một mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hoá thuộc diện CEPT. + Thủ tục xuất nhập khẩu chung: bao gồm những vấn đề sau: · Các thủ tục trước khi nộp tờ khai hàng hoá xuất khẩu; · Các thủ tục trước khi nộp tờ khai hàng hoá nhập khẩu; · Các vấn đề về giám định hàng hoá; · Các vấn đề về gửi hàng trong đó giấy chứng nhận xuất xứ được cấp sau và có hiệu lực hồi tố; · Các vấn đề liên quan đến hoàn trả... 2, Qúa trình tham gia khu vực Mậu dịch Tự do Asean (AFTA) và lịch trình giảm thuế của Việt Nam theo CEPT/AFTA Tháng 7/1995 Việt Nam chính thức trở thành hội viên của Asean và tham gia ngay vào chương trình thực hiện AFTA a. Những yêu cầu của CEPT -AFTA đối với Việt Nam: Căn cứ theo quy định của Hiệp định CEPT và thoả thuận giữa Việt nam và các nước thành viên khác của ASEAN, chương trình giảm thuế nhập khẩu theo CEPT của Việt Nam bắt đầu được thực hiện từ 1/1/1996 và hoàn thành vào 1/1/2006 để đạt được mức thuế suất cuối cùng là 0-5%, chậm hơn các nước thành viên khác 3 năm. Các bước cụ thể để thực hiện mục tiêu này bao gồm: • Xác định danh mục các mặt hàng thực hiện giảm thuế theo CEPT gồm: danh mục giảm thuế ngay (IL), danh mục loại trừ tạm thời (TEL), danh mục hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL), danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL). • Các mặt hàng thuộc danh mục IL sẽ bắt đầu giảm thuế từ 1/1/1996 và kết thúc với thuế suất 0-5% vào 1/1/2006. Các mặt hàng có thuế suất trên 20% phải giảm xuống 20% vào 1/1/2001. Các mặt hàng có thuế suất nhỏ hơn hoặc bằng 20% sẽ giảm xuống 0-5% vào 1/1/2003. • Các mặt hàng thuộc danh mục TEL sẽ được chuyển sang danh mục IL trong vòng 5 năm, từ 1/1/1999 đến 1/1/2003, mỗi năm chuyển 20%, để thực hiện giảm thuế với thuế suất cuối cùng là 0-5% vào năm 2006. Đồng thời, các bước giảm sau khi đưa vào IL phải được thực hiện chậm nhất là 2-3 năm một lần và mỗi lần giảm không ít hơn 5%. • Các mặt hàng thuộc danh mục SL sẽ bắt đầu giảm thuế từ 1/1/2004 và kết thúc vào 1/1/2013 với thuế suất cuối cùng là 0-5%. Riêng mặt hàng đường vào năm 2010 :0-5%. • Các mặt hàng đã đưa vào chương trình giảm thuế và được hưởng nhượng bộ thì phải bỏ ngay các quy định về hạn chế số lượng (QRs) và bỏ dần các biện pháp hạn chế phi quan thuế khác (NTBs) 5 năm sau đó. b. Tiến trình thực hiện CEPT của Việt Nam: * Nguyên tắc xây dựng phương án tham gia của Việt nam : - Không gây ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách - Bảo hộ hợp lý cho nền sản xuất trong nước - Tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho nền sản xuất trong nước - Hợp tác với các nước ASEAN trên cơ sở các qui định của Hiệp định CEPT để tranh thủ ưu đãi, mở rộng thị trường cho xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. * Lộ trình cắt giảm thuế : - Năm 1996 Việt nam đã công bố cho ASEAN các loại Danh mục: Danh mục cắt giảm thuế IL; Danh mục loại trừ tạm thời TEL; Danh mục hàng nông sản chưa chế biến nhậy cảm SL và Danh mục loại trừ hoàn toàn GEL; Cụ thể: Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL): Danh mục này được xây dựng phù hợp với Điều 9 của Hiệp định CEPT và bao gồm những nhóm mặt hàng có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, cuộc sống và sức khoẻ của con người, động thực vật, đến các giá trị lịch sử, nghệ thuật, khảo cổ như các loại động vật sống, thuốc phiện, thuốc nổ, vũ khí,... Danh mục này chiếm 6,6% tổng số nhóm mặt hàng của Biểu thuế nhập khẩu, và là các mặt hàng cụ thể như sau: • Thuốc phiện và các chế phẩm từ thuốc phiện, xì gà, thuốc lá và rượu bia thành phẩm; • Các loại xỉ và tro; • Các loại xăng dầu (trừ dầu thô); • Các loại thuốc nổ, thuốc phóng, các loại pháo; • Các loại lốp bơm hơi cũ; • Các loại thiết bị điện thoại, điện báo hữu tuyến, vô tuyến, các loại thiết bị ra đa, các loại máy thu sóng dùng cho điện thoại, điện báo...; • Các loại ô tô dưới 16 chỗ ngồi, các loại ô tô và phương tiện tự hành có tay lái nghịch; • Các loại vũ khí, khí tài quân sự; • Các loại văn hoá phẩm đồi truỵ, phản động, đồ chơi cho trẻ em có ảnh hưởng xấu đến giáo dục và trật tự an toàn xã hội; • Các loại hoá chất, dược phẩm độc hại, các chất phế thải, đồ tiêu dùng đã qua sử dụng;... Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL): Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm của Việt nam bao gồm 26 nhóm mặt hàng, chiếm 0,8% tổng số nhóm mặt hàng của Biểu thuế nhập khẩu và là những mặt hàng cụ thể như: thịt, trứng gia cầm, động vật sống, thóc, gạo lứt,..., được xây dựng căn cứ vào yêu cầu bảo hộ cao của sản xuất trong nước đối với một số mặt hàng nông sản chưa chế biến và theo đề nghị của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đồng thời trên cơ sở tham khảo Danh mục này của các nước ASEAN khác. Các mặt hàng này đang được áp dụng các biện pháp phi thuế quan như quản lý theo hạn ngạch hàng tiêu dùng, quản lý của Bộ chuyên ngành. Danh mục cắt giảm thuế ngay (IL): Danh mục này chủ yếu bao gồm những mặt hàng trong Biểu thuế hiện đang có thuế suất dưới 20% - là những mặt hàng thuộc diện có thể áp dụng ưu đãi theo CEPT ngay và một số mặt hàng tuy có thuế suất cao nhưng Việt nam lại đang có thế mạnh về xuất khẩu. Tổng số nhóm mặt hàng trong Danh mục cắt giảm thuế quan là 1661, chiếm 51,6% tổng nhóm mặt hàng trong Biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam. Tỷ lệ này thấp hơn so với các nước thành viên ASEAN khác khi họ bắt đầu thực hiện chương trình CEPT, nhưng đây là biện pháp an toàn nhất đối với Việt Nam. Danh mục loại trừ tạm thời (TEL): Danh mục này chiếm khoảng 40,9% tổng số các dòng thuế trong Biểu thuế nhập khẩu và chủ yếu là những mặt hàng sau: • Các loại ô tô (trừ các loại ô tô dưới 16 chỗ ngồi); • Xe đạp, các loại đồ chơi trẻ em; • Các loại máy gia dụng (như máy giặt, máy điều hoà, quạt điện,...); • Các loại mỹ phẩm và đồ dùng không thiết yếu; • Các loại vải sợi và một số đồ may mặc; • Các loại sắt, thép; • Các sản phẩm cơ khí thông dụng;... Đây chủ yếu là các mặt hàng có thuế suất trên 20% và một số mặt hàng tuy có thuế suất thấp hơn 20% nhưng trước mắt cần thiết phải bảo hộ bằng thuế nhập khẩu, hoặc các mặt hàng đang được áp dụng các biện pháp phi thuế quan như các biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu, hàng phải có giấy phép của Bộ quản lý chuyên ngành, hàng phải qua kiểm tra nhà nước về chất lượng, hàng phải qua kiểm tra về vệ sinh dịch tễ và hàng phải qua kiểm tra về an toàn lao động. Ngoài ra theo quy định của CEPT, những mặt hàng nào của nước thành viên ASEAN công bố cắt giảm thuế quan và hưởng thuế suất ưu đãi từ các nước thành viên khác thì đồng thời cũng phải loại bỏ ngay các hạn chế về định lượng và trong thời hạn 5 năm sau đó, thực hiện loại bỏ các biện pháp hạn chế nhập khẩu thông qua các hàng rào phi thuế quan khác. Việc Việt nam chưa đưa các mặt hàng này vào Danh mục cắt giảm thuế quan sẽ cho phép chúng ta có thêm 5 năm (kể từ năm mặt hàng được chuyển sang Danh mục cắt giảm cho tới khi phải loại bỏ các biện pháp hạn chế phi thuế quan) để hỗ trợ các ngành sản xuất và các doanh nghiệp trong nước làm quen dần với môi trường cạnh tranh. Đây là khoảng thời gian cần thiết để hỗ trợ cho các ngành sản xuất trong nước và tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong nước làm quen dần với môi trường cạnh tranh, thúc đẩy đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động để nền kinh tế phát triển có hiệu quả hơn. - Đầu năm 1998, Việt Nam công bố lịch trình giảm thuế để thực hiện AFTA vào năm 2006. Trên thực tế thì đến cuối năm 2002, 5.500 mặt hàng (chiếm khoảng 86% tổng số mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu) đã được vào chương trình cắt giảm. Toàn bộ các mặt hàng này đã ở thuế suất dưới 20% và có lộ trình cắt giảm trong thời kỳ 2002-2006. Trong số đó, 65% đã ở mức thuế 0-5%. - Theo đúng lộ trình thì việc cắt giảm thuế tham gia AFTA đã được áp dụng chính thức tại Việt Nam từ ngày 1/1/2003. Tuy nhiên, ngày 10/1/2003, Bộ Tài chính đã thông báo việc cắt giảm đó sẽ được thực hiện lùi lại 7 tháng, vào ngày 1/7.Đến ngày 1/7, 1.416 mặt hàng thuộc TEL được chuyển sang IL, 755 mặt hàng cắt giảm ngay trong năm 2003. Việc thực hiện cắt giảm thuế CEPT/AFTA của VN được thể hiện trong Lộ trình cắt giảm thuế CEPT/AFTA năm 2003-2006, bắt đầu từ ngày 1/7/2003. Với Lộ trình này, 73,6% số dòng thuế sẽ có mức thuế suất 0-5% vào năm 2003, 84,3% số dòng thuế có thuế suất 0-5% vào năm 2005, 100% số dòng thuế có thuế suất 0-5% và 53,6% số dòng thuế có thuế suất 0% vào năm 2006. - Hiện nay, Việt Nam đã thực hiện xong các cam kết của AFTA. 3. Những thách thức và những cơ hội của Việt Nam tham gia vào AFTA: 3.1.Thuận lợi : * Tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước trong khu vực và trên thế giới: Asean với thị trường gồm 11 nước thành viên có hơn 550 triệu dân đây là thị lớn trên thế giới. Khi Việt Nam tham gia vào Chương trình cắt giảm thuế CEPT, thì các doanh nghiệp Việt Nam khi XK sang các nước Asean cũng được hưởng thuận lợi vì hàng rào bảo hộ mậu dịch ở các nước cũng cắt giảm tương ứng, giúp hàng hoá của VN rẻ hơn, sức cạnh tranh tăng lên. Ngoài ra, là thành viên của AFTA, VN có thêm điều kiện để tăng cường buôn bán với các nước trên thế giới. Tóm lại, thị trường Xk mở rộng kích thích các nhà doanh nghiệp VN tăng cường đầu tư phục vụ cho sản xuất hàng XK. * Đẩy mạnh quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới: Sau bao nhiêu năm VN thực hiện chính sách hướng nội “ đóng cửa kinh tế” đeo đuổi nền kinh tế phi thị trường , quản lý nền kinh tế dựa trên nền tảng: kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp. Việc gia nhập Asean, tham gia xây dựng AFTA giúp VN tăng tốc độ chuyển đổi nền kinh tế sang thị trường, thực hiện chính sách: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng về XK”. Thật vậy, mới gia nhập Asean trên 13 năm mà nền kinh tế VN có sự chuyển hướng mạnh sang nền kinh tế thị trường, biểu hiện: xây dựng hệ thống pháp lý tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ: Luật đầu tư, Luật thương mại, Luật bảo hiểm…tạo hành lang pháp lý cho kinh tế thị trường phát triển. Cơ chế quản lý kinh tế có sự hoàn thiện đổi mới phù hợp với các chuẩn mực khu vực và quốc têa: quy chế về hải quan, biểu thuế XNK, thuế VAT, cơ chế quản lý đầu tư nước ngoài, về chế độ hạch toán kế toán. Bộ máy quản lý nhà nước đựoc hoàn thiện theo hướng gọn nhẹ, năng động, cải cách hành chính đã tạo thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế.. Khi gia nhập AFTA, VN sẽ có thế hơn trong đàm phán thương mại song phương và đa biên với các cường quốc kinh tế, cũng như các tổ chức thương mại quốc tế lớn như Mỹ, Nhật, EU… * Tuy có những trùng lặp giữa VN và các nước ASEAN, nhưng có nhiều lĩnh vực mà VN có thể khai thác từ thị trường các nước ASEAN như VN có thế mạnh trong xuất khẩu nông sản, hàng dệt và may mặc, và ta cũng có nhu cầu nhập nhiều mặt hàng từ các nước ASEAN với giá thấp hơn từ các khu vực khác trên thế giới. * Kích thích mạnh mẽ Việt Nam thay đổi cơ cấu kinh tế: Đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá phục vụ cho XK: Quy chế của CEPT trước hết cắt giảm thuế mạnh ở các mặt hàng công nghiệp chế biến. Trong khi đó, tổng kim ngạch XK của VN trong năm 1996(năm VN bắt đầu thực hiện CEPT) tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến mới đạt 18%, nông sản, thuỷ sản ít qua chế biến 48%, nhiên liệu 34%. Nếu tiếp tục duy trì cơ cấu XK như hiẹn nay, VN sẽ hưởng lợi rất ít khi XK sang các nước thành viên Asean. Cho nên, tham gia thực hiện Chương trình CEPT tạo điều kiện kích thích VN thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng nâng cao tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến hàng XK. * Góp phần tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp: Tham gia vào AFTA, với thời gian những hàng rào mậu dịch được rỡ bỏ dần dần, nền kinh tế sẽ phải đối đầu với cạnh tranh. Hơn nữa sự cạnh tranh này là sự cạnh tranh khốc liệt, vì đa số các nước Asean có lợi thế so sánh tương tự như VN, cho nên cơ cấu sản phẩm XK của họ gần tương tự như VN. Cho nên muốn trụ được và thắng thế trong cạnh tranh trong môi trường kinh doanh chung AFTA buộc các doanh nghiệp VN phải hoàn thiện sản phẩm, đầu tư đổi mới trang thiết bị và công nghệ để tạo sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, để các sản phẩm VN chẳng những chiếm lĩnh được thị trường nội địa mà còn XK thuận lợi sang thị trường các nước Asean và các nước khác trên thế giới. * Người tiêu dùng được hưởng lợi do giá cả rẻ hơn và chủng loại hàng hoá phong phú hơn. * Thu hút vốn đầu tư, tiếp thu công nghệ, tận dụng nhân công, sử dụng vốn và kỹ thuật cao trong khu vực: Theo nghiên cứu của nhóm chuyên gia kinh tế có uy tín, dưới tác động của AFTA trong thời gian tới sẽ có sự chuyển dịch vốn đầu tư vào các ngành sử dụng nhiều công nhân như ngành dệt, may mặc, sản xuất giày dép, chế biến gỗ, lắp ráp hàng điện - điện tử từ những nước nguồn nhân lực còn thiếu va đắt trong khối như Malaysia, Thái Lan, Philippiné…sang VN 3.2. Khó khăn : - Lợi ích trực tiếp của nhà nước là nguồn thu ngân sách về thuế xuất nhập khẩu giảm. - Đa số các doanh nghiệp VN vừa và nhỏ, sức cạnh tranh yếu. Việc tham gia dẫn tới sự xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi quan thuế, nghĩa là xoá bỏ sự bảo hộ của chính phủ đối với các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải tham gia thật sự vào cuộc chơi cạnh tranh khốc liệt trên thị trường khu vực : cạnh tranh thúc đẩy sản cuất phát triển, nhưng đồng thời có thể làm điêu đứng và phá sản hàng loạt các doanh nghiệp, thậm chí hàng loạt ngành. Dẫn tới việc thay đổi cơ cấu kinh tế. Đây là vấn đề nan giải đối với các doanh nghiệp Việt Nam. - Nền kinh tế trong nước dễ bị tác động xấu bởi sự biến động không thuận lợi của các nứoc trong khu vực( khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước Asean 1997 – 1998 đã tác động rất mạnh mẽ đến sản xuất và XK của VN). - Các nước Asean có những lợi thế tương đồng giống VN do vậy việc hợp tác thông qua sự phân công lao động trở nên khó khăn phức tạp và mang tính cạnh tranh gay gắt hơn. Vì thế trong cạnh tranh của VN thấp hơn so với nhiều nước Asean khác vì vốn và công nghệ cao hơn ta, thêm vào đó các nước lại mở cửa kinh tế trước VN cho nên kinh nghiệm đối phó với cạnh tranh và thâm nhập thị trường quốc tế nhiều hơn so với các doanh nghiệp VN. - Cơ cấu hàng XK VN hiện nay chủ yếu là nông sản chưa qua chế biến. Đây là những mặt hàng giảm thuế chậm, trong khi đó những mặt hàng công nghiệp, xuất nguyên liệu là những mặt hàng giảm thuế nhanh lại là sản phẩm XK của các nước AFTA khác và là sản phẩm NK của VN. - Cạnh tranh gay gắt trong thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà nhiều nước trong khu vực đã vực dậy sau cơn khủng hoảng. Tóm lại gia nhập AFTA là bước tập duyệt đầu tiên cho nền kinh tế và các doanh nghiệp VN để chuẩn bị cho sự gia nhập thị trường thế giới rộng lớn và đầy sự cạnh tranh hơn. 4. Giải pháp: Sự hội nhập buộc Chính phủ VN phải làm nhiều nỗ lực trong việc cải cách chính sách, đặc biệt là chính sách thuế. Bởi lẽ, chính sách này liên quan đến nhiều mặt kinh tế xã hội, không những đến sự củng cố nguồn lực tài chính công, kích thích tăng trưởng kinh tế mà còn góp phần tăng cường khả năng cạnh tranh và hội nhập của nền kinh tế. a. Những khó khăn và thử thách: Theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế, việc nghiên cứu hoà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21807.doc
Tài liệu liên quan